Kể từ Đạo dụ ngày 31.5.1906, chính phủ Bảo hộ Pháp được sự thỏa thuận của Nam triều đã ấn định nền học chính mới thay dần cho nền giáo dục Nho học cũ, áp dụng ở Bắc kỳ và Trung kỳ, theo đó chia làm ba bậc học: (1) Ấu học gồm lớp Đồng ấu (lớp Năm), lớp Dự bị (lớp Tư), lớp Sơ đẳng (lớp Ba); (2) Tiểu học gồm lớp Nhì năm thứ nhứt (Cours Moyen 1 ère année), lớp Nhì năm thứ hai (Cours Moyen 2 ème année), và lớp Nhứt (Cours Supérieur); (3) Trung học, gồm hai cấp/ ban Cao đẳng Tiểu học và Tú tài.
Riêng ở Nam kỳ là xứ thuộc địa nên nền học chính đều theo quy chế thuộc địa, chỉ có chương trình Pháp, nhưng ở vài trường (như Chasseloup Laubat, Pétrus Ký… ở Sài Gòn) cũng có dạy thêm một số giờ tiếng Việt.
Đến năm 1949, sau khi Pháp trao trả độc lập tạm thời cho Việt Nam dưới quyền của Quốc trưởng Bảo Đại thì nền học chính mới bắt đầu do Bộ Quốc gia Giáo dục của Quốc gia Việt Nam (1949-1955) điều khiển, cùng với sự ra đời của hai bộ chương trình Trung học và Tiểu học lấy tiếng Việt làm chuyển ngữ, ban hành năm 1949, dưới thời Bộ trưởng Quốc gia Giáo dục han Huy Quát.
Trước đó, sách giáo khoa bậc Tiểu học viết bằng tiếng Việt đã xuất hiện lai rai trong thời Pháp thuộc, có lẽ từ sau Đạo dụ 31.5.1906 kể trên, ấn định nền học chính mới, và nhất là sau khi Toàn quyền Đông Dương Albert Sarraut ban hành Học chính tổng quy (Règlement général de l’Instruction publique) năm 1917 với sự điều chỉnh ở điều 134 bằng Nghị định ngày 18.9.1924 quy định phải dạy bằng tiếng bản xứ cho ba lớp đầu bậc Tiểu học. Đây cũng là lý do sự ra đời của bộ sách giáo khoa “Việt Nam Tiểu học Tùng thư” viết bằng tiếng Việt dành cho các môn học bậc Ấu học do Nha Học chính Đông Pháp chủ trương và xuất bản.
Hiện chúng tôi còn giữ được bản photo cuốn Méthode de Quốc ngữ (illustrée) dạy vỡ lòng tiếng Việt do J.C Boscq biên soạn dùng cho học sinh các trường học Đông Dương, bản in lần thứ 13 tại Sài Gòn năm 1914. Quyển này được đóng gộp chung với quyển Morale Pratique (Luân lý thực hành) của cùng tác giả với sự cộng tác dịch thuật của Nguyễn Văn Tâm giáo viên Trung học Mỹ Tho. Quyển sau này cũng dùng cho học sinh các trường học Đông Dương, bản in lần thứ 6 năm 1926 tại Sài Gòn, nội dung toàn tiếng Việt, dạy về luân lý, với những bài học như: Phong hóa, Lương tâm, Thân tộc, Phải vưng lời cha mẹ, Anh em chị em, Huynh đệ hữu ái, Bổn phận tôi tớ, Nhà trường, Khuyến học, Cần học, Kẻ biếng nhác, Tình bậu bạn, Phải giúp nhau, Xấu nết hết bạn…
Trong những năm 20-40 của thế kỷ trước, nhiều sách dạy tiếng Việt hay Quốc văn bậc Tiểu học đã ra đời. Được biết, hiện Thư viện Quốc gia (Hà Nội) và vài tư nhân vẫn còn lưu giữ được một số sách giáo khoa môn tiếng Việt bậc tiểu học như sau:
- Ấu học bị thể (Un peu de tout) của Henri Le Bris, bản cải biên của Huỳnh Văn Ninh để dùng cho học trò các trường ở Đông Dương, in lần thứ 3 tại Sài Gòn năm 1916, gồm những bài tập đọc bổ ích về Kiến thức phổ thông, Địa lý, Lịch sử, Hành chính.
- Quốc-ngữ sơ học vấn tân của Nguyễn Mạnh Khoa, 37 trang, Nghiêm Hàm Ấn Quán, Hà Nội, 1924.
- Lên Sáu: Sách vần quốc ngữ của Nguyễn Khắc Hiếu, 23 trang, Nghiêm Hàm Ấn Quán, Hà Nội, 1924.
- Ấu viên tất độc của Trần Phong Sắc, Tác giả tự xuất bản, năm 1925.
- Méthode pratique pour l’étude du Quoc ngu: à l’usage des écoles annamites (Phương pháp thực hành Quốc ngữ dùng cho các trường Annam) của Đỗ Thận, 15 trang, Nhà in Lê Văn Phúc in lần thứ 21, Hà Nội, 1926.
- Sách dạy vần quốc ngữ của Đỗ Thận, 15 trang, Nhà in Lê Văn Phúc in lần thứ 22, Hà Nội, 1927.
- Tiếng một An Nam dùng cho học trò Sơ đẳng tiểu học do Tống Viết Toại biên soạn, Nhà in Đắc Lập, Huế, 1927. Ngoài bìa ghi: “Nhà nước đã nhận sách này vô bản kê những sách học trong các trường Pháp Việt cõi Đông Pháp (Nghị định Quan Toàn quyền ngày 15 Octobre 1927)”.
