1. Di sản văn hóa và vai trò của nó trong du lịch di sản
Di sản văn hóa là biểu hiện của cách sống được phát triển bởi cộng đồng và được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, bao gồm phong tục, thực tiễn, địa điểm, đồ vật, biểu hiện và giá trị nghệ thuật. Di sản văn hóa thường được thể hiện dưới dạng di sản văn hóa phi vật thể hoặc hữu hình [ICOMOS 2002].
Theo Luật Di sản văn hóa của Việt Nam: “Di sản văn hóa bao gồm di sản văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa vật thể, là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” [Luật Di sản Văn hóa 2001].
Là một phần trong hoạt động của con người, di sản văn hóa tạo ra những biểu hiện hữu hình về hệ thống giá trị, niềm tin, truyền thống và lối sống. Là một phần thiết yếu của văn hóa nói chung, di sản văn hóa, chứa đựng những dấu vết hữu hình hàm chứa trong đó những giá trị của quá khứ đã qua. Di sản văn hóa cho phép chúng ta hiểu rõ hơn về các thế hệ trước và lịch sử nơi chúng ta đến. Nó góp phần tạo nên bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc.
Du lịch di sản là loại hình rộng bao gồm cả du lịch sinh thái và du lịch văn hóa, trong đó chú trọng tới bảo tồn di sản thiên nhiên và di sản văn hóa. Nó là loại hình hoặc mảng thị trường bao gồm các chuyến tham quan các khu di tích lịch sử, viện bảo tàng, phòng trưng bày nghệ thuật, và khám phá các khu sinh thái, vườn quốc gia [Arthur Pedersen 2002: 27].
Trong những thập niên gần đây sự phát triển của ngành du lịch - ngành “công nghiệp” không khói - đã và đang giữ vị trí quan trọng trong nền kinh tế toàn cầu. Trong đó, du lịch văn hóa và du lịch di sản đóng một vai trò quan trọng trong việc xây dựng nền “công nghiệp” du lịch, đặc biệt ở những nước đang phát triển, những nước mà nền kinh tế “đại công nghiệp” còn đang trong giai đoạn “chập chững”. Trong một khảo sát gần đây cho thấy: “hơn 50% số người được thăm dò ý kiến đồng ý rằng lịch sử và văn hóa ảnh hưởng mạnh đến sự lựa chọn của họ về điểm đến cho những kỳ nghỉ” [Culture and Managerial Implications 2016].
Số liệu thống kê cũng chỉ ra rằng du lịch văn hóa và di sản tiếp tục phát triển nhanh chóng, đặc biệt là ở các nước OECD (Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế) và APEC (Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương). Uớc tính giá trị kinh tế toàn cầu trực tiếp của du lịch văn hóa và di sản mang lại trên 1 tỷ USD, trong đó khu vực Châu Á Thái Bình Dương là khoảng 327 triệu USD. Du lịch văn hóa và di sản đã trực tiếp giải quyết vấn đề việc làm cho hơn 50 triệu người trong các nước APEC. Hơn nữa, lợi ích gián tiếp của du lịch văn hóa và di sản được cho là khoảng 1 tỷ đô la và giải quyết hơn 75 triệu việc làm trong khu vực” [Culture and Managerial Implications 2016].
Thống kê trên là một trong những bằng chứng rõ ràng về ảnh hưởng của du lịch di sản và du lịch văn hóa đối với nền kinh tế bền vững ở các nước đang phát triển.
Nhiều nghiên cứu trong lĩnh vực du lịch cũng cho thấy đối với nhóm đối tượng là khách du lịch di sản, các di sản văn hóa vật thể: khu bảo tồn thiên nhiên, các tòa nhà có giá trị lịch sử, kiến trúc, các phòng trưng bày nghệ thuật và viện bảo tàng hoặc các di sản văn hóa phi vật thể: hòa nhạc, ca múa truyền thống, lễ hội dân gian,… là những điểm đến và hoạt động thật sự tạo cho họ những ấn tượng về sự trải nghiệm, học tập cũng như giải trí bổ ích.
