Những đặc điểm về thành phần tộc người ở Việt Nam cũng đã tạo nên tính thống nhất trong đa dạng cho các loại hình di sản văn hóa, các di sản phản ánh những nét văn hóa riêng của từng tộc người nhưng cũng nằm chung trong không gian bối cảnh của vùng văn hóa và khu vực địa lý. Từ đó có thể thấy ở mỗi địa phương, mỗi tỉnh thành đều có sự hiện diện các loại hình di sản văn hóa được liệt hạng theo các cấp độ khác nhau. Kho tàng di sản văn hóa và di sản thiên nhiên là điểu đáng tự nào về mặt giá trị mĩ thuật, lịch sử, phong cách tạo hình, các công trình kiến trúc luôn thích ứng cảnh quan môi trường thể hiện cho tư duy sáng tạo của các cộng đồng tộc người sinh sống trên đất nước Việt Nam. Ngày nay, công tác bảo tồn, khai thác và phát huy các giá trị của di sản văn hóa – thiên nhiên đạt hiệu quả như thế nào đều phụ thuộc rất nhiều vào công tác chuyên môn và khoa học quản lý và điều này phải xuất phát từ công tác đào tạo nguồn nhân lực hiện nay.
Mối quan hệ giữa di sản văn hóa và kinh tế
Trong mỗi thời đại, sự sáng tạo của con người đã làm cho văn hóa biến đổi theo chiều hướng thích ứng với môi trường xã hội và môi trường tự nhiên. Đặc biệt, việc sáng tạo các phong cách nghệ thuật (style art) thường tiêu biểu cho nền văn hóa của từng thời đại và thị hiếu thẩm mĩ của người dân. Song, lĩnh vực văn hóa thường liên quan đến kinh tế, mối quan hệ tương tác này là không thể tách rời nhau. Vì sự phát triển của các thành tựu văn hóa như một công trình kiến trúc, một tác phẩm nghệ thuật với tầm vóc của di sản như thế nào đều phụ thuộc vào sức mạnh kinh tế của một hay nhiều cộng đồng.
Giá trị của một tác phẩm nghệ thuật phụ thuộc vào tay nghề của người nghệ nhân, khoảng thời gian tạo tác và nguồn vốn đầu tư mà anh ta nhận được. Nếu một cộng đồng suy kiệt về mặt kinh tế, họ hoàn toàn không có khả năng xây dựng những công trình kiến trúc hoành tráng và tạo tác được những tác phẩm tuyệt tác về mặt nghệ thuật tạo hình. Kinh tế ảnh hưởng đến chất lượng của các di sản văn hóa nhưng ngược lại văn hóa cũng thúc đẩy sự phát triển của kinh tế. Điều này có thể chứng minh bằng các loại hình di sản Ấn Độ giáo tồn tại ở Đông Nam Á sau thế kỷ XV, thường có chất lượng kém hẳn so với các công trình kiến trúc như Angkor Wat, Prambanan và thánh địa Mỹ Sơn được xây dựng trước thế kỷ XII. Quá trình suy thoái về mặt nghệ thuật và kiến trúc kéo dài nhiều thế kỷ thường được giới nghiên cứu phương Tây gọi là sự suy tàn của các nền văn minh nhưng trên thực tế nguyên nhân chính là sự suy yếu của những cộng đồng kinh tế và chính sách chuyển hướng tôn giáo của triều đình.
Trong xã hội đương đại, cũng có thể nhận thấy mối quan hệ giữa văn hóa và kinh tế qua các loại hình di sản văn hóa tâm linh ở Việt Nam mà khu di tích miếu Bà Chúa Xứ trong quần thể di tích núi Sam ở thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang là một dẫn chứng điển hình cho mối quan hệ song hành giữa văn hóa tín ngưỡng và sức mạnh kinh tế. Tập tục cúng dường bằng tài chính và tài trợ những khoản tiền lớn cho các hoạt động nghi lễ của người dân ngày càng phổ biến hơn. Từ đó làm cho bộ mặt kinh tế tại Châu Đốc cũng thay đổi đáng kể theo từng năm với việc gia tăng các hoạt động du lịch, thương mại và dịch vụ tín ngưỡng. Với niềm tin dân gian, con người sẽ nhận lại những hồi ứng kinh tế từ thần linh khi cúng dường bằng tiền đã làm cho họ cảm thấy an vui với những khoản tiền đã bỏ ra tại các khu di tích tâm linh.
