Đi tìm căn nguyên
Tại hội thảo, các chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý giáo dục đã thẳng thắn nhận định rằng: Người Việt đang phải đối diện với sự xuống cấp nghiêm trọng của văn hóa, đạo đức và giáo dục. Nguyên nhân của hiện trạng trên được đánh giá từ nhiều góc độ: kinh tế, xã hội, chính sách… nhưng trước hết đó chính là giáo dục.
Toàn cảnh hội thảo
Ảnh: Hà Ánh (thanhnien.vn)
Trong bài phát biểu khai mạc, bà Nguyễn Thị Bình, nguyên Phó chủ tịch nước, Chủ tịch Quỹ Hòa bình và phát triển Việt Nam nói “Nhiều nghị quyết của Trung ương đã nêu ra quan điểm: giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển. Nhưng rất tiếc, những quan điểm đúng đắn trong các văn kiện chưa được các cấp, các ngành, ngay từ lãnh đạo cấp cao quán triệt và thực hiện tốt”. Bà cho rằng, giáo dục tuy có những cố gắng nhất định nhưng chất lượng đào tạo còn thấp. Đấy là một trong những nguyên nhân rất cơ bản làm cho kinh tế chúng ta phát triển chậm, văn hóa xã hội ta xuống cấp.
Còn theo TSKH Phạm Đỗ Nhật Tiến, nguyên Trợ lý Bộ trưởng Bộ GD&ĐT: “Chúng ta đang ở trong giai đoạn khủng hoảng hệ giá trị rất nghiêm trọng. Theo tôi, đây là lúc hệ giá trị cổ truyền bị giải thể, giải cấu trúc, không còn nguyên giá trị và tính hệ thống nữa. Trong khi đó, hệ giá trị mới chúng ta xây dựng lại chưa hình thành để thay thế hệ giá trị cũ… Đây đúng là giai đoạn quá độ, rối loạn từ trong hệ giá trị”.
Từ góc độ văn hóa học, GS. TSKH Trần Ngọc Thêm, Giám đốc Trung tâm Văn hóa học và Lý luận ứng dụng Trường ĐH KHXH&NV – ĐH Quốc gia TP.HCM, nhận định rằng sau gần 30 năm, bình diện văn hóa – con người ở VN không những không phát triển mà còn đi xuống. Và nguyên nhân gốc của các nguyên nhân là trong quá trình phát triển đã diễn ra xung đột ngày càng gay gắt giữa hệ giá trị văn hóa truyền thống với hệ giá trị văn hóa hiện đại, giữa nông nghiệp với công nghiệp, giữa nông thôn với đô thị, giữa thói quen thời chiến với thời bình, giữa hệ giá trị làng xã khép kín với hệ giá trị hội nhập.
GS. Thêm cho rằng người Việt đang có quá nhiều “căn bệnh”, nhiều tính xấu phổ biến ngay trong môi trường giáo dục - nơi mang trọng trách giáo dục nhân cách cho con người, nổi cộm là bệnh ưa thành tích và bệnh giả dối. Ông phân tích, người Việt có câu “Ra đường hỏi già, về nhà hỏi trẻ” nhưng ở trường thầy cô dạy phải biết khôn để giành phần thắng, đóng kịch trong những tiết dự giờ, những lúc có tranh tra... Tình trạng học sinh học yếu kém cỡ nào thì cũng lên lớp, tỷ lệ tốt nghiệp cao ngất ngưởng… Sự dối trá phổ biến đến nỗi người lớn quên rằng mình đang nói dối. Giả dối trong suy nghĩ thì tự an ủi mình, giả dối trong lời nói được khen là khéo léo, giả dối trong hành động được xem là khôn ngoan. GS. Thêm cho biết, ông và nhóm nghiên cứu của ông đã thực hiện khảo sát với 5.600 người thì bệnh giả dối đứng hàng đầu trong 34 tật xấu của người Việt, chiếm đến 81%. Còn theo điều tra của Viện nghiên cứu phát triển giáo dục 2008 thì tỷ lệ nói dối cha mẹ của học sinh ở cấp 1 là 22%, cấp 2 là 50% và cấp 3 là 64% và sinh viên ĐH là 80%.
Trong trường học từ phổ thông lên ĐH có bệnh “đồng phục” từ ăn mặc đến tư duy. Mặc cũng đồng phục, học cũng đồng phục, tư duy cũng đồng phục giết chết tư duy sáng tạo của học sinh. Giáo dục chạy theo mục tiêu con ngoan, trò giỏi làm sản phẩm giáo dục bị triệt tiêu bản lĩnh cá nhân. Trò giỏi là thuộc bài, làm đúng theo bài giảng của cô giáo, làm sáng tạo là… sai, là kém.