Các nhóm khách du lịch di sản thường kéo dài thời gian lưu trú vì muốn trải nghiệm hoạt động di sản cũng như các hoạt động văn hóa. Phần lớn họ ở lại qua đêm tại các nhà nghỉ địa phương, khách sạn, hoặc khu cắm trại dùng bữa tại điểm đến di sản. Nhóm đối tượng này cũng có khuynh hướng chi tiêu nhiều hơn các loại khách du lịch khác, ngay tại địa phương mà họ đến. Trong nghiên cứu của mình, Carolyn Childs nhận xét: “Không thể phủ nhận thực tế là du lịch văn hóa và di sản có xu hướng thu hút khách du lịch với hiệu suất cao hơn. Mặc dù chưa có được số liệu thống kê toàn cầu nhưng tất cả số liệu thống kê về du lịch tại các thị trường riêng lẻ khác nhau như Anh, New Zealand, Úc, Ấn Độ,... đều cho thấy một mô hình thống nhất. Khách du lịch văn hóa, di sản thường ở lại lâu hơn và chi tiêu nhiều tiền hơn nhiều so với các khách du lịch khác. Trên thực tế, một nghiên cứu cho thấy một du khách văn hóa và du lịch đã chi tiêu hàng ngày cao hơn 38% và tỷ lệ họ lưu trú tại địa phương là 22% so với các loại khách du lịch khác” [Culture and Managerial Implications 2016]. Qua những thống kê và nghiên cứu trên có thể thấy lợi ích của văn hóa và du lịch di sản được khuếch đại thông qua nền kinh tế, vì vậy tác động của nó rộng lớn hơn nhiều so với mức chi tiêu trực tiếp.
Ở Việt Nam, ngành du lịch đã và đang góp phần đáng kể vào việc thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và xuất khẩu tại chỗ; bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa, tài nguyên thiên nhiên; tạo nhiều việc làm, nâng cao đời sống nhân dân; đẩy mạnh quá trình hội nhập quốc tế, quảng bá hình ảnh đất nước, con người.
Thống kê tình hình kinh tế - xã hội thường niên, trong đó có nêu những số liệu đóng góp của ngành du lịch sau:
Theo Báo cáo thường niên từ Travel & Tourism Economic Impact 2016 Vietnam (WTTC) của Hội đồng Du lịch và Lữ hành thế giới công bố hồi tháng 3 năm 2016, tổng đóng góp của du lịch vào GDP Việt Nam, bao gồm cả đóng góp trực tiếp, gián tiếp và đầu tư công là 584.884 tỷ đồng (tương đương 13,9% GDP). Trong đó, đóng góp trực tiếp của du lịch vào GDP là 279.287 tỷ đồng (tương đương 6,6% GDP). Tổng đóng góp của du lịch vào lĩnh vực việc làm toàn quốc (gồm cả việc làm gián tiếp) là hơn 6,035 triệu việc làm, chiếm 11,2%. Trong đó, số việc làm trực tiếp do ngành du lịch tạo ra là 2,783 triệu (chiếm 5,2% tổng số việc làm) [Nguyệt Hà 2016].
Chỉ riêng ở Thành phố Hồ Chí Minh, theo số liệu của Ủy ban nhân dân (UBND) Thành phố Hồ Chí Minh, trong năm 2015, Thành phố đã đón hơn 19,3 triệu lượt khách du lịch trong nước và 4,6 triệu lượt khách du lịch quốc tế, chiếm khoảng 57% lượt khách quốc tế đến Việt Nam. Doanh thu từ du lịch của Thành phố trong năm 2015 đạt 94.600 tỷ đồng, tương đương 4,2 tỷ USD, chiếm 9,88% GDP của Thành phố và 30,2% doanh thu du lịch của cả nước [Thanh Mai 2016].
2. Bảo tàng tại Thành phố Hồ Chí Minh – điểm đến của du lịch di sản
Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm du lịch lớn hàng đầu cả nước, dù tuổi đời không có bề dày như Hà Nội, Huế, song từng mệnh danh là “Hòn ngọc Viễn Đông”. Trải qua nhiều biến cố lịch sử, Thành phố vẫn có những sức hút riêng, là điểm đến hấp dẫn du khách trong nước và quốc tế. Vùng đất Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh với vị trí địa lý của mình cũng có những điểm độc đáo cho khách du lịch với du lịch văn hóa, du lịch di sản. Các đối tượng di sản lịch sử và văn hóa, là một tài sản quan trọng của thành phố, tạo ra lợi nhuận và ảnh hưởng đáng kể đến sự phát triển kinh tế - xã hội.