Nhận thức về vai trò kinh tế của người dân ngày càng tăng cao trong nền kinh tế thị trường hiện nay, những nghi thức cầu cúng và thờ phụng thần linh bảo hộ thương mại du nhập từ Thái Lan như Phra Phrom (thần bốn mặt hộ trì khách sạn), Nang Wack (nữ thần tài lộc) ngày càng phổ biến trong giới kinh doanh khách sạn và nhà hàng ở Việt Nam. Với đặc điểm chịu ảnh hưởng chi phối bởi một nền văn hóa nông nghiệp trong xã hội truyền thống Việt Nam, ngày nay khi mở cửa thông thương người Việt Nam thiếu hẳn loại hình tín ngưỡng thương mại, họ tự bổ sung bằng hình thức du nhập từ bên ngoài. Trong các xã hội cổ truyền như cộng đồng người Khmer Nam Bộ, khảo sát của chúng tôi cũng cho thấy mối quan hệ giữa văn hóa và kinh tế cũng được xem như là lý lẻ tất nhiên trong cuộc sống. Các hoạt động nghệ thuật Riềm Kề của các đội Rô Băm trong phum sóc mỗi khi tham gia các nghi lễ Dâng bông/Dâng y (Kathina) và lễ mừng năm mới (Chol Chnam Thmay) đều có bảng giá quy định cho thời gian, địa điểm và lịch trình biểu diễn [Phan Anh Tú 2017: 120]. Khi xưa, người dân Khmer có thể trả cho diễn viên bằng phẩm vật là quà bánh nhưng ngày nay, khi sản phẩm văn hóa được quy thành giá trị kinh tế thì hình thức trả công bằng tiền mặt được xem là điều luật bắt thành văn trong cộng đồng.
Kỳ vọng từ di sản và sự quan tâm của xã hội
Vai trò của kinh tế gắn liền với sự tồn tại của các loại hình di sản ở Việt Nam mới được chú ý một cách cụ thể trong những năm gần đây. Có lẽ loại hình tư duy kinh tế học di sản xuất phát từ tác động của nền kinh tế thị trường hiện nay, cũng như bối cảnh khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên của đất nước được dự báo là sẽ sớm cạn kiệt. Trong khi đó tài nguyên nhân văn tồn tại qua các loại hình di sản văn hóa vẫn còn ngủ yên hoặc đang đối mặt với sự tàn phá của thời gian. Bối cảnh toàn cầu hóa đã tạo điều kiện cho sự hội nhập nhanh giữa Việt Nam với các quốc gia trong vùng và quốc tế. Sự thành công trong công tác quản lý và khai thác di sản ở các quốc gia có quan hệ về kinh tế, văn hóa và ngoại giao với Việt Nam, nhất là sự thành công của Thái Lan trong quá trình phát triển du lịch văn hóa đã có nhiều tác động đến nhận thức từ các cấp lãnh đạo đến những người hoạt động trong công tác quản lý di sản ở Việt Nam.
Tại Nam Bộ, các nhà quản lý đã nhận thức được tầm quan trọng của di sản văn hóa và di sản thiên nhiên với chính sách phát triển kinh tế tại địa phương. Trong các năm 2014, 2015, 2016 và 2017 các tỉnh phía Nam như Bình Dương, An Giang, Vĩnh Long, Bến Tre và Đắc Nông đều xây dựng các dự án phối hợp với trường Đại học KHXHNV thực hiện các chương trình nghiên cứu mang tên Xây dựng sản phẩm du lịch đặc thù tỉnh An Giang, Đắc Nông, Vĩnh Long,… Đặc biệt tỉnh Bình Dương đã phối hợp với trường thực hiện thành công đề tài nghiên cứu Xây dựng sản phẩm du lịch sinh thái và làng nghề tỉnh Bình Dương. Các dự án này đều đòi hỏi công tác thống kê, khảo sát các loại hình di sản nhằm phát hiện những loại hình di sản mới như vấn đề tri thức bản địa trong việc chữa bệnh hay ứng phó với môi trường sinh thái. Tất cả đều được quy vào tiềm năng văn hóa của địa phương có thể ứng dụng vào phát triển du lịch, xây dựng kinh tế địa phương.
Di sản văn hóa được đánh giá là một loại hình tài nguyên nhân văn quan trọng trong phát triển du lịch. Trường hợp tỉnh An Giang với quần thể khu di tích núi Sam thu hút nhiều khách hành hương đến chiêm bái Bà Chúa Xứ trong các dịp lễ hội tạo nên những nguồn doanh thu lớn cho địa phương nhưng chiến lược phát triển lâu dài là xây dựng các phương án làm sao giữ chân khách lưu tại lại lâu hơn tại An Giang. Dự án Du lịch sinh thái và làng nghề tỉnh Bình Dương đã quy hoạch tổng thể các cụm di sản làng nghề như làng sơn mài Tương Bình Hiệp, làng nghề điêu khắc gỗ Phú Văn nằm tại phường Phú Hòa, làng nghề gốm sứ tại Tân Uyên, vùng du lịch sinh thái Lái Thiêu chuyên canh cây măng cụt và xã Bạch Đằng chuyên canh các giống bưởi. Ngoài ra, Bình Dương còn xây dựng kế hoạch thành một bảo tàng chuyên đề trong tương lai mang tên là Bảo tàng Gốm sứ tỉnh Bình Dương. Nguồn kinh phí do địa phương bỏ ra luôn đòi hỏi nhà nghiên cứu phải trao cho họ bằng một sản phẩm khoa học có thể ứng dụng vào thực tiễn quản lý và khai thác di sản. Cơ quan chủ quản của các đề tài nghiên cứu đề luôn yêu cầu phải xây dựng các mô hình rồi áp dụng vào một khu vực cụ thể tập trung nhiều loại hình di sản như một mẫu hình thí nghiệm. Nếu thành công thì họ mới phổ biến nhân rộng mô hình đó cho toàn địa phương.
