Văn hoá là gì?
Theo UNESCO, hiện nay trên thế giới có khoảng hơn 400 định nghĩa về "văn hoá", điều đó cho thấy việc xây dựng một định nghĩa khoa học, đầy đủ về "văn hoá" là vô cùng khó khăn. Từ những góc độ và những cơ sở lí giải khác nhau, mỗi nhà văn hoá học đều cố gắng đưa ra một định nghĩa khả dĩ. Để tìm hiểu mối quan hệ giữa văn hóa với giáo dục và thẩm mỹ, trước hết, chúng ta cần hiểu được khái niệm về văn hóa cũng như những chức năng của chúng. Dưới đây, chúng tôi xin giới thiệu định nghĩa của Hồ Chí Minh – một trong số những định nghĩa tương đối phổ biến đang được nhiều nhà văn hoá học chú ý.
"Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá. Văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn"( Hồ Chí Minh).
Theo định nghĩa trên thì văn hoá bao gồm những yếu tố cơ bản sau:
- Lí giải nguồn gốc của văn hoá là các phương thức hoạt động và giao tiếp của con người (tổ chức đời sống và xã hội).
- Chỉ ra bản chất của văn hoá là cơ chế tổng hợp, phổ quát và là động lực để hình thành, phát triển xã hội và con người. Vì vậy, muốn đổi mới xã hội, đổi mới con người thì phải xây dựng một nền văn hoá mới.
Xác lập các yếu tố cấu thành văn hoá, gồm:
- Các yếu tố vật chất: ăn, ở, mặc, ngôn ngữ, chữ viết; trong đó ngôn ngữ là công cụ tư duy và giao tiếp chỉ con người mới có.
- Các yếu tố tinh thần: đạo đức, phát luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật; trong đó pháp luật, đạo đức là thể chế xã hội; văn học, nghệ thuật là hoạt động tinh thần.
Khi bàn về khái niệm văn hóa, bên cạnh định nghĩa của Hồ Chí Minh nêu trên, một số định nghĩa cũng được nhiều nhà văn hóa học chú ý là định nghĩa của UNESCO, Ra-hát-ma Nê Ru và của P.GS.Viện sĩ Trần Ngọc Thêm. Phần lớn các tác giả này đều cho rằng văn hóa bao gồm hai yếu tố cơ bản là vật chất và tinh thần. Tuy nhiên, mỗi nhà văn hóa học lại có cách lí giải tương đối khác nhau.
Theo UNESCO, văn hóa bao gồm tổng thể các giá trị về vật chất và tinh thần; tổ chức xã hội, đó là các phương thức sống; những quyền cơ bản về con người; đức tin tự nguyện của con người, đó là các truyền thống tín ngưỡng.
PGS.Viện sĩ Trần Ngọc Thêm cũng cho cho rằng văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần, nó thể hiện trình độ của mỗi dân tộc trong quá trình lịch sử của mình. Đặc biệt, ông còn nhấn mạnh điểm thống nhất căn bản mang tính nhân loại khi nhận thức về văn hóa là tính sáng tạo, đó là cốt lõi của văn hóa. Điểm khác biệt giữa các nền văn hóa của mỗi cộng đồng dân tộc là ở mức độ của tinh thần nhân văn của nền văn hóa ấy.
Bên cạnh đó, Ra-hát-ma Nê Ru lại đề cao văn hóa ở các giá trị tinh thần bao gồm các vấn đề về tư tưởng, đạo đức và lối sống của một cộng đồng dân tộc. Trong đó, tư tưởng vừa là thước đo sự tiến bộ, vừa là tầm vóc của một thời đại, một dân tộc và một cá nhân nào đó. Ngay cả một tác phẩm nghệ thuật, nếu không có tư tưởng thì coi như cũng chẳng có gì cả, tất nhiên đó là tầng tư tưởng đã được hình tượng hóa, nằm ở chiều sâu của hình tượng.
Các chức năng của văn hoá
* Chức năng giáo dục:
Văn hoá là những chuẩn mực xã hội, là những khuôn mẫu xã hội được tích luỹ trong quá trình lâu dài của mỗi cộng đồng dân tộc; nó được cố định hoá dưới dạng ngôn ngữ, biểu tượng, phong tục tập quán, nghi lễ, luật pháp, đạo đức... Tất cả những yếu tố trên cấu thành một nền văn hoá nhất định; nó có vai trò quyết định trong việc hình thành nhân cách, lối sống, nếp nghĩ, cách đối nhân xử thế... của các thành viên trong cộng đồng.