Di sản của Thành phố Hồ Chí Minh dưới góc độ vật thể và phi vật thể hiện diện dưới nhiều hình thức phong phú, có liên quan đến những địa điểm, những kiến trúc cổ, không gian và những câu chuyện liên quan đến đời sống cư dân Thành phố. Những tòa nhà: Dinh xã Tây (Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh), Dinh Gia Long (Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh), Nhà chú Hỏa (Bảo tàng Mỹ thuật), Bảo tàng Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh, Bến Nhà Rồng (Bảo tàng Hồ Chí Minh chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh), Nhà thờ Đức Bà, những ngôi chùa, đình, hội quán, biệt thự xưa,... là những dấu tích, những điểm nhấn, mốc thời gian về đời sống đô thị Sài Gòn hơn 300 năm hình thành và phát triển. Nhiều di tích ban đầu không còn tồn tại, nhiều khu di tích đã bị bỏ rơi nhưng những câu chuyện gắn với nó vẫn còn và có những ảnh hưởng nhất định đến ý thức của cộng đồng với di sản. Phục hồi các giá trị văn hóa địa phương, phát triển sáng tạo truyền thống - di sản lịch sử và văn hóa thúc đẩy việc nâng cao văn hóa của người dân địa phương cũng như phát triển kinh tế và tái bảo tồn di sản đó chính là lợi ích vượt ra ngoài phạm vi kinh tế của du lịch di sản.
Theo số liệu thống kê của Sở Văn hóa và Thể thao Thành phố Hồ Chí Minh năm 2017, chỉ riêng về di tích, toàn thành phố đã có 172 công trình, địa điểm được xếp hạng, trong đó có 02 di tích quốc gia đặc biệt; 56 di tích quốc gia (di tích khảo cổ học: 02, di tích kiến trúc nghệ thuật: 30, di tích lịch sử: 24); 114 di tích cấp thành phố (di tích kiến trúc nghệ thuật: 48, di tích lịch sử: 66). Ngoài ra, còn có trên 100 công trình, địa điểm đang được đề nghị đưa vào Danh mục kiểm kê di tích lịch sử - văn hóa [Phòng Di sản Văn hóa 2017a].
Về hệ thống các bảo tàng trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh có 14 bảo tàng (12 bảo tàng công lập và 02 bảo tàng tư nhân) [Phòng Di sản Văn hóa 2017b]. Đây cũng là nơi có số lượng bảo tàng nhiều nhất so với các tỉnh thành trên cả nước. Về loại hình, các bảo tàng được chia thành 04 loại:
+ Bảo tàng tổng hợp khảo cứu: gồm Bảo tàng Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh, Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh.
+ Bảo tàng danh nhân: gồm Bảo tàng Hồ Chí Minh – Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh, Bảo tàng Tôn Đức Thắng.
+ Bảo tàng chuyên đề: rất phong phú và đa dạng, gồm Bảo tàng Mỹ thuật, Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh, Bảo tàng Phụ nữ Nam bộ, Bảo tàng Lực lượng Vũ trang miền Đông Nam Bộ, Bảo tàng Chiến dịch Hồ Chí Minh, Bảo tàng Không quân phía Nam.
+ Bảo tàng chuyên ngành: Bảo tàng Địa chất, Bảo tàng Fito (bảo tàng tư nhân ngành y học cổ truyền).
Ngoài 7 bảo tàng do Sở Văn hóa và Thể thao quản lý; Bảo tàng Địa chất, Bảo tàng Fito (bảo tàng tư nhân ngành y học cổ truyền) thì các bảo tàng còn lại trực thuộc sự quản lý của quân đội và chủ yếu đáp ứng công tác giáo dục chính trị cho quân đội, các tổ chức xã hội.
Theo số liệu ghi nhận từ 7 bảo tàng do Sở Văn hóa và Thể thao Thành phố Hồ Chí Minh quản lý, tổng số hiện vật là 185.647 (trong đó có 124.220 hiện vật gốc); với 237 bộ sưu tập, trong đó có 50 bộ quý hiếm (7.468 hiện vật). Trong đó, có 12 bảo vật quốc gia (Số liệu năm 2012).
Tổng diện tích trưng bày: 25.126m2 (trong nhà: 19.275m2, ngoài trời: 5.851m2).
Chính từ sự đa dạng về loại hình mà nội dung trưng bày của các bảo tàng tại Thành phố rất phong phú, không chỉ giới thiệu về lịch sử và văn hóa địa phương, mà còn của cả khu vực Nam Bộ, Việt Nam và khu vực Đông Nam Á, gắn liền với quá trình giao lưu tiếp biến và hội nhập văn hóa trên vùng đất này.