Trong xã hội bối cảnh xã hội Việt Nam hiện nay, sự quan tâm của người dân về các loại hình di sản văn hóa và thiên nhiên của đất nước ngày càng tăng cao. Các hoạt động hành trình văn hóa của sinh viên, học sinh hay giới trẻ nói chung đã góp phần đáng kể trong việc quảng bá các loại hình di sản ở Việt Nam đến với nhân dân. Việc sử dụng mạng xã hội phổ biến (Facebook, Instagram, Twitter,…) và blog của các bạn trẻ đã mang đến những hiệu ứng tích cực cho những người có sở thích khám phá cảnh quan tự nhiên, các di tích lịch sử văn hóa, các viện bảo tàng, phố cổ và các sưu tập hiện vật qua những hình ảnh, thước phim tự quay và lời bình luận của những người tham quan sẽ có sức hút đối với những người yêu thích di sản. Nhận định về sự gia tăng số lượng người quan tâm đến di sản có thể xuất phát từ hai nguyên nhân chính, kinh tế phát triển cho phép nhu cầu hưởng thụ văn hóa tăng cao và trình độ dân trí được nâng cao đã làm cho nhận thức của người dân vươn ra khỏi phạm vi cuộc sống gia đình.
Một cuộc khảo sát bằng phương pháp nghiên cứu định lượng (quality research method) diễn ra sau lễ hội Ok Om Bok (lễ cúng trăng) của đồng báo Khmer tỉnh Trà Vinh khi lễ hội này được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia và phong tục đua ghe Ngo của đồng bào Khmer được tổ chức bằng giải đua ghe Ngo cấp quốc gia tại Sóc Trăng. Nhóm nghiên cứu đã tiến hành phát 200 mẫu phiếu ở mỗi địa phương, Sóc Trăng (100 mẫu), Trà Vinh (100 mẫu) trong dịp lễ hội Ok Om Bok năm 2016 [Trương Thị Kim Thủy 2017: 130]. Kết quả khảo sát cho thấy ở Sóc Trăng có 71% người Khmer (chủ yếu là nhóm tuổi từ 25 đến 34 tuổi); còn ở Trà Vinh có 48% (chủ yếu từ 15 đến 24 tuổi) đều tham gia lễ hội trong làng, ở chùa và các nơi sinh hoạt cộng đồng [Trương Thị Kim Thủy 2017: 131]. Từ kết quả khảo sát này cho thấy trong các khu vực sinh sống cộng cư, người Việt và người Hoa cũng tham gia các lễ hội của người Khmer chiếm số lượng 29% tại Sóc Trăng và 52% tại Trà Vinh. Đối tượng tham dự lễ hội phần nhiều là những người trẻ tuổi, họ là sinh viên, học sinh hoặc công nhân đang làm việc trong các nhà máy tại địa phương.
Một hình thức khảo sát khác được chúng tôi tiến hành qua hoạt động tọa đàm khoa học do Trung tâm Văn hóa học Lý luận và Ứng dụng, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn tổ chức. Từ tháng Năm đến tháng Tám năm 2017, Trung tâm đã tổ chức ba cuộc tọa đàm khoa học do hai diễn giả Việt Nam và Pháp được mời đến báo cáo những kết quả nghiên cứu của họ. Chuyên đề thứ nhất mang tên Di sản văn hóa với vấn đề phát triển sản phẩm du lịch hiện nay, theo dự kiến của chúng tôi cần 20 người tham dự nhưng số lượng người đến là 30 người. Chuyên đề thứ hai là Di sản nghệ thuật và lịch sử Campuchia qua 10 thế kỷ (The Art Heritage and History in Cambodia through 10 centuries), do chúng tôi thông báo cho một lớp sinh viên đang học môn Nghệ thuật Đông Nam Á nên số lượng người tham dự tăng lên là 110 người. Chuyên đề thứ ba: Ganga và thế giới ngoài sông Hằng: sự ảnh hưởng của nền văn minh Ấn Độ ở Đông Nam Á (trường hợp Campuchia) (Ganga and Its Outer World: The Influences of Indian Civilization in Southeast Asia (Case of Cambodia), lần tọa đàm này chúng tôi không thông báo cho sinh viên các lớp. Song số lượng người đến tham dự và ghi thông tin trên danh sách là 35 người, trong khi dự kiến của chúng tôi khoảng 20 người. Từ thông tin và địa chỉ của người tham dự trong ba cuộc tọa đàm khoa học nói trên cho thấy, phần nhiều người tham dự đã tốt nghiệp đại học, đang làm việc tại các bảo tàng, viện nghiên cứu, là giảng viên đại học, hướng dẫn viên du lịch và một số sinh viên đang theo học các ngành Lịch sử, Văn hóa học, Đông phương học và Đông Nam Á học.