Xét về bản chất, văn hoá là nội dung của giáo dục và cũng là mục tiêu của giáo dục. Các quốc gia trên thế giới đều coi giáo dục là con đường cơ bản nhất để gìn giữ và phát triển văn hoá bởi phát triển văn hoá chính là động lực để phát triển xã hội. Với ý nghĩa ấy, UNESCO đã nêu ra 4 mục tiêu (nguyên lí) của nền giáo dục tương lai cho nhân loại là:
(1) Học để biết.
(2) Học để làm.
(3) Học để chung sống.
(4) Học để làm người, để tự khẳng định mình.
Bốn mục tiêu trên đã bao hàm trong nó dường như đầy đủ các thuộc tính của văn hoá: tri thức, quan hệ, phát triển và hoàn thiện, ý thức về cái bản ngã...
Nhờ chức năng giáo dục của văn hoá mà con người có thể tồn tại, phát triển, hoàn thiện trong trạng thái cân bằng động với thiên nhiên và xã hội.
Đây là chức năng bao trùm nhất, cơ bản nhất và mang tính quyết định.
* Chức năng chuyển giao giá trị văn hoá:
Văn hoá bao giờ cũng được hình thành trong một quá trình, được tích luỹ qua nhiều thế hệ, mang trong nó tính lịch sử, bồi đắp cho nó một bề dày, một chiều sâu nhất định. Thế nhưng, mỗi thế hệ, mỗi đời người đều là hữu hạn trong dòng chảy vô tận của lịch sử văn hoá, vậy làm cách nào để chuyển giao các giá trị văn hoá một cách có hiệu quả?
Trong thực tế, mỗi thế hệ và mỗi đời người đều sống trong những thời đại cụ thể, những điều kiện lịch sử cụ thể trong hai mối quan hệ chủ yếu: Quan hệ đồng đại: Chịu sự giáo dục, tác động, chi phối của văn hoá thời đại và quan hệ lịch đại: Tiếp thu, kế thừa, chọn lọc, phát triển những tinh hoa văn hoá trong lịch sử.
Như vậy, mỗi thế hệ và mỗi con người đã vô tình hay có ý thức vừa sáng tạo, vừa chuyển giao các giá trị văn hoá. Nói cách khác, con người vừa là sản phẩm của lịch sử văn hoá, vừa là chủ thể sáng tạo ra những giá trị văn hoá của thời đại.
Có thể nói một cách tổng quát: Văn hoá là những giá trị đã ổn định và những giá trị đang hình thành, đó chính là chức năng chuyển giao giá trị văn hoá.
* Chức năng kích thích sáng tạo văn hoá:
Quá trình thẩm thấu những giá trị văn hoá là quá trình mà con người nhận biết và được giáo dục bởi văn hoá, quá trình ấy giúp cho con người có những hiểu biết mới và những khát vọng mới. Tri thức và khát vọng gây hưng phấn cho con người, kích thích con người lao động và sáng tạo theo qui luật của cái đẹp.
Văn hoá bao gồm một hệ thống các giá trị, vì vậy con người cũng được kích thích theo nhiều thang giá trị khác nhau, ở những lĩnh vực khác nhau, chẳng hạn:
+ Kích thích khát vọng chiếm lĩnh tri thức đỉnh cao (con người văn hoá-trí tuệ).
+ Kích thích khát vọng sáng tạo nghệ thuật (con người văn hoá - nghệ sĩ).
+ Kích thích khát vọng tạo lập quan hệ xã hội (con người văn hoá - xã hội).
+ Kích thích khát vọng khẳng định bản thân (con người văn hoá - bản ngã)...
Với chức năng này, văn hoá sẽ trở thành một động lực và một nguồn năng lượng vô tận giúp cho con người sống có ích và không ngừng phát triển, hoàn thiện.