Đến với bảo tàng, du khách không chỉ được quan chiêm những di sản kiến trúc đẹp mang phong cách thuộc địa với nhiều trường phái, được xây dựng từ đầu thế kỷ XX như: Tòa nhà Bảo tàng Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh, Bảo tàng Mỹ thuật, Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh,… mà ở đây, qua các sưu tập hiện vật trưng bày tại các bảo tàng du khách có thể tìm hiểu về lịch sử, văn hóa của thành phố Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh hơn 300 năm, lịch sử của Phụ nữ Sài Gòn - Nam Bộ, mỹ thuật vùng đất phương Nam hay về lịch sử - văn hóa thu nhỏ của cả đất nước Việt Nam; về khát vọng hòa bình của một dân tộc đã đi qua những cuộc chiến tranh tàn khốc kéo dài hơn nửa thế kỷ.
3. Những hạn chế và tồn tại của những điểm du lịch di sản - bảo tàng
Hằng năm, trung bình các bảo tàng trên địa bàn Thành phố đón trên 2.700.000 lượt khách tham quan (trong đó khách nước ngoài đạt 700.000 lượt chiếm 26% tổng số khách).
Bảng thống kê số lượng khách du lịch tham quan các bảo tàng tại Thành phố Hồ Chí Minh (2011-2015)
(Đơn vị: lượt người)
Năm |
Khách tham quan Bảo tàng | Khách xem triển lãm lưu động |
Tổng số |
|
Trong nước | Nước ngoài | |||
2011 | 1.340.892 | 700.316 | 637.647 | 2.678.855 |
2012 | 1.324.391 | 736.600 | 726.755 | 2.787.746 |
2013 | 1.436.755 | 780.768 | 741.422 | 2.958.945 |
2014 | 1.376.400 | 785.901 | 1.107.747 | 3.270.048 |
2015 | 1.138.479 | 893.921 | 798.970 | 2.831.370 |
(Nguồn: Sở Văn hóa và Thể thao Thành phố Hồ Chí Minh)
Tuy nhiên, qua số liệu trên cho thấy số lượng khách du lịch quốc tế đến Thành phố tham quan các bảo tàng chưa nhiều. Chủ yếu số lượng khách tham quan bảo tàng là khách trong nước, tập trung ở đối tượng thanh thiếu niên, học sinh.
Cả Thành phố chỉ có một bảo tàng duy nhất được website du lịch uy tín TripAdvisor ghi nhận là bảo tàng thu hút khách du lịch nước ngoài đông nhất là Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh.
Số liệu khách du lịch nước ngoài tham quan
Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh (2011-2015)
(Đơn vị: lượt người)
Năm |
Khách nước ngoài tham quan Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh |
2011 | 459.000 |
2012 | 491.104 |
2013 | 537.436 |
2014 | 532.841 |
2015 | 652.636 |
(Nguồn: Sở Văn hóa và Thể thao Thành phố Hồ Chí Minh)
Ngoài số khách lẻ, thì số đoàn khách quốc tế được sắp xếp vào lịch trình của các tour du lịch đến Thành phố cũng chưa có một tour chính thức cho các bảo tàng. Qua thống kê số liệu, các công ty du lịch thường xuyên đưa khách đến với Bảo tàng Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh là: Công ty Tân Hồng, Công ty Exotimo, Công ty Saigon Tourist,… Mới chỉ có từ 2 cho đến 3 bảo tàng ở Thành phố được các công ty du lịch xây dựng trong tour những điểm đến tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Nguyên nhân vì sao các bảo tàng tại Thành phố chưa là điểm đến đối với khách tham quan. Tổng hợp những đánh giá, nhận xét của giới truyền thông cũng như các công ty du lịch qua các tọa đàm, hội thảo đề cập đến những hạn chế của các bảo tàng ở Thành phố đó là dường như các bảo tàng mới chỉ dừng lại nhiệm vụ lưu giữ, bảo tồn giá trị văn hóa, lịch sử, phục vụ công tác nghiên cứu chưa thật sự trở thành nơi học tập hoặc là những điểm đến thật sự hấp dẫn du khách do:
- Các bảo tàng cũng chưa quan tâm nhiều tới nhu cầu và thị hiếu của khách du lịch, chưa có chiến lược gắn kết với hoạt động du lịch nên các dịch vụ chưa đạt chất lượng và hiệu quả.