- Tập đọc và Học thuộc lòng (Lớp Sơ đẳng và Trung đẳng năm thứ nhất) của Mai Văn Phương, Bùi Huy Huệ, 121 trang, Nhà in Trung Bắc Tân Văn in lần thứ 2, Hà Nội, 1937 (in lần thứ 3 năm 1939).
- Tân Việt văn độc bản (Lớp trung đẳng, năm thứ nhất và thứ nhì), 84 trang, Nhà in Legrand, Hà Nội, 1942.
(Sách giáo khoa tiểu học mới. Nguồn : www.24h.com.vn)
Nhưng đặc biệt, chúng ta ngày nay còn biết khá nhiều tới ba sách giáo khoa rất nổi tiếng một thời, gồm Quốc văn giáo khoa thư chia thành 2 quyển dành cho lớp Sơ đẳng (= lớp Ba sau này) và lớp Dự bị (= lớp Tư hay lớp 2), Luân lý giáo khoa thư lớp Đồng ấu (= lớp Năm hay lớp 1) đều của nhóm Trần Trọng Kim-Nguyễn Văn Ngọc- Đặng Đình Phúc-Đỗ Thận biên soạn trong tủ sách “Việt Nam Tiểu học Tùng thư” do Nha Học chính Đông Pháp xuất bản khoảng năm 1926 và được sử dụng vừa chính thức vừa rộng rãi trong suốt giai đoạn trước năm 1949. Cả hai sách này, vì giá trị giáo dục lâu bền của chúng, gần đây đã được nhiều nhà xuất bản (như Trẻ, Thanh Niên Văn Học…) cho in lại nên có thể tìm đọc dễ dàng.
Quốc văn giáo khoa thư bao gồm những bài học ngắn (chừng 1/3 đến nửa trang giấy in khổ 13 x 19 cm), chủ yếu bằng văn xuôi nhưng thỉnh thoảng cũng có chen vào vài bài văn vần do nhóm tác giả tự sáng tác hoặc lấy từ ca dao hay trích tác phẩm thơ của người xưa. Mỗi bài trước hết nêu Đại ý, Giải nghĩa (từ ngữ khó trong bài), rồi đến phần Bài tập và Làm văn. Nội dung bài học đa số kể những câu chuyện đơn giản dễ hiểu nhưng dễ gây xúc động lòng người, chú trọng đến việc giáo dục nhân cách, đạo đức cho học sinh tuổi nhỏ, nên hiệu quả giáo dục rất cao.
Luân lý giáo khoa thư gồm 50 bài học, chia làm 3 chương: (1) Bổn phận đối với gia tộc, với những bài như Yêu mến cha mẹ, Thờ phụng tổ tiên, Nghĩa gia tộc…; (2) Bổn phận đối với học đường, với những bài như Phải yêu mến thầy, Chuyên cần, Lòng tốt đối với bạn…; (3) Học trò tốt, học trò xấu, với những bài như Chọn bạn mà chơi, Đứa học trò xấu, Tính ương ngạnh… Mỗi bài học cũng là một câu chuyện kể ngắn, dưới có phần Giải nghĩa, Câu hỏi, rồi kết thúc bằng một câu Cách ngôn để chốt lại ý nghĩa tổng quát bài vừa học.
Riêng một mình tác giả Trần Trọng Kim còn có quyển Sơ học luân lý dùng cho lớp Sơ đẳng, xuất bản lần đầu năm 1919, “soạn đúng như chương trình chính phủ mới định” (“Tựa” của tác giả, Sơ học luân lý, NXB Tân Việt, Sài Gòn, 1950, tr. X). Sách dày 176 trang khổ 14 x 22 cm, chia làm 4 phần: (1) Gia tộc luân lý (Con cháu ở với ông bà, Thờ kính tổ tiên, Ở với đầy tớ, Ở với láng giềng…); Học đường luân lý (Bổn phận mình phải đi học, Bổn phận ở với thầy, Tính hạnh người học trò…); (3) Bản thân luân lý (Vệ sinh, Sạch sẽ, Tiết độ, Tính nhẫn nhượng, Tính từ ái…); (4) Xã hội luân lý (Nghĩa đoàn thể trong xã hội, Công bằng và nhân ái, Phải trọng tính mệnh của người ta…). Dưới mỗi bài học đều có phần Toát yếu (tóm tắt bài học) và phần Đầu bài (nêu một số câu hỏi để củng cố nội dung bài học cho học sinh).
Về những môn học khác, trong bộ “Việt Nam Tiểu học Tùng thư” bằng tiếng Việt do Nha Học chính Đông Pháp chủ trương xuất bản còn có: Hán văn tân giáo khoa thư các lớp Đồng ấu, lớp Dự bị và lớp Sơ đẳng của Lê Thước và Nguyễn Hiệt Chi, in tách biệt từng cuốn riêng lần thứ nhất trong năm 1928; Sử ký-Địa dư giáo khoa thư lớp Sơ đẳng (1928), Toán pháp, Cách trí, Địa dư lớp Đồng ấu (in lần thứ 10 năm 1938), Cách trí Giáo khoa thư lớp Sơ đẳng (1927), đều của nhóm tác giả Trần Trọng Kim-Nguyễn Văn Ngọc…; Vệ sinh Giáo khoa thư lớp Đồng ấu và lớp Dự bị của Bác sĩ Guillemet (Chánh sở Y chính xứ Ai Lao)…
Nguồn:Xưa & Nay, số 452 (tháng 10.2014)