Về mặt sinh học, ai sống cũng cần ăn, muốn có ăn phải lao động. Tuy nhiên, lao động là cách thức, phương tiện, không phải mục đích. Con người lao động để sống, chứ không sống để lao động. Họ tồn tại là để hưởng thụ, để làm cho đời sống ý nghĩa.
Học thuyết mác-xít chỉ trích tư bản bóc lột giá trị thặng dư của người ăn lương. Người lao động có thể đủ ăn mà không đủ sống. Thân phận họ vừa là cái máy kiếm tiền (đầu ra) của tư bản công nghiệp, vừa là cái máy tiêu tiền (đầu vào) của tư bản tài chính. Họ rốt cuộc vẫn là công cụ trong cơ chế để nhà tư bản thâu tóm lợi nhuận. Mâu thuẫn, bất công xã hội bắt nguồn từ vị trí hoặc chỗ đứng, trong đó số đông là tầng lớp người vô sản.
Bóc lột là hệ quả của hoạt động tổ chức[1], tức là do cơ chế. Mác nói: “Không có chế độ làm công ăn lương, không có tư bản, không có giai cấp tư sản, không có xã hội tư bản”. Bóc lột xã hội, theo học thuyết Mác, là sự lạm dụng và cưỡng đoạt trong các quan hệ xã hội, nhất là đối với người lao động.
Nếu con-người-sinh-học biểu hiện dễ thấy bên ngoài, thì con-người-tâm-lý biểu hiện tiềm ẩn bên trong. Tâm lý có gốc tiếng Hy Lạp psukhê, nghĩa là tâm hồn. Đó là toàn thể các cách thức suy nghĩ, cảm nhận, hành động làm nên đặc điểm con người.
Tuy nhiên, nhận thức và hành vi không tự thân vận động theo một khuôn khổ có sẵn hoặc phục tùng các quy luật, trật tự áp đặt của cơ chế. Con người hoạt động tự do và có mục đích. Họ nhận biết mọi chuyện thông qua đời sống thực tiễn. Chẳng hạn, động cơ người lao động trước hết là kiếm ăn; mục đích lao động không chỉ giản đơn quy về tiền lương, tiền thưởng, mà phải làm sao cho họ có hứng thú; nhưng con người chỉ hứng thú khi được đáp ứng các nhu cầu[2]. Lương, do đó, mới là điều kiện cần mà chưa đủ.
Giả sử S (stimulus) là tác nhân kích thích của “giá cả”, động cơ và động lực lao động theo tiêu chuẩn, thang bậc xã hội thì R (réponses) là mức độ đáp ứng các nhu cầu bằng tiền lương, tiền thưởng. Cơ chế O (organisme) đặt ra để điều tiết, phân phối tiền lương nói chung, thông qua các định mức, thang, bậc. Hệ quả là tiền lương từ quan hệ trực tiếp (S → R) biến thành gián tiếp, phụ thuộc vào cơ chế.
Nếu theo chiều thuận (S → O → R) thì O sẽ căn cứ vào S để định mức R khác nhau, trong đó vừa bảo đảm để người ăn lương “kiếm ăn” được ở mức tối thiểu hoặc có thể chấp nhận được gọi là tiền lương, vừa đáp ứng các yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng, trang bị, quy chế ưu đãi, môi trường làm việc, cơ hội thăng tiến, nhằm tạo nên tư thế, tư cách của người ăn lương thông qua các chế độ phụ cấp, trợ cấp. Tiền lương, do đó, là bộ phận của chế độ lao động, tùy thuộc vào giá cả lao động và vị trí xã hội của người lao động.
Trong trường hợp biến động theo chiều nghịch (R → O → S), O phải dựa vào R để tính S, nhằm bảo đảm năng suất, chất lượng, động lực và hứng thú của người ăn lương, gọi là tiền thưởng. Tiền thưởng là bộ phận không tách rời tiền lương. Khác với tiền lương được trả thường xuyên theo giờ, ngày, tuần, quý hoặc phổ biến là lương tháng, tiền thưởng trả định kỳ hàng năm, thực chất là tiền bù vào lương nên còn gọi là lương năm, như tiền thưởng cuối năm hoặc lương tháng 13.