- Hiện vật phong phú, nhưng cách trưng bày còn cũ kỹ, lạc hậu, chưa hấp dẫn, đơn điệu, tẻ nhạt, thiếu tính sáng tạo.
- Chưa có hệ thống thuyết minh hiện đại đi kèm, ít thông tin để du khách hiểu thêm về hiện vật, giá trị của nó, chưa có câu chuyện dẫn dắt.
- Chưa đa dạng trong hoạt động và đổi mới phương thức tiếp cận công chúng và khách tham quan.
- Năng lực của hướng dẫn viên hạn chế, khả năng ngoại ngữ còn yếu, ít điều kiện học hỏi và phát triển nghề nghiệp.
- Công tác truyền thông, marketing còn kém.
- Cơ sở vật chất xuống cấp, chưa đáp ứng được yêu cầu phục vụ du khách.
- Thiếu cơ sở vật chất phục vụ du khách như nơi đỗ xe, khu vực nghỉ chân, nhà vệ sinh và các dịch vụ bổ trợ khác...
Những nhận xét, đánh giá này tuy còn có những phiến diện và chủ quan, nhưng cũng đã chỉ ra được ít nhiều những bất cập trong hoạt động của hệ thống bảo tàng tại Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian qua.
4. Du lịch và di sản – cái nhìn từ nhiều phía
Mối liên hệ giữa di sản văn hóa và du lịch là khía cạnh dễ thấy nhất của sự đóng góp của văn hóa đối với sự phát triển của kinh tế địa phương. Khi du lịch được xác định là một phần của chiến lược phát triển tổng thể, việc xác định, bảo vệ và tăng cường nguồn lực di sản là rất quan trọng. Những khảo sát ở phần trên cho thấy, trên toàn thế giới, bất cứ nơi nào du lịch di sản làm tốt vai trò của mình thì du khách di sản ở lại lâu hơn, chi tiêu nhiều hơn mỗi ngày, và do đó, có một tác động kinh tế lớn hơn. Ở một số nơi du lịch di sản văn hóa là một trong những nguồn đóng góp kinh tế chính. Ngành du lịch là “ngành công nghiệp” sử dụng di sản văn hóa ở mức độ lớn nhất, kết hợp với các hoạt động nền tảng của nó như chỗ ở khách sạn, đi lại và ăn uống. Bảo tàng - với những nội dung hoạt động của nó chính là một sản phẩm độc đáo không thể thiếu được của du lịch di sản.
Thống kê của Tổ chức Visit Britain tháng 6 năm 2008: “Vương quốc Anh là một trong ba nước hàng đầu trên thế giới về văn hóa. Lịch sử, di sản và văn hóa là những lý do phổ biến nhất để đến Vương quốc Anh. Một cuộc khảo sát chỉ số Thương hiệu Quốc gia cho thấy 65% du khách đến Vương quốc Anh sẽ có nhiều khả năng đến các viện bảo tàng. Ước tính văn hóa và di sản của Anh thu hút 4,5 tỷ bảng Anh chi tiêu của du khách trong nước hàng năm, tương đương với hơn một phần tư chi tiêu của du khách quốc tế, và củng cố hơn 100.000 việc làm trên khắp vương quốc Anh” [The UK Tourist 2008].
Như vậy, rõ ràng tác động của di sản từ hoạt động hiệu quả của các bảo tàng thúc đẩy ngành du lịch phát triển là một thực tế. Từ việc khai thác di sản, nhiều việc làm mới đã được tạo ra trong ngành du lịch và kết quả là những con số này thậm chí còn ấn tượng hơn. Lợi ích của du lịch di sản không chỉ thể hiện trong vai trò kinh tế, mà còn đóng góp cho xã hội và bảo vệ môi trường. Nếu xem di sản là nguồn tài nguyên quan trọng trong phát triển kinh tế, tạo việc làm và sự gắn kết xã hội, mang lại tiềm năng bảo tồn và phát huy giá trị di sản, thúc đẩy du lịch bền vững thì vai trò của các bảo tàng tại Thành phố cần được nhận thức đúng đắn hơn. Khi du lịch di sản được thực hiện đúng, những người thụ hưởng lợi ích không chỉ là khách du lịch mà cộng đồng cư dân địa phương sẽ cảm thấy tự hào hơn khi nơi ở của họ và lịch sử của nó tái hiện qua các bảo tàng được đánh giá cao.