Từ hoạt động tham gia lễ hội và phổ biến kiến thức khoa học về di sản, chúng tôi nhận thấy người dân, đặc biệt là giới trẻ ngày càng quan tâm và say mê với các loại hình di sản của đất nước. Trong các cuộc tọa đàm, những người trẻ thường đặt câu hỏi, nêu ý kiến và nhận định cho các diễn giả về công tác bảo tồn và khai thác các giá tri di sản hiện nay ở Việt Nam cũng như các quốc gia trong khu vực. Chính sự quan tâm này sẽ là động lực thúc đẩy họ tiến xa hơn trên con đường học tập và nghiên cứu chuyên sâu di sản. Trước thực tế của bối cảnh xã hội ngày nay, chúng thấy cần thiết phải xây dựng một chương trình đào tạo Quản lý di sản đúng nghĩa. Bởi việc sử dụng nguồn lực tại các bảo tàng, di tích, danh lam thắng cảnh đã có dấu hiệu khởi sắc. Mối quan hệ giữa lĩnh vực kinh tế và văn hóa luôn được xem trọng, tri thức được đánh là tiêu chí quan trọng cần thiết cho nhu cầu tuyển dụng lao động. Vì lẽ đó chúng tôi thấy cần thiết phải xây dựng một chương trình đào tạo về quản lý di sản trong tương lai gần.
Các chương đào tạo và thực tiễn quản lý di sản hiện nay
Đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực là hai khâu công tác có liên quan mật thiết với nhau, trong đó chương trình đào tạo của các trường đại học phải đáp ứng được nhu cầu sử dụng lao động của nhà tuyển dụng. Khảo sát từ chương trình đào tạo của các trường đại học thuộc khối khoa học xã hội và nhân văn hiện nay như Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Văn hóa Hà Nội và Đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh đều có các khoa chuyên ngành và chương trình đào tạo hệ cử nhân đến tiến sĩ liên quan đến ngành Di sản văn hóa. Dựa trên chức năng và tiêu chí của các ngành học hiện có, chúng tôi chia thành hai loại hình ngành học chính: ngành chuyên sâu và ngành liên quan. Ngành đào tạo chuyên sâu như Khảo cổ học, Sử học, Bảo tàng học, Bảo quản hiện vật và Quản lý di sản văn hóa; các chuyên ngành liên quan như Văn hóa học, Nhân học, Tôn giáo học, Du lịch học, Địa lý, Ngôn ngữ học (Hán Nôm), Ngoại ngữ, Đông phương học, Đông Nam Á học, tức là những chuyên ngành mà sau tốt nghiệp, người được đào tạo có thể làm việc trong lĩnh vực di sản nhưng cần phải trải qua một thời gian tự bổ túc kiến thức chuyên ngành di sản hoặc được cơ quan tuyển dụng đào tạo bổ sung.
Khảo sát thực tiễn chương trình đào tạo các ngành chuyên sâu liên quan đến di sản ở nước ta so sánh với các trường đại học trong khu vực, vẫn còn thiếu một số chuyên ngành quan trọng, trong đó các trường đại học ở nước ta vẫn chưa có chuyên ngành Lịch sử nghệ thuật (Art History) vốn được đánh giá là tối cần thiết cho công tác nghiên cứu di sản văn hóa ở các quốc gia Đông Nam Á. Khoa lịch sử của các trường đại học ở nước ta không có chuyên ngành Lịch sử nghệ thuật và dường như cũng chưa thiết kế thành một môn học. Tuy nhiên, ngành Đông Nam Á học của Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh ngay từ lúc xây dựng chương trình đào tạo đã thiết kế môn Lịch sử nghệ thuật Đông Nam Á (Art History of Southeast Asia) hai tín chỉ (30 tiết) như một môn học bắt buộc đối sinh viên hệ cử nhân. Như vậy, khi xây dựng chương trình họ cũng đã dự kiến đầu ra cho sinh viên có thể tìm kiếm công việc trong các viện bảo tàng và khu di tích. Hay như Bộ môn nghệ thuật Khmer Nam Bộ của Khoa Văn học, Ngôn ngữ và Văn hóa Khmer Nam Bộ, Đại học Trà Vinh đã thiết kế được các môn học liên quan đến nghệ thuật tạo hình và văn hóa phi vật thể của người Khmer Nam Bộ như nghệ thuật chế tác mặt nạ, nghệ thuật sân khấu dân gian Dù Kê, Rô Băm, nghệ thuật điêu khắc, tranh vẽ tường (mural painting) và mĩ thuật trang trí trong những ngôi chùa Phật giáo Nam tông Khmer. Các chương trình đào tạo của chuyên ngành du lịch học có xây dựng môn Di tích lịch sử và Danh lam thắng cảnh Việt Nam, nội dung mang tính chất giới thiệu sơ lược về các loại hình di sản để sinh viên có thể thuyết minh cho khách tham quan khi trở thành một hướng dẫn viên. Tính chất đặc thù của ngành Lịch sử nghệ thuật rất cần thiết cho công tác nghiên cứu di sản văn hóa ở Việt Nam, nhưng nó không được đánh giá như một chuyên ngành mà chỉ được xem như một phương pháp nghiên cứu của bảo tàng học hay khảo cổ học.