Cơ chế, như vậy, phải bảo đảm vận dụng linh hoạt, đầy đủ cả hai nguồn lực S và R. Nếu triệt tiêu S, người ăn lương thiếu tác nhân kích thích, bị bóc lột, bần cùng hóa; nếu cắt giảm R, người ăn lương bị mất nguồn sống, có thể sa vào trạng thái tâm lý, mất hết hứng thú, làm sai lệch động cơ lao động. Mặt khác, cũng không thể phân biệt coi R là vật chất nên phải tính toán chi li, còn S là tinh thần chỉ cần động viên hời hợt. Giữa chúng có tương quan mật thiết của động cơ, động lực, và ảnh hưởng tác động lẫn nhau.
Trên thực tế, người ăn lương ít khi được đối xử tử tế. Người ta thường chú ý R theo từng mức độ thang, bậc của người “kiếm lương”, mà xem nhẹ, tách rời kể cả hình thức hóa S vốn là nguồn năng lượng, động cơ của người lao động “kiếm sống”. Từ đó, R không còn là công cụ, cán cân trọng lực giữ thăng bằng giữa S và R, mà trở thành cái máy chủ vô hồn (O → R, O → S). Con người khốn khổ bị cơ chế xoay vần, trong đó người lao động khó thấy ai là người trả lương để tận tâm tận lực, còn người sử dụng lao động thấy mình không thể vô can nên không ít lần “kêu trời”, đổ tội thiếu cơ chế.
Sapir kể ra ba trường hợp về “chuyện kiếm sống”. Nhân vật A, nhà giáo thực thụ của một trường đại học, kiếm được 1500 đô la/năm; nhà nông B có thu nhập 500 đô la/năm; còn đại gia C dựa thế ông chủ nhà băng X, cổ đông công ty Y, đại lý đặc quyền hãng dầu lửa Z thu nhập 500000 đô la/năm.
Nhà kinh tế nhìn con người (Homo œconomicus) theo cơ chế kinh tế đơn thuần: cân đối cầu các dịch vụ mà A mang lại, đáp ứng cung với biểu giá làm cho A bằng lòng; thu nhập B nằm trong giới hạn của thế giới nông nghiệp; còn C mang đến các dịch vụ mà xã hội yêu cầu, nên nhận tiền lương hậu hỉ được xã hội “chấp nhận”.
Tuy nhiên, đây không giản đơn là chuyện bảo đảm tiền lương tương ứng với hoạt động phục vụ. Sapir cho rằng kinh tế mô tả rất hay các thao tác kỹ thuật diễn ra trong “lĩnh vực kinh tế”, nhưng không mang đến cách nhìn cụ thể về con người trong hoạt động kiếm sống, mà theo ông, phần “sống” trong hoạt động này không liên quan đến nhà kinh tế[3].
Nhà kinh tế khéo léo sắp đặt A, B, C vào các tọa độ (coordonnées) không gian và thời gian để tự cân đối một số yếu tố cung – cầu của quy luật kinh tế; còn sau đó ra sao để cho họ tự lo, vì khi đó không còn là “khoa học”. Cũng giống như các chuyên gia ngành khoa học nhân văn chỉ nghĩ đến khoa học mà ít quan tâm đến con người.
Ở góc độ con người (Homo humanus), nhà nhân học văn hóa cho rằng tiền lương 500 đô la/năm không ngăn được B tìm cách kiếm 5000 đô la thay thế cho thu nhập khốn khó. Còn nhà giáo đại học, với tiền lương khiêm tốn 1500 đô la, không đủ để đi xem hát Opéra. Song người ta kháo nhau rằng họ được bảo đảm cuộc sống đạm bạc để lo hoạt động trí thức; tiền lương của A khiêm tốn vì nó thuộc lĩnh vực cao quý, không nhiều nguồn thu nên không làm sao hơn được; hoặc A vốn dĩ là “triệu phú” tâm huyết với nghề sư phạm, muốn làm nên công trình ích lợi xã hội với chi phí ít nhất.
