“Những vấn đề văn hóa học lý luận và ứng dụng” (675 trang) là cuốn sách mới của GS. TSKH. Trần Ngọc Thêm, do Nxb Văn hóa - Văn nghệ Tp. Hồ Chí Minh xuất bản năm 2013. Đây cũng là cuốn sách mở đầu cho “Tủ sách văn hóa học Sài Gòn” do Trung tâm Văn hóa học Lý luận và Ứng dụng thuộc Trường Đại học KHXH & NV (ĐHQG Tp. Hồ Chí Minh) chủ trương (Lễ ra mắt Trung tâm và Tủ sách này đã được tổ chức long trọng tại Trường Đại học KHXH & NV ở Tp. Hồ Chí Minh vào ngày 22-4-2013[1]).
Xuất thân là một nhà nghiên cứu ngôn ngữ và ngôn ngữ học, nhưng GS. Trần Ngọc Thêm lại được biết đến nhiều hơn với vai trò là người tiên phong đặt nền tảng và xây dựng ngành Văn hóa học tại Việt Nam. Khởi nguồn từ giáo trình “Cơ sở văn hóa Việt Nam” dành cho sinh viên tất cả các trường đại học, cao đẳng trong cả nước công bố chính thức lần đầu năm 1995, GS.TSKH. Thêm tiếp tục khẳng định niềm đam mê và tình yêu dành cho văn hóa học với tác phẩm “Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam” (xuất bản lần đầu năm 1996); hai cuốn sách này đã tạo được dấu ấn sâu sắc không chỉ với những người học đại học và sau đại học mà còn với độc giả cả nước và những người quan tâm đến văn hóa Việt Nam ở nước ngoài. Trong khoảng thời gian đó, GS. Trần Ngọc Thêm cũng trở thành người đi đầu trong việc tạo dựng nền tảng vững chắc về học thuật, là người lãnh đạo đầy tâm huyết trong việc thành lập và phát triển ngành Văn hóa học như một bộ môn độc lập tại Việt Nam.
Nghiên cứu văn hóa và những ứng dụng thực tiễn
Ngay từ tên gọi của cuốn sách, công trình “Những vấn đề văn hóa học lý luận và ứng dụng” của GS. Trần Ngọc Thêm đã nêu bật trọng tâm học thuật mà tác giả quan tâm là mối quan hệ giữa lý luận và ứng dụng thực tiễn của văn hóa học. Quyển sách được chia thành bốn phần theo hai trục chính: dù là văn hóa Việt Nam hay thế giới cũng đều không nằm ngoài hai trục lý luận và ứng dụng thực tiễn. Mà thực ra hai phương diện này luôn gắn bó, quyện lẫn vào nhau: Trong lý luận cũng thấy rõ những ứng dụng, và ngược lại, trong ứng dụng cũng luôn hiển hiện những vấn đề lý luận.
Ai đó đã nói một câu rất hay: Nếu đi đến tận cùng của ứng dụng thực tiễn thì chúng ta sẽ thấy được lý luận. Trong cuốn sách này, tác giả đã cho người đọc thấy khả năng ứng dụng thực tiễn rất rộng lớn của nghiên cứu văn hóa, vấn đề là, chúng ta ứng dụng nó như thế nào và hiệu quả của việc ứng dụng đó ra sao.
Với quan điểm văn hóa là một hệ thống, do vậy cần nhìn nhận, nghiên cứu và ứng dụng nó như là một hệ thống, tác giả đã gợi mở cho người đọc nhiều vấn đề có ý nghĩa thực tiễn. Thực tế cho thấy, có rất nhiều chính sách và các biện pháp của chúng ta trong điều hành kinh tế, xã hội và văn hóa không đạt được hiệu quả và mang tính khả thi cao, đây là một phần kết quả của việc không quan tâm đúng mức đến tính hệ thống của các mối quan hệ.