Đặc biệt, ông cho rằng, có những giá trị tốt đẹp mà người Việt xưa đến nay luôn tự hào thực ra cũng chỉ là huyền thoại, đơn cử như tính cần cù và tinh thần hiếu học: “Một dân tộc không thể coi là “cần cù” khi ở hầu hết các đô thị ngày nào cũng như ngày nào, từ 5 – 6 giờ chiều trở đi các quán hàng ăn đông nghẹt người ăn nhậu thả dàn, mức độ ăn chơi cũng khiến người quan sát đến từ các nước giàu cũng phải kinh hãi. Trong bộ máy chính quyền, Thủ tướng cũng phải thừa nhận rằng có tới 30% công chức làm việc theo kiểu sáng cắp ô đi, tối cắp ô về, không mang lại bất cứ hiệu quả công việc nào… Triết lý khá phổ biến đối với nhiều người Việt là “Đời người sống mấy gang tay/ Hơi đâu căm cụi cả ngày lẫn đêm”. Còn về tinh thần hiếu học tôi cũng gọi là huyền thoại. bởi nói về mục tiêu học tập của người Việt: thì ngày xưa học để làm quan, ngày nay để lấy bằng. Học vì sĩ diện, giấu dốt, sợ người ta nói nói đến điểm yếu của mình”.
Ngoài ra, ông chỉ ra hạn chế của người Việt là thiếu khiêm tốn, khi đẩy vào thế bắt buộc mới tỏ ra khiêm tốn. Còn ai cũng cho mình là “ông trời con” rất khó hợp tác. Rồi thói vô kỷ luật, không chấp hành các quy định mà còn làm ngược, ở đâu cấm cái gì thì xuất hiện cái đấy. Chỗ nào cấm họp chợ thì nhộn nhịp mua bán, không giẫm lên cỏ thì rủ nhau ngồi la liệt, cấm đổ rác thì nơi đó rác chất đống…
GS.TSKH Trần Ngọc Thêm trình bày tham luận tại hội thảo
Ảnh: Hoài Nam (dantri.com.vn)
Hướng tới xây dựng hệ giá trị mới trong giáo dục
Từ việc mổ xẻ thực trạng và lý giải nguyên nhân, các đại biểu tại hội thảo đều thống nhất cho rằng: cần xây dựng hệ giá trị bản sắc Việt Nam mang tính đối chiếu để loại bỏ những thói hư tật xấu, xác lập hệ giá trị mới có tính định hướng. Trong đó, GS. TSKH Trần Ngọc Thêm nhấn mạnh đến giá trị nhân ái, trung thực, bản lĩnh, tình yêu nước trong thời bình… ở mỗi cá nhân. Đồng quan điểm, GS.TSKH Lê Ngọc Trà khẳng định “Trong việc biến hệ giá trị chung thành những giá trị của cá nhân thì vai trò của nghệ thuật, của các môn học mang tính tự sự như kịch, văn học, âm nhạc, lịch sử rất quan trọng. Trong thời đại công nghệ thông tin, nghệ thuật càng cần hơn bao giờ hết, đặc biệt cho đời sống tinh thần con người, cho sự hình thành ý thức giá trị ở thế hệ trẻ. Do thực trạng hiện nay và do những bức xúc về sự xuống cấp đạo đức và văn hóa xã hội, việc đề cao giáo dục giá trị trong trường phổ thông là rất cần thiết”.
Và theo PGS.TS Nguyễn Kim Hồng, Hiệu trưởng Trường ĐH Sư phạm TP.HCM, giá trị luôn là kim chỉ nam cho hành động hướng đích của con người. Việc xây dựng cho con người VN một hệ giá trị đúng đắn là trách nhiệm của giáo dục và chỉ có giáo dục hệ thống hiệu quả luôn hướng đến những giá trị vừa hiện đại vừa mang bản sắc dân tộc thì con người VN mới hòa nhập với thế giới, trở thành công dân toàn cầu nhưng vẫn giữ gìn bản sắc dân tộc. Nhà trường sư phạm không chỉ ý thức được giá trị của mình mà còn nỗ lực hết mình để định hướng việc giáo dục giá trị và hệ giá trị chuẩn mực, chuẩn bị nhiệm vụ giáo dục giá trị và định hướng cho sự hình thành hệ giá trị của người học./.
Các bài viết liên quan
1. Dạy – học kiểu sản xuất robot
2. Giáo sư Trần Ngọc Thêm: Bệnh ưa thành tích và bệnh giả dối trong giáo dục rất nặng
3. Hệ giá trị đang khủng hoảng nghiêm trọng