: * Chức năng liên kết xã hội
Cùng với tư cách là một giá trị, văn hoá còn đồng thời là những hình thái hoạt động đặc thù có chức năng liên kết xã hội rất hiệu quả, chẳng hạn:
Lễ hội là nơi gặp gỡ, giao lưu rộng rãi của vùng, miền, quốc gia... Thông qua lễ hội, con người ngày càng xích lại gần nhau, đồng cảm với nhau trong cuộc sống hơn.
Giỗ Tết cũng là nơi tụ họp gia đình, gia tộc và hàng xóm láng giềng; nó giúp cho con người có thể bỏ qua những bất hoà để tìm ra tiếng nói chung về huyết thống hoặc tình làng nghĩa xóm truyền thống.
Phong tục tập quán giống như một chất keo gắn bó các thành viên trong cộng đồng với nhau, ở một mức độ nào đó nó còn có khả năng điều tiết hài hoà các mối quan hệ, góp phần tạo ra sự ổn định cho xã hội.
Tín ngưỡng cũng là một hình thái hoạt động góp phần giáo hoá con người rất có hiệu quả. Con người đến với tôn giáo để hướng thiện, phục thiện, hành thiện và đó chính là nhân tố có thể làm nên sức mạnh kì diệu tử vì đạo!
Có thể nói, tất cả các hình thái hoạt động văn hoá lành mạnh đều có chức năng liên kết xã hội và cải tạo con người.
* Chức năng thẩm mỹ
Bi-ê-lin-xki, nhà tư tưởng lớn của nước Nga thế kỉ XIX từng khẳng định: "Cảm xúc về cái đẹp là một điều kiện làm nên phẩm giá con người. Phải có nó con người mới có được trí tuệ, phải có nó nhà bác học mới vươn tới những tư tưởng tầm cỡ thế giới, mới hiểu được bản chất và các hiện tượng trong tính thống nhất của chúng... Phải có nó con người mới có thể không gục ngã dưới sức đè nặng trĩu của cuộc đời để làm nên những chiến công... Thiếu nó thì không có thiên tài, không có trí thông minh; mà chỉ còn lại cái thứ đầu óc tỉnh táo một cách ti tiện mưu cầu cho những toan tính nhỏ nhen bệnh hoạn".
Trong ý kiến trên, tác giả đã đề cập đến phần linh hồn của văn hoá, bởi văn hoá là sự sáng tạo ra các giá trị vật chất và tinh thần theo qui luật của cái đẹp; thấm nhuần văn hoá cũng tức là cảm nhận được cái đẹp trong sáng tạo, thưởng thức và quan hệ. Văn hoá là động lực cho sự sáng tạo, là bệ phóng cho những thiên tài...
Như vậy, nói đến văn hoá tức là nói đến cái đẹp. Vô cảm trước cái đẹp thì chỉ còn lại thứ đầu óc tỉnh táo tầm thường, nhỏ nhen, ích kỉ.
* Chức năng giải trí
Sống là một quá trình hoạt động liên tục của con người, trong đó dù là hoạt động cơ bắp hay hoạt động tinh thần thì sức chịu đựng của con người là có giới hạn. Khi đã tới "cái giới hạn" nào đó thì con người có nhu cầu nghỉ ngơi, vui chơi giải trí để phục hồi sức lao động của mình. Cái "khoảng thư giãn" giữa nhịp sống hối hả ấy không chỉ thuần tuý là thả lỏng cơ bắp, mà ở những mức độ khác nhau, nó là sự "thay đổi hình thái hoạt động”, đó chính là hoạt động văn hoá. Các hoạt động văn hoá này có nhiều hình thức phong phú đa dạng như: câu lạc bộ, nhà văn hoá, lễ hội, du lịch, thi đấu thể thao...
Hoạt động giải trí của văn hoá luôn mang ý nghĩa thư giãn về tinh thần, do đó ngay trong chức năng giải trí nó đã bao hàm cả chức năng giáo dục, chức năng chuyển giao văn hoá, chức năng liên kết...
*Chức năng dự báo
Bản chất của hoạt động văn hoá là hoạt động trí tuệ, hoạt động sáng tạo; vì vậy trong quá trình hoạt động văn hoá, con người dần dần phát hiện ra những qui luật của tự nhiên, qui luật của xã hội, qui luật của con người... Những khám phá đó mở rộng tầm hiểu biết, khả năng phán đoán, suy luận và trí tưởng tượng của con người. Nhờ các khả năng trên, con người có thể dự báo về thiên nhiên, xã hội, con người một cách khoa học và xây dựng được các phương án thích ứng cho sự tồn tại của chính mình.