Trong quá trình nghiên cứu học thuật, người nghiên cứu phải luôn tự rèn luyện cho mình cách tư duy hệ thống, tức là nhìn sự vật và hiện tượng không phải như cái đơn nhất, mà là như một hệ thống các yếu tố hợp thành và giữa các yếu tố này có những mối liên hệ hữu cơ với nhau. Tuy nhiên, trong nghiên cứu văn hóa ở nhiều nơi, cách nhìn hệ thống đôi khi còn cứng nhắc. Thực tế cho thấy, mô hình hệ thống và cấu trúc luôn luôn phải là hệ thống cấu trúc “mở” và “mềm”, tránh coi hệ thống như là những “ô thuốc bắc”, còn thực tiễn là thứ mà chúng ta tùy tiện “bốc” cho vào các ô này hay ô kia của hệ thống mà ta dựng lên. Thí dụ một thời, không ít nhà nghiên cứu tiếp nhận quan điểm coi văn hóa là một hệ thống “lưỡng phân lưỡng hợp” (dualism), từ đó áp dụng vào thực tiễn cái gì cũng là lưỡng phân lưỡng hợp. Hay là lý thuyết âm dương phồn thực từ đó nhìn mọi hiện tượng theo xu hướng “phồn thực hóa”…
Bởi vậy mà tôi đánh giá rất cao cách nhìn “động” của tác giả “Những vấn đề văn hóa học lý luận và ứng dụng” khi xem xét văn hóa không chỉ ở việc phân chúng thành các yếu tố, các hợp phần khác nhau mà còn phát hiện ra mạng lưới các mối quan hệ đa chiều giữa chúng, mà chính ở đó mới thể hiện được bản chất của văn hóa. Đó cũng chính là bản chất của cách tiếp cận mà người ta gọi là “cấu trúc luận” trong nghiên cứu vạn vật.
Loại hình văn hóa, tính cách văn hóa, truyền thống văn hóa
Trong một bố cục hoàn chỉnh, tác phẩm “Những vấn đề văn hóa học lý luận và ứng dụng” đã cho thấy văn hóa gắn bó mật thiết với môi trường tự nhiên, không gian địa lý và không gian văn hóa. Trong nhân học thế giới từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đã xuất hiện lý thuyết về “Loại hình văn hóa” như kết quả của mối quan hệ và giao lưu văn hóa giữa cư dân của các tộc người và bộ lạc khác nhau trong một không gian địa lý nhất định (C.L. Wissler) hay lý thuyết về “các loại hình kinh tế - văn hóa” (M.G. Levin, N.N. Cheboksarov), cắt nghĩa hiện tượng đồng quy văn hóa.
Phát triển hướng nghiên cứu này, GS. Trần Ngọc Thêm đã phân chia các nền văn hóa thành ba loại hình và gọi chúng theo tiêu chí cơ bản: “loại hình văn hóa trọng tĩnh”, “loại hình văn hóa trọng động”, và “loại hình văn hóa trung gian”. Ứng với mỗi loại hình văn hóa, có thể chỉ ra một khu vực văn hóa tiêu biểu: đại diện tiêu biểu cho loại hình trọng tĩnh là khu vực Đông Nam Á, cho loại hình trọng động là khu vực phương Tây, và cho loại hình trung gian là khu vực Tây Nam Á (mà tác giả gọi là tiểu loại hình “trung gian trọng tâm linh”) và Đông Bắc Á (mà tác giả gọi là tiểu loại hình “trung gian trọng thế tục”). Từ loại hình văn hóa chi phối “tính cách văn hóa”, và tới lượt mình, tính cách văn hóa tạo nên “truyền thống văn hóa”.