Nhà kinh tế phó mặc tiền lương cần và đủ cho tư cách của A, để minh họa khía cạnh không mấy bình thường của quy luật cung cầu. Sapir biện giải, nếu A khỏe mạnh, gia đình hạnh phúc và tương đối có năng lực, họ và vợ con họ có thể tự xoay xở, để không dằn vặt, ganh tị với tay chủ nhà băng, nhà môi giới bất động sản và vợ con của họ, chịu kiên trì đặt mua báo The Nation[4] và tự mình tạo ra một thế giới văn hóa có giá cả phải chăng. Dù sao, với 1500 đô la, tiền lương vẫn gấp ba lần 500 đô la.
Còn nếu A lo lắng về sức khỏe, vợ chồng lục đục, năng lực như đa số trường hợp là trung bình thì lúc đó tiền lương 1500 đô la không đủ cho họ tự mua sắm thứ họ cần về văn hóa, để khỏi cảm thấy dằn vặt, ganh tị với tay chủ nhà băng, nhà môi giới bất động sản và vợ con của họ, mà nói như các nhà tâm lý, dằn vặt ganh tị chẳng ích lợi gì cả cho đường tiêu hóa, cũng không làm nên tư cách của A. Không ai chịu nghĩ cho rằng tiền lương 1500 đô la của nhà giáo thực thụ sẽ góp phần bần cùng hóa văn hóa mà thế giới của A biểu hiện.
Thoạt nhìn, những khó khăn của A được phân tích trớ trêu là do ham muốn rèn luyện trí óc. Thậm chí có trường phái tâm lý xã hội nào đó sẽ chứng minh rằng A đã làm giàu cao cả cho văn hóa của bản thân và văn hóa của xã hội. Nhưng không, A chịu khổ vì cô độc. Sự say mê của A không còn mạnh mẽ – A giống như ứng viên mắc bệnh lao phổi, được người ta tử tế trát lên má một lớp phấn còn khá mốt.
Có thể tin rằng 1500 đô la không đủ nặng để quan trọng hóa chuyện lương. Song giả dụ nhà giáo được thêm 500 đô la nữa thì tâm lý hoặc văn hóa của ông có ảnh hưởng thế nào? Ông sẽ mua tặng vợ một cái áo đầm khá sang trọng để hàng năm đi dự tiệc trà với tay chủ nhà băng, để họ biết rõ hơn về giáo giới. Mà tay chủ nhà băng, Sapir nói rõ thêm, chính là các thành viên hội đồng quản trị, người mang trọng trách quản lý tài chính (trustees) ở trường đại học tư[5]...
oOo
Qua phần cuối câu chuyện của Sapir, thì ra nhà giáo A mặc dù vẫn có mức lương R để tồn tại, song S bị triệt tiêu, mất động lực, thiếu hứng thú. Tiền thưởng hàng năm, nếu có, hóa ra là trò hề phù phiếm, vì nó không dùng để thừa nhận tư cách, ghi nhận đóng góp, kích thích khả năng phục vụ của người ăn lương.
Con người đã chứng tỏ năng lực chi phối quy luật vận động của tự nhiên để đáp ứng các nhu cầu ngày càng nhiều của mình. Trong khi đó, cơ chế lương tiền vốn là sản phẩm của con người, vẫn trơ trơ như là thứ quyền lực vô cảm, làm cùn nhụt nhân cách, gây “đỏ mặt” người ăn lương, dù cho biết bao lần đã bổ sung, sửa đổi.
TNK – 3/09
CHÚ THÍCH
[3] Edward Sapir, Anthropologie, Éd. de Minuit, 1967, tr.118.
[4] The Nation, thành lập năm 1865, là tờ tuần báo chính trị và văn hóa thuộc cánh tả, xuất bản liên tục và lâu đời nhất ở Mỹ.
[5] Trích lược của Edward Sapir, Psychiatrie, culture et salaire minimum, chương 2: Culture et personnalité, sđd., tr.111-124 (xuất bản lần đầu tiên có tựa Mental Health, 9-1934, Ed. Mandelbaum, tr.578-584).