Những dự báo của văn hoá vừa mang tính khoa học, vừa mang tính nhân văn cao; nó giúp cho con người ngày càng cộng sinh tốt hơn với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội.
Như vậy, văn hoá là hoạt động sáng tạo theo qui luật của cái đẹp, nó tạo nên một thiên nhiên thứ hai, một môi trường thứ hai nuôi dưỡng con người. Với ý nghĩa đó, văn hoá đồng thời thực hiện nhiều chức năng như là những tác nhân góp phần quan trọng vào việc hình thành, phát triển và hoàn thiện con người văn hoá. Con người văn hoá thường xuyên được các chức năng văn hoá chi phối, điều chỉnh một cách vừa tự giác vừa không tự giác. Nói cách khác, khi nào con người thoát li khỏi các hoạt động văn hoá tức là khi ấy con người đã tha hoá. Tìm hiểu các chức năng của văn hoá sẽ giúp chúng ta hiểu sâu sắc hơn bản chất của văn hoá và vị trí, vai trò của văn hoá trong đời sống xã hội; đặc biệt là tầm văn hoá trong các sáng tác nghệ thuật như: văn chương, âm nhạc, hội hoạ, điêu khắc…
Các chức năng của văn hoá luôn có mối quan hệ biện chứng với nhau, vì vậy không nên tuyệt đối hoá vai trò của một chức năng nào. Có thể, trong những trường hợp cụ thể, cần nhấn mạnh chức năng giáo dục bởi nhờ chức năng này, văn hoá tạo nên sự phát triển liên tục của lịch sử nhân loại và lịch sử dân tộc. Các chức năng khác là các phương diện, các lĩnh vực có vai trò cụ thể hoá chức năng giáo dục. Hiểu biết đầy đủ về các chức năng của văn hoá chính là khẳng định mục tiêu cao cả của văn hoá: văn hoá vì con người, vì sự phát triển và hoàn thiện của con người.
Mối quan hệ giữa chức năng giáo dục và chức năng thẩm mỹ
Khi ta khẳng định văn hoá vừa nội dung vừa là mục đích của giáo dục (giáo dục là phương tiện đem văn hoá của loài người đến cho từng cá nhân để biến mỗi cá nhân trở thành con người có văn hoá) cũng có nghĩa là giáo dục phải tuân theo qui luật của cái đẹp, thấm nhuần cái đẹp, xúc động trước cái đẹp... Đó là cốt lõi làm nên phẩm giá con người (Bi-ê-lin-xki). Nói cách khác, giáo dục có nghĩa là giáo dục thẩm mỹ-với tư cách là một bộ phận của Mỹ học.
Không thể nói đến năng lực thẩm mỹ nếu ít nhất, con người không có sự phát triển bình thường của đôi mắt, đôi tai... những cơ sở để nhận biết, cảm thụ ánh sáng, âm thanh, màu sắc... Năng khiếu và tài năng trong lĩnh vực thẩm mỹ gắn liền với những tố chất đặc biệt của các khí quan, các giác quan của con người.
Giáo dục thẩm mỹ, hiểu theo nghĩa hẹp, là một quá trình, một hệ thống giáo dục xã hội, mà trong đó, chủ thể của giáo dục với một lập trường, một định hướng giá trị nhất định, bằng những phương tiện, những hình thức nhất định, tác động lên con người nhằm hình thành trong họ những nhu cầu và năng lực thẩm mỹ.
"Con vật chỉ xây dựng theo kích thước và nhu cầu giống loài của nó, còn con người thì có thể làm ra mọi kích thước của bất cứ loài nào và ở đâu cũng biết vận dụng tri thức và ý thức của mình để làm ra những sản phẩm theo qui luật của cái đẹp" (Mác)
Đối với con người, giáo dục thẩm mỹ là nhằm mục đích hình thành các tình cảm, thị hiếu, quan điểm và lí tưởng thẩm mỹ.