Trên cơ sở một hệ thống lý thuyết như vậy, tác giả đã tập trung nghiên cứu kỹ tiểu loại hình “trung gian trọng thế tục” mà đại diện là khu vực Đông Bắc Á. Tác giả đã chỉ ra được những khác biệt cũng như tương đồng mang tính loại hình giữa các nền văn hóa Việt Nam, Hàn Quốc, Nhật Bản và Trung Quốc với những phân tích sâu sắc, khách quan. Lâu nay, các nhà nghiên cứu văn hóa thường nói văn hóa các nước Đông Á (Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Việt Nam …) là đồng văn theo nghĩa chúng đều nằm trong vùng ảnh hưởng của văn hóa Hoa Hạ, trong đó văn hóa Hoa Hạ là trung tâm và các nền văn hóa còn lại là ngoại vi. Tuy nhiên, xét về loại hình văn hóa và cội nguồn thì chúng lại rất khác nhau: Văn hóa Việt Nam về cội nguồn và về loại hình cơ bản là văn hóa Đông Nam Á, nhưng về thượng tầng thì chịu ảnh hưởng của văn hóa Đông Á (Trung Hoa), do vậy, xét về tọa độ văn hóa thì văn hóa Việt Nam phải được xem là cầu nối giữa văn hóa Đông Nam Á và văn hóa Đông Á.
Tác giả “Những vấn đề văn hóa học lý luận và ứng dụng” cũng thể hiện được thế mạnh của mình khi phân tích vấn đề bản sắc văn hóa Việt Nam và hệ giá trị văn hóa truyền thống. Sau tác phẩm “Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam”, tác giả đã phân tích bổ sung thêm những trường hợp cụ thể về tính cách người Hà Nội như một điểm giao lưu tiếp biến điển hình, tính cách văn hóa Tây Nam bộ như một vùng văn hóa độc lập, văn hóa biển đảo Việt Nam như một kiểu văn hóa sinh thái, văn hóa hiện đại sau 1975 và văn hóa người Việt ở nước ngoài… là những nội dung chưa được đề cập hoặc đề cập còn sơ lược trong cuốn sách xuất bản trước đây của mình.
“Những vấn đề văn hóa học lý luận và ứng dụng” với sự phát triển của ngành văn hóa học
Nhìn chung, những đóng góp về phương diện học thuật, về phương pháp nghiên cứu lý thuyết và ứng dụng thực tiễn mà cuốn sách này mang đến là vô cùng to lớn, nó không chỉ giúp người nghiên cứu tiếp cận những vấn đề liên quan đến văn hóa một cách hệ thống mà còn góp phần khẳng định sự tồn tại và phát triển mạnh mẽ của ngành học này trong tương lai, ở Việt Nam cũng như toàn thế giới.
Với tính cách là một công trình nghiên cứu, một giáo trình văn hóa học, thực sự công trình này sẽ mang lại lợi ích cho việc nghiên cứu và đào tạo bộ môn văn hóa học còn rất non trẻ của Việt Nam. Điều này càng trở nên cấp thiết khi mà trên phạm vi thế giới cũng như ở Việt Nam các nhà nghiên cứu văn hóa vẫn còn băn khoăn có thật sự tồn tại văn hóa học (Culturology) như là một bộ môn khoa học độc lập hay chỉ là những nghiên cứu văn hóa mang tính liên ngành (Cultural Studies)? Từ đó hàng loạt vấn đề đặt ra: Văn hóa là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học, vậy văn hóa học (Culturology) tiếp cận văn hóa từ góc độ nào? Hệ thống lý luận và phương pháp nghiên cứu đặc thù của nó là gì? Mối quan hệ của nó với các khoa học kế cận, đặc biệt là với nhân học văn hóa (Cultural Anthroplogy) là gì?...
Tuy những vấn đề lý luận cũng như ứng dụng thực tiễn của văn hóa học ở Việt Nam và các nước Đông Á có thể còn nhiều điều cần được tiếp tục thảo luận, song việc gắn lý luận với ứng dụng thực tiễn văn hóa, gắn nghiên cứu văn hóa với loại hình văn hóa, tính cách văn hóa và truyền thống văn hóa luôn là ý thức thường trực của tác giả. Điều đó làm nên tính thiết thực, hấp dẫn và là một thế mạnh của công trình này.
Tôi tin rằng công trình này cùng với các tác phẩm xuất bản trước kia của GS. Trần Ngọc Thêm sẽ góp phần khẳng định vị trí khoa học của bộ môn nghiên cứu và giảng dạy văn hóa học tại các trường đại học cũng như con đường phát triển rộng mở của ngành học này ở Việt Nam.