Du lịch di sản là hết sức cần thiết để nâng cao nhận thức về di sản văn hóa. Thông qua chức năng giáo dục của bảo tàng, cách tốt nhất để có thể bảo tồn di sản văn hóa của mỗi địa phương, cộng đồng là chia sẻ nó với công chúng một cách dễ hiểu, dễ tiếp cận nhất bằng chính những câu chuyện chân thật của riêng mình. Mỗi câu chuyện này sẽ đa dạng hướng tiếp cận, thu hút nhiều đối tượng du khách. Đó có thể là câu chuyện về lịch sử kiến trúc thuộc địa của các tòa nhà bảo tàng hiện nay; là câu chuyện của những con người đã từng hiện diện tại những công trình kiến trúc độc đáo này (Nguyễn Tất Thành, Hui Bon Hoa, Ngô Đình Diệm); là những bộ sưu tập hiện vật lịch sử, cổ vật đầy ấn tượng mang đặc trưng của văn hóa phương Nam được góp nhặt, sưu tầm; là nét độc đáo của các loại hình văn hóa phi vật thể qua những hoạt động trình diễn;…
Giải quyết hài hòa lợi ích giữa bảo tồn, quảng bá, tôn vinh di sản đi đôi với phát triển kinh tế, xã hội từ du lịch di sản cần có cái nhìn từ hai phía.
4.2. Nhìn từ góc độ di sản văn hóa
Xuất phát từ nhu cầu ngày càng tăng trong lĩnh vực văn hóa tinh thần và việc phải tự chủ về kinh tế trong thời kỳ hội nhập đã đặt ra cho hệ thống bảo tàng những thách thức mới. Công chúng giờ đây đã và đang đóng vai trò ngày một quan trọng hơn trong việc quyết định sự tồn tại hay không tồn tại của bảo tàng trong cơ chế thị trường và sự cạnh tranh của bảo tàng với các loại hình giải trí khác. Làm thế nào để thu hút công chúng đến với bảo tàng. Đây là một bài toán không đơn giản. Như một nhà bảo tàng học nhận định: “Bảo tàng không thể coi nhẹ đối tượng phục vụ của mình, mà phải vận động và tìm cách lôi kéo công chúng đến thăm bảo tàng vì chính họ mang lại nguồn thu quan trọng cho bảo tàng. Như vậy, do nhu cầu khách quan (nhu cầu thưởng thức văn hóa của công chúng) và nhu cầu chủ quan của bảo tàng (nhu cầu nâng cao nguồn thu để nuôi dưỡng các hoạt động nghiệp vụ) mà bảo tàng phải đa dạng hóa các hoạt động của mình với chất lượng cao” [Nguyễn Văn Huy 2004: 25].
Thấy được những hạn chế trong hoạt động của mình, ngoài những chỉ đạo mang tính định hướng từ Ủy ban Nhân dân Thành phố, Sở Văn hóa và Thể thao, các bảo tàng tại Thành phố Hồ Chí Minh cũng đã có những chuyển đổi quan trọng trong tư duy, đổi mới nội dung; chỉnh lý, nâng cao chất lượng trưng bày; xây dựng các bộ sưu tập hiện vật có giá trị, xuất bản công bố các ấn phẩm về sưu tập hiện vật bảo tàng, quảng bá hoạt động qua các phương tiện thông tin đại chúng, website; cải thiện dịch vụ, tiếp cận các nhóm công chúng; phát triển hoạt động giáo dục di sản, trình diễn; mở rộng quan hệ hợp tác, xã hội hóa các hoạt động bảo tàng, cải tạo sửa chữa cơ sở vật chất: cảnh quan, nhà vệ sinh; đào tạo nâng cao năng lực đội ngũ nhân viên bảo tàng, đa dạng hóa dịch vụ;… nhằm thu hút công chúng đến tham quan bảo tàng, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa, mở mang tri thức cũng như giải trí của công chúng.
