PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM TRONG KỶ NGUYÊN CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0
Tác giả:
GS.TSKH. Vũ Huy Từ Học viện Hành chính Quốc gia
Chức danh:
TS. Phạm Văn Hiếu
Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội
Giáo dục đại học có tác dụng trực tiếp đến chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt, trong bối cảnh hiện nay, con người luôn là vấn đề cốt lõi để phát triển khoa học – công nghệ, nâng cao năng suất, cải thiện thu nhập, từ đó tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế của đất nước. Bài viết tập trung nêu rõ quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước ta, đồng thời, có những đề xuất về giải pháp bảo đảm phát triển giáo dục – đào tạo trong kỷ nguyên cách mạng công nghiệp 4.0.
Quan điểm và chính sách của Đảng, Nhà nước ta về cách mạng công nghiệp 4.0 đối với lĩnh vực giáo dục và đào tạo
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) đang xóa nhòa khoảng cách giữa thế giới thực với thế giới ảo thông qua các công nghệ tiên tiến, sự đổi mới, sáng tạo không ngừng. Cuộc cách mạng này tác động đến tất cả các lĩnh vực kinh tế – xã hội và chính bản thân con người. Giáo dục đại học (GDĐH) có một vị trí quan trọng, tác động trực tiếp đến các nguồn lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao. GDĐH có tác dụng trực tiếp đến nguồn nhân lực, nhất là trong bối cảnh hiện nay, vốn con người là vấn đề cốt lõi để phát triển khoa học – công nghệ, nâng cao năng suất, cải thiện thu nhập, từ đó tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Về cuộc CMCN 4.0, trong Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị đã đề ra các quan điểm chỉ đạo:
Một là, chủ động, tích cực tham gia cuộc CMCN 4.0 là yêu cầu tất yếu khách quan, là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đặc biệt quan trọng, vừa cấp bách, vừa lâu dài của hệ thống chính trị và toàn xã hội gắn chặt với quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng; đồng thời, nhận thức đầy đủ, đúng đắn về nội hàm, bản chất của cuộc CMCN 4.0 để quyết tâm đổi mới tư duy và hành động, coi đây là giải pháp đột phá với bước đi và lộ trình phù hợp, là cơ hội để Việt Nam bứt phá trong phát triển kinh tế – xã hội.
Hai là, cuộc CMCN 4.0 mang lại cả cơ hội và thách thức. Nắm bắt kịp thời, tận dụng hiệu quả các cơ hội để nâng cao năng suất lao động, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế; tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý xã hội thông qua nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng mạnh mẽ các thành tựu tiên tiến của cuộc CMCN 4.0 cho các lĩnh vực của đời sống kinh tế – xã hội.
Ba là, CMCN 4.0 yêu cầu phải đổi mới tư duy về quản lý kinh tế, quản lý xã hội, xây dựng, hoàn thiện thể chế cho phù hợp. Cần làm chủ và áp dụng công nghệ hiện đại trong tất cả các lĩnh vực kinh tế – xã hội, môi trường, quốc phòng – an ninh.
Trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo (GDĐT), Nghị quyết số 52-NQ/TW cũng đề ra chính sách với nội dung chủ yếu: (1) Thực hiện đổi mới nội dung và chương trình GDĐT theo hướng phát triển năng lực tiếp cận, tư duy sáng tạo và khả năng thích ứng với môi trường công nghệ liên tục thay đổi và phát triển; đổi mới cách dạy và học trên cơ sở áp dụng công nghệ số. (2) Có cơ chế khuyến khích và ưu đãi đối với các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp công nghệ tham gia trực tiếp vào quá trình GDĐT, tạo ra sản phẩm phục vụ cho nền kinh tế số, đồng thời, tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích, thu hút, sử dụng nhân tài, nguồn nhân lực chất lượng cao. (3) Phát triển mạnh đào tạo nghề và hỗ trợ đào tạo kỹ năng cho chuyển đổi công việc. (4) Hình thành mạng học tập mở của người Việt Nam. Thực hiện theo lộ trình phổ cập kỹ năng số, kỹ năng bảo đảm an toàn, an ninh mạng đạt trình độ cơ bản cho người dân và đẩy mạnh công tác truyền thông, nâng cao nhận thức, xây dựng văn hóa số trong cộng đồng…
Những hạn chế của giáo dục đại học Việt Nam trước thách thức của cách mạng công nghiệp 4.0
Ngoài bối cảnh chung khi bước vào CMCN 4.0 như các nước, nền GDĐH của Việt Nam còn có những điều kiện đặc thù riêng.
Thực tế hiện nay, các trường đại học ở nước ta có xu hướng đào tạo chuyên sâu, ngành hẹp, rất ít trường có các khoa đào tạo liên ngành, xuyên ngành; phương pháp học tập, giảng dạy vẫn còn nặng về lý thuyết, trang bị tri thức, chưa chú trọng đúng mức các kỹ năng thực hành, nhất là những kỹ năng mềm; trong nghiên cứu khoa học chưa được coi trọng, vẫn nặng về nghiên cứu lý thuyết và thiếu sự gắn kết với thực tiễn đời sống xã hội nên khả năng đưa các kết quả nghiên cứu vào ứng dụng trong thực tiễn là rất thấp, dẫn đến các trường đại học chưa trở thành một trung tâm sáng tạo.