Tính chất đặc thù của các ngành học chuyên sâu về lĩnh vực di sản và di sản văn hóa nói chung dường như đã làm hài lòng các cơ quan tuyển dụng ở mức độ tương đối. Sinh viên tốt nghiệp với tấm bằng cử nhân đúng chuyên ngành trong tay sẽ có nhiều ưu thế hơn những người tốt nghiệp những chuyên ngành liên quan trong một thị trường cạnh tranh tuyển dụng nhân sự đúng nghĩa. Nhân sự được đào tạo đúng chuyên ngành sẽ nắm bắt công việc nhanh chóng, họ thể hiện tinh thần nhiệt huyết trong công tác, có thể phát huy được năng lực sáng tạo trong xử lý các loại hồ sơ di tích, lý lịch hiện vật, đồng thời tương lai có thể phát triển nghề nghiệp theo hướng nghiên cứu chuyên sâu. Tính chất của chuyên ngành có thể giúp cho nhân sự làm tốt công tác bảo tồn, nhưng phát huy giá trị di sản văn hóa đòi hỏi tính năng động và tư duy chiến lược của nhân sự. Trong các ngành học chuyên sâu, chương trình đào tạo thường không chú ý đến các lĩnh vực kinh tế học thường liên quan đến vai trò hỗ trợ cho công tác khai thác di sản như marketing, kinh tế học tôn giáo, quan hệ công chúng, quảng bá di sản và phương pháp hướng dẫn tham quan. Trong khi đó muốn phát huy di sản văn hóa thì đòi hỏi nhà quản lý hay nhân sự làm việc tại các bảo tàng, di tích phải có tư duy kinh tế.
Trên thực tế, các ngành học chuyên sâu chỉ chú ý đến việc đào tạo ra những nhà chuyên môn mà không xem trọng mối quan hệ liên ngành giữa văn hóa và kinh tế. Tính chuyên biệt cần có giữa một nhà chuyên môn và một nhà quản lý đã được Des Griffin đã phác họa như sau: “mâu thuẫn giữa một bên là sự uyên bác, am hiểu với một bên là lập các chương trình xem khách tham quan làm trung tâm” [Des Griffin 2003: 3]. Hiệu quả của hoạt động khai thác giá trị di sản là bảo tồn nguyên trạng gốc và gia tăng nguồn doanh thu từ các hoạt động du lịch, nghiên cứu khoa học và tổ chức sự kiện nhưng sự mâu thuẫn sẽ luôn nảy sinh giữa chuyên môn và khoa học quản lý. Nhà quản lý luôn muốn kiến tạo nguồn lợi từ di sản, do vậy để kinh tế phát triển mà văn hóa không bị thiệt hại thì người ta phải chọn những mô hình làm sao phải giảm thiệt hại cho văn hóa ở mức tối thiểu nhất.
Trong công tác quản lý, không nên đóng cửa di sản vì lo ngại cho sự thiệt hại xuất phát từ các hoạt động kinh tế. Do vậy, nếu muốn khai thác di sản hiệu quả phải chú trọng đến khoa học quản lý dựa trên chuyên môn, áp dụng cho bất kỳ loại hình di sản nào, dù hàng ngày có mang đến hàng ngàn lượt người tham quan, chiêm bái như với những khu di tích tâm linh thì công tác quản lý cũng phải luôn được xây dựng trên nền tảng khoa học. Quản lý yếu kém đối với các cụm di tích văn hóa sẽ dẫn đến sự biến tướng theo hình thái tiêu cực của các lễ hội và nghi lễ. Sự hỗn loạn các trong hoạt động lễ hội ở nước ta vừa qua xuất phát từ nhiều nguyên nhân nhưng quản lý kém vẫn là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng này. Dù không phải là tất cả nhưng hình thái văn hóa tâm linh biến thành hình thức mê tín dị đoan đều xuất phát từ công tác quản lý của các cơ quan chức năng trực tiếp quản trị các quần thể di tích tâm linh.