Đánh giá một cách khách quan, hầu hết các bảo tàng tại Thành phố Hồ Chí Minh được thành lập trên cơ sở tiếp quản lại các công trình kiến trúc cũ. Ngoại trừ Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh được xây dựng mới sau 1975 thì duy nhất có Bảo tàng Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh (tiền thân là Bảo tàng Blanchard de la Brosse) là công trình Bảo tàng do người Pháp xây dựng với mục đích thiết kế làm bảo tàng. Các bảo tàng khác như: Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh (Dinh Gia Long cũ), Bảo tàng Mỹ thuật (nhà chú Hỏa), Bảo tàng Hồ Chí Minh - Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh (Bến Nhà Rồng), Bảo tàng Phụ nữ Nam bộ, Bảo tàng Tôn Đức Thắng,… đều là các công trình dinh thự cũ xây dựng từ thời Pháp, thời chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Tất cả những kiến trúc này, dù được xây dựng đúng công năng hay được cải biến cho phù hợp với chức năng hiện hữu thì cho đến nay cũng đã gần hết hạn sử dụng, xuống cấp trầm trọng hoặc quá chật hẹp trong sự phát triển của đời sống đô thị, của ngành công nghiệp du lịch hiện tại. Trong khi chưa thể xây mới và quy hoạch hệ thống các bảo tàng một cách hợp lý, có chiến lược thì việc vẫn phải tận dụng các di sản này với công năng là bảo tàng với rất nhiều hạn chế được nêu ở trên vẫn là một bài toán chưa có lời giải. Đơn cử với những bảo tàng đã trở thành di tích kiến trúc nghệ thuật thì riêng kinh phí cho việc duy tu, bảo tồn những tòa nhà hàng trăm tuổi cũng là vấn đề không đơn giản; xây dựng thêm những công trình phụ: nhà vệ sinh, khu trưng bày mới, sắp xếp khu vực để xe khách tham quan,… tại các bảo tàng không dễ do diện tích có hạn, thiết kế theo quy hoạch xưa, chịu những ràng buộc của Luật Di sản văn hóa trong việc sử dụng di tích…
Về hoạt động của các bảo tàng, những năm gần đây, những chuyển biến tích cực đã được ghi nhận trong công tác chỉnh lý, cải tạo trưng bày, giới thiệu nhiều trưng bày chuyên đề đến với công chúng, từ chuyên đề trưng bày cố định cho đến các trưng bày, triển lãm lưu động, đưa hoạt động, nội dung trưng bày của bảo tàng đến với trường học, khu công nhân, người lao động vùng sâu, vùng xa; là những “Giờ học Sử tại Bảo tàng” sinh động với các học sinh tiểu học ở Bảo tàng, các cuộc tranh tài thú vị trong các cuộc thi tìm hiểu về lịch sử “Em là hướng dẫn viên bảo tàng”, “Tự hào sử Việt”, thi vẽ “Thành phố Hồ Chí Minh - thành phố tôi yêu”, “Lịch sử Việt Nam qua tranh vẽ”, “Nét vẽ xanh”,… Nhiều bộ sưu tập của các cá nhân, tổ chức ngoài công lập cũng được giới thiệu rộng rãi tại bảo tàng dưới nhiều hình thức. Bên cạnh đó, nhiều bộ sưu tập quý của các bảo tàng cũng đã được mang đi trưng bày giao lưu quốc tế tại Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc, Mỹ, Áo, Bỉ,…
Những hoạt động đa dạng khác như nói chuyện chuyên đề, tọa đàm xen với trình diễn nghệ thuật dân tộc: hát bội, cải lương, đờn ca tài tử, hát sắc bùa, âm nhạc cồng chiêng,… cũng đã được tổ chức theo kế hoạch tại các bảo tàng; tuy nhiên những hoạt động này chủ yếu hướng nội và đột xuất, không thường xuyên nên đối với du khách nước ngoài những thay đổi này dường như vẫn chưa đủ sức tạo nên những cú hích lớn.
Một số hoạt động đổi mới trong công tác cải tạo, sắp xếp lại hệ thống trưng bày đã được thực hiện tại Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh, Bảo tàng Tôn Đức Thắng, Bảo tàng Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh, Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh,… với sự tham vấn của chuyên gia đầu ngành trong và ngoài nước.