Tình cảm thẩm mỹ là một hình thái đặc biệt của tình cảm, một yếu tố cấu thành hệ thống tình cảm của con người. Khác với những trạng thái tâm lí bản năng ở động vật, tình cảm thẩm mỹ chỉ có thể có ở con người xã hội. Nó là phản ứng tình cảm của con người nảy sinh trong trong sự sáng tạo và thưởng thức cái đẹp, là sự phản ánh hiện thực một cách đặc thù, độc đáo trong ý thức con người; nó bao hàm cả đạo đức, xúc cảm và thẩm mỹ của con người.
Thị hiếu thẩm mỹ, trước hết, được coi là sở thích của con người trong lĩnh vực thẩm mỹ. Khi ai đó nói rằng họ thích một cảnh biển chiều, một bức hoạ, một bản nhạc, một bài thơ... thì tức là họ đã cảm nhận và đánh giá được một giá trị thẩm mỹ nhất định của đối tượng. Vì vậy, thị hiếu thẩm mỹ được coi một năng lực đánh giá thẩm mỹ của con người; năng lực này thường là hệ quả của tri thức, trình độ, "phông" văn hoá (nói nôm na là "dân trí") của con người; do đó mà có thị hiếu cao cả và thị hiếu thấp hèn! Về bản chất, thị hiếu thẩm mỹ bao giờ cũng là sự thống nhất hài hoà giữa tình cảm và lí trí trên cơ sở của một lí tưởng thẩm mỹ nhất định.
Lí tưởng thẩm mỹ được coi là hình thái cao nhất của ý thức thẩm mỹ; nó vừa bao hàm những nhân tố của tình cảm, thị hiếu; vừa bao hàm những nhân tố của lí trí, tri thức, quan niệm. Cụ thể hơn; nó là cái đích; là khát vọng hướng tới chân, thiện, mỹ; là sự thống nhất giữa biểu tượng và quan niệm về cái đẹp trong mối quan hệ giữa con người với con người, con người với thiên nhiên, con người với xã hội và con người với nghệ thuật...
Giáo dục thẩm mỹ được coi là một loại hình giáo dục đặc thù tương ứng với các loại hình giáo dục khác (giáo dục phổ thông, giáo dục đại học, giáo dục hướng nghiệp...); nó có nhiệm vụ phát triển một năng lực đặc thù ở con người: năng lực thẩm mĩ. Như vậy, giáo dục thẩm mỹ có tư cách là một bộ phận cấu thành của hệ thống giáo dục xã hội, hệ thống có nhiệm vụ giáo dục để phát triển toàn diện con người. Giáo dục thẩm mỹ, hiểu theo nghĩa rộng, chính là sự hình thành văn hoá thẩm mỹ; nghĩa là không chỉ những hoạt động thẩm mỹ đặc thù, mà ngay cả những hoạt động ngoài thẩm mỹ (chính trị, khoa học...) cũng đều phải mang tính nhân văn, đều phải góp phần hoàn thiện con người văn hoá- thẩm mỹ.
Tóm lại, mục đích của chức năng giáo dục là để đạt tới một lí tưởng thẩm mỹ nhất định, còn giáo dục là phương tiện và tiền đề để con người có đủ "dân trí" hướng tới một lí tưởng thẩm mỹ nào đó (cao hoặc thấp) và bao giờ cái lí tưởng thẩm mỹ ấy cũng có chức năng như một tác nhân thúc đẩy sự phát triển và hoàn thiện con người. Nghĩa là trong chức năng giáo dục đã hàm chứa chức năng thẩm mỹ, còn chức năng thẩm mĩ sẽ làm nên tính nhân văn cho một nền giáo dục cụ thể.
(Tham luận hội thảo Giáo dục Nghệ thuật và Cuộc sống)
Nguồn: http://www.spnttw.edu.vn/
Tài liệu tham khảo:
1. PGS.Viện sĩ Trần Ngọc Thêm. Cơ sở văn hoá Việt Nam. NXBGD, H.1999.
2. Trần Quốc Vượng, Lâm Mĩ Dung, Tô Ngọc Thanh, Trần Thuý Anh. Cơ sở văn hoá Việt Nam. NXBGD, H.1998.
3. Vĩnh Quang Lê. Về giáo dục thẩm mĩ ở nước ta hiện nay. NXB CTQG.