Đánh giá sự thành công bằng hiệu quả kinh tế từ công tác quản lý và khai thác các giá trị di sản là mẫu hình của các bảo tàng và di tích ở phương Tây. Các chương trình đào tạo về quản lý di sản ở Thái Lan và Singapore cũng được cải biên trên cơ sở mẫu hình của các đại học lớn ở Anh, Mỹ và Pháp. Các chương trình đào tạo được tính toán làm sao mang lại hiệu quả thiết thực nhất, có thể ứng dụng giữa tri thức học đường vào thực tiễn của công tác quản lý và nghiên cứu di sản. Các quốc gia phương Tây làm được đều này vì họ thật sự đã có một nguồn nhân lực là những chuyên gia giỏi chuyên môn và một hệ thống trưng bày hoàn chỉnh tại các viện bảo tàng. Các nhà quản ý không lo lắng về công tác chuyên môn và quỹ đầu tư nên họ tập trung nhiều hơn vào các chiến lược phát triển di sản bằng các giải pháp kinh tế. Nhận xét của Des Griffin một lần nữa đã cho thấy lợi nhuận kinh tế bằng giải pháp thu hút khách tham quan luôn được các nhà quản lý chú ý: “Các viện bảo tàng ít khi tham khảo các tổ chức đã thành công khác. Những chính sách đổi mới để theo đuổi sứ mệnh của viện bảo tàng dường như đã bị coi nhẹ so với các chính sách khung bao cấp về sự hiệu quả và gia tăng số lượng khách tham quan” [Des Griffin 2003: 3]. Từ thực tế nghiên cứu công tác quản lý các viện bảo tàng ở Mỹ, Mark Twain cho rằng vai trò của các nhà quản lý di sản giống như những doanh nhân điều hành các công ty lớn: “Các giám đốc viện bảo tàng thường được kỳ vọng sẽ làm việc theo tác phong kinh doanh nhiều hơn. Điều này nghĩa là có ít mà làm nhiều hoặc phải nỗ lực tìm kiếm các nguồn doanh thu khác ngoài nguồn từ tài chính được bao cấp. Ở nhiều nước nguồn này chính là việc thực hiện thu phí vé vào cửa” [Mark Twain 2009: 35].
Xây dựng chương trình đào tạo Quản lý di sản cho tương lai
Quản lý di sản (Heritage Management) là một chuyên ngành không thể đào tạo ở cấp bậc đại học, tức là hệ cử nhân. Sự cần thiết nhất ở bậc đại học là đào tạo các môn chuyên ngành, tập trung xây dựng khả năng chuyên môn cho sinh viên để có thể đảm trách các công việc cơ bản của ngành di sản. Khoa học quản lý đòi hỏi khung lý thuyết, phương pháp và kinh nghiệm thực tiễn của công việc mà một nhân sự ít nhiều phải trải qua trong giai đoạn làm công tác chuyên môn. Sự thành công của những nhà quản lý di sản ở Việt Nam đều xuất phát từ công tác chuyên môn, chuyên môn có vững thì lãnh đạo mới tốt. Nếu ở bậc đại học mà lại đào tạo về công tác quản lý di sản thì chuyên môn sẽ không được chuyên sâu. Hơn nữa khi tuyển dụng nhân sự thì chẳng có cơ quan quản lý di sản nào lại trao quyền quản lý cho một sinh viên mới ra trường nắm vai trò điều hành.
Kinh nghiệm đào tạo từ các trường đại học nổi tiếng trong khối AUN (ASEAN University Network) cho thấy, chuyên ngành quản lý di sản hay quản lý văn hóa nói chung đều phải đào tạo ở bậc sau đại học (Post – Graduate) như Đại học Chulaklongkorn thiết kế chương trình Master of Arts and Cultural Management (Cao học Quản lý văn hóa và nghệ thuật); Đại học Silpakorn đào tạo chương trình Master of Arts: Architectural Heritage Management and Tourism (Cao học Quản lý di sản kiến trúc và du lịch) và Đại học Thammasat đào tạo chương Master of Arts: Cultural Resource Management (Cao học Quản lý tài nguyên văn hóa).
Các môn học được thiết kế theo 3 tín chỉ (credit) mỗi môn với 45 tiết học bao gồm lý thuyết và thực hành. Số lượng môn học trong các chương trình cao học quản lý di sản ở Thái Lan thường ít hơn các chương trình cao học ở Việt Nam nhưng thời lượng của mỗi môn luôn là 45 tiết. Trong khi đó, chương trình cao học ở các trường đại học Việt Nam thường thiết kế môn học 2 tín chỉ tương đương 30 tiết. Như vậy, các quốc gia trong khu vực chú ý đào tạo chuyên sâu cho học viên và luôn đòi hỏi một môn học phải có lý thuyết và thực hành.
Khảo sát chương trình Cao học quản lý tài nguyên văn hóa của Đại học Thammasat thì các môn học về quản lý được chú trọng nhất như: Bảo tồn và sử dụng nguồn tài nguyên văn hóa vật thể và phi vật thể (Conservation and Use of Tangible and Intangible Cultural Resources), Tiếng Anh chuyên ngành (English Readings in Cultural Resource Management), Quản lý du lịch văn hóa (Cultural Tourism Management), Quản lý viện bảo tàng và các nhà trưng bày (Museum and Gallery Management), Quản lý tài nguyên văn hóa về tri thức bản địa và nghệ thuật dân gian (Cultural Resource Management of Folklore), Quản lý tài nguyên văn hóa về nghệ thuật biểu diễn (Cultural Resource Management of Performing Arts) và Quản lý tài nguyên văn hóa và kinh tế sáng tạo (Cultural Resource Management and Creative Economy),… Hầu hết là các môn học chuyên sâu về khoa học quản lý và kinh tế học cho các loại hình tài nguyên văn hóa.
Học viên thường là những người đã được đào tạo chuyên môn ở bậc đại học, tốt nghiệp những chuyên ngành liên quan đến di sản và hiện công tác tại các cơ quan du lịch hay quản ý di sản. Do vậy, trong công tác đào tạo của bậc cao học quản lý, sẽ không cần thiết để giảng dạy các môn học về Khảo cổ học, Lịch sử, công tác sưu tầm, thuyết minh, trưng bày, phương pháp nghiên cứu,… bởi vì do sự phân định rõ ràng của từng cấp học, ở bậc cao học của các trường đại học chỉ nên giảng dạy những môn khoa học có thể ứng dụng vào thực tiễn trong công tác quản lý di sản.
Trong xu hướng hội nhập khu vực và quốc tế hiện nay cũng nhu cần quản lý, bảo tồn, và phát huy giá trị di sản ở Việt Nam, Đại học KHXHNV cần tiên phong xây dựng một chương trình đào mới về Quản lý di sản (Heritage Management) để phục vụ hiệu quả hơn cho công tác quản lý và nghiên cứu di sản. Chương trình cao học được xây dựng sẽ tập trung vào các môn học mang tính thực tiễn ứng dụng như khoa học quản lý, luật di sản văn hóa và các môn học liên quan đến kinh tế học nhằm trang bị cho học viên những kiến thức bổ ích có thể xây dựng những kế hoạch phát triển di sản. Đối tượng tuyển sinh phải là những người đã tốt nghiệp những ngành chuyên sâu và ngành liên quan đến lĩnh vực di sản, nhất là những người đang công tác trong các cơ quan quản lý di sản và du lịch. Khi một ngành học mang tính thực tiễn cao, nó sẽ rút ngắn khoảng cách giữa lý thuyết và công tác thực tiễn. Điều đó sẽ kích thích người học phát triển tư duy sáng tạo, có thể xây dựng những chiến lược cá nhân ngay từ lúc còn đang học. Họ sẽ vận dụng hiệu quả các kế hoạch cá nhân cho các cơ quan quản lý di sản nơi mà họ đang làm việc. Khi một chương trình học không có tính ứng dụng thì nó dễ dẫn sự chán chường của người học hoặc vì nhu cầu bằng cấp họ sẽ cố gắng đeo đuổi nhưng việc học chỉ còn mang tính chất đối phó với phần điểm tổng kết môn học. Tư duy sáng tạo của các cá nhân sẽ không còn được phát huy, cho nên dẫu có bằng cấp cũng chẳng giúp ích gì cho công tác di sản. Chương trình học thích hợp bao gồm cả những môn học bằng tiếng Anh do các giáo sư ngoại quốc đảm trách sẽ làm học viên tăng cường tư duy sáng tạo và tầm nhìn của sẽ rộng mở hơn, đồng thời họ có thiết lập được những định hướng hợp tác ngay khi đang theo học cao học. Một chuyên ngành đào tạo đúng nghĩa có thể thúc đẩy học viên phát triển chiến lược học tập cá nhân, tức là phát triển một phương pháp tiếp cận hệ thống và thiết kế được những kế hoạch riêng cho tài năng và nguyện vọng của họ [Mark Twain 2009: 35].