Tuy nhiên, những đầu tư về kinh phí trong những năm qua của Thành phố cho Khối Bảo tàng còn khá khiêm tốn, dàn trải, phân bổ chưa hợp lý, thỏa đáng và đầu tư có trọng điểm để có thể thay đổi bộ mặt các bảo tàng từ cải tạo cơ sở vật chất phục vụ du khách: như nhà vệ sinh đạt chuẩn, bãi đỗ xe, quán giải khát, thức ăn nhẹ; nâng cao chất lượng chuyên môn: khu trải nghiệm, hiện đại hóa hệ thống trưng bày (thiết kế, mỹ thuật đến trang thiết bị trưng bày); xây dựng, bổ sung các bộ sưu tập hiện vật độc đáo, quý hiếm cho các bảo tàng; việc đưa công nghệ thông tin ứng dụng phổ biến trong thuyết minh, hướng dẫn tham quan; đẩy mạnh hoạt động marketing di sản,… Và, chủ trương đầu tư xây dựng một Bảo tàng Tổng hợp của Thành phố hiện đại xứng tầm Quốc gia và khu vực Đông Nam Á cho đến nay vẫn còn nằm trên giấy sau hơn 10 năm khởi xướng!
Hiện tại các bảo tàng đã và đang phải dần hướng tới việc phải tự chủ trong hoạt động về kinh tế. Do đó, những hoạt động của bảo tàng nếu thành công một mặt thu hút lượng khách tham quan lớn và đem lại doanh thu cho bảo tàng, mặt khác hoạt động của nó còn là công cụ nền tảng giúp phát triển các mối quan hệ bền vững với cộng đồng mà nó phục vụ và đối tượng khán giả. Bên cạnh đó, có thể thấy công tác tuyên truyền, marketing cũng là một họat động nhằm mục đích tạo nguồn khách, công chúng đến với bảo tàng. Các bảo tàng cần đẩy mạnh việc quảng bá từ các phương tiện truyền thông: truyền hình, báo, đài phát thanh, đặc biệt là trên các phương tiện truyền thông hiện đại: website, fanpage của mỗi bảo tàng về hoạt động, sự kiện. Truyền thông bảo tàng cũng phải được xây dựng như là một chương trình có tính chất dài hơi, đa dạng, phong phú dưới nhiều hình thức. Trong tư duy văn hóa của bảo tàng phải có tư duy kinh tế, không thể thụ động như thời kỳ bao cấp trông chờ vào ngân sách Nhà nước mà trong thời kỳ hội nhập cần có sự tiếp thị, quảng bá năng động, chuyên nghiệp. Ở đây, marketing của bảo tàng không chỉ phản ảnh một chiều, không đơn giản là quảng bá giới thiệu những gì đặc sắc về phía mình mà đòi hỏi phải tìm hiểu, nghiên cứu về văn hóa, sở thích của du khách, công chúng, để họ tiếp cận và hiểu về văn hóa Việt Nam và con người Việt Nam.
Chiến lược truyền thông của các bảo tàng cũng cần đề cập đến việc kêu gọi tài trợ từ các tổ chức, cá nhân ngoài hoạt động có thu của các bảo tàng. Tài trợ có thể là giúp đỡ, hợp tác trong in ấn ấn phẩm, tài trợ cho hoạt động sự kiện,…
Nhiều hội thảo, tọa đàm của các chuyên gia bảo tàng, ngành du lịch hướng đến việc tìm những giải pháp để đa dạng hóa hoạt động, tìm tòi lôi cuốn công chúng đến với bảo tàng cũng đã được đặt ra: Hội thảo khoa học - thực tiễn “Làm thế nào để thu hút khách tham quan đến bảo tàng” (tháng 5/2013); “Marketing Bảo tàng và Di tích” (tháng 8/2016); Hội thảo “Bảo tàng với hoạt động giáo dục, trải nghiệm và kết nối lữ hành – trường học” (tháng 10/2016) và các cuộc tọa đàm gặp gỡ khách hàng thân thiết là các hãng lữ hành.
Những hoạt động tích cực trên cho thấy các bảo tàng đã và đang hướng tới sự kết nối với ngành du lịch, liên kết trong hệ thống bảo tàng, nhằm thu hút khách tham quan đến bảo tàng và giúp cho họ có những trải nghiệm thú vị, hữu ích từ những tiếp cận những giá trị văn hóa truyền thống, bên cạnh đó là hoạt động mang tính chất thư giãn, giải trí. Chính các bảo tàng ở Thành phố cũng nhận thức được vai trò và mối quan hệ gắn bó hữu cơ mật thiết giữa du lịch và di sản đó là: di sản góp phần thúc đẩy du lịch phát triển và ngược lại, du lịch mang lại lợi ích kinh tế, tạo nguồn thu để có kinh phí bảo tồn di sản.