Khoa học quản lý di sản luôn đòi hỏi nhà lãnh đạo phải dung hòa mối quan hệ giữa hai thành tố, vừa bảo tồn vừa phát huy giá trị cho tất cả mọi loại hình di sản. Trong đó, bảo tồn là gìn giữ nguyên vẹn hiện trạng của di sản, còn phát huy là phương thức phổ biến bằng nhiều hình thức khác nhau để công chúng có thể hiểu biết giá trị của di sản mà tìm đến theo mục đích của họ. Sự thành công của một ban lãnh đạo thường được khẳng định bằng số lượng khách tham quan di sản, tổ chức các sự kiện văn hóa cũng như tiếp nhận nguồn tài trợ là những động lực làm gia tăng giá trị kinh tế từ các phương pháp khai thác di sản. Nếu nhìn dưới góc độ của khoa học quản lý, nâng cao doanh thu tức là thành công trên phương diện phát huy các giá trị di sản. Thành tựu kinh tế từ khai thác di sản phải bắt nguồn từ một quá trình hoạt động lâu dài không ngừng nghỉ như trùng tu, tôn tạo, bảo quản, bảo vệ di sản, sưu tầm tài liệu, hiện vật, quảng bá, xây dựng nguồn nhân sự và các chiến lược marketing di sản. Như vậy, có thể nói kinh tế là thành tựu cuối cùng của một sản phẩm văn hóa, nó đòi hỏi nhà quản lý phải vận dụng phương pháp khoa học liên ngành, tính toán hiệu quả từng phương pháp, đồng thời là kết quả của những mô hình thử nhiệm nhằm xem xét khả năng ưu khuyết điểm của từng phương pháp được áp dụng. Tất cả những điều này đều phải bắt nguồn từ một chương trình đào tạo Quản lý di sản mang tính thực tiễn ứng dụng.
Như vậy, xây dựng một chương trình đào tạo về quản lý di sản rất cần thiết trong nhu cầu sử dụng lao động hiện nay đối với các cơ quan chuyên trách về di sản và ngành du lịch của Việt Nam. Một chương trình đào tạo lấy khoa học quản lý làm tôn chỉ hướng con người đến vai trò lãnh đạo chuyên môn nhằm đào tạo những nhà quản lý cho tương lai theo phương pháp “kỹ trị”, sự kết hợp giữa lý thuyết và thực tiễn của công tác quản lý di sản.
KẾT LUẬN
Di sản văn hóa và thiên nhiên ở nước ta đang ngày càng được Nhà nước và người dân quan tâm. Trong xu thế hội, bảo tồn di sản và khai thác các giá trị luôn phải song hành nhau thể hiện cho mối quan hệ không thể tách rời giữa văn hóa và kinh tế. Để làm tốt công tác quản lý di sản, mọi thành quả đều xuất phát từ công tác đào tạo chuyên môn và khoa học quản lý. Tuy nhiên, công tác đào tạo hiện nay có tính chuyên sâu ở một số ngành học nhưng công tác quản trị và quảng bá di sản còn mang nhiều đặc điểm lý thuyết, thiếu tính thực tiễn cho công tác quản lý di sản. Do đó, để làm tốt công tác quản lý di sản cho tương lai đòi hỏi cơ quan đào tạo phải xây dựng chương trình đào tạo về Quản lý di sản bậc cao học, trong đó việc thiết kế các môn học phải mang tính ứng dụng. Khâu tuyển sinh có thể lấy từ những người tốt nghiệp đại học các chuyên ngành liên quan đến di sản. Chương trình Cao học quản lý di sản đào tạo cho học viên chuyên sâu về công tác quản lý các loại hình di sản, kiến thức về bảo tồn di sản và kinh tế di sản để nâng cao năng lực quản lý của họ cho các cơ quan chuyên trách di sản. Chúng tôi cho rằng một chương trình như vậy sẽ hiệu quả và hết sức cần thiết cho công tác bảo tồn và phát huy giá trị của nguồn tài nguyên di sản và văn hóa Việt Nam hiện nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Des Griffin, 2003, “Người lãnh đạo trong các bảo tàng: Doanh nhân hay mẫu hình?”, Tạp chí Quản lý Nghệ thuật số 02, Tài liệu tham khảo II: Lãnh đạo, quản lý và suy nghĩ chiến lược 2009.
- Mark Twain, 2009, “Tạo chiến lược học tập cá nhân của riêng bạn phương pháp tiếp cận từng bước một”, Tài liệu tham khảo III: Lãnh đạo, quản lý và suy nghĩ chiến lược 2009. Tài liệu tập huấn về Công tác quản lý bảo tàng do Quỹ Ford tài trợ.
- Phan Anh Tú, 2017, “Sinh kế và biến đổi văn hóa của người Khmer Nam Bộ” Trong Biến đổi sinh kế của người Khmer vùng Đồng bằng sông Cửu Long (Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Đại học Quốc gia TP HCM, Chủ nhiệm đề tài TS Ngô Thị Phương Lan).
- Trần Ngọc Thêm, 2006. Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, NXB Tổng hợp TP HCM.
- Trương Thị Kim Thủy, 2017, “Lễ hội Ok Om Bok của người Khmer Nam Bộ qua tham chiếu văn hóa”, Luận văn cao học chuyên ngành Văn hóa học, Trường Đại học KHXHNV, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
Nguồn: Sách “Quản lý và khai thác di sản văn hóa trong thời kỳ hội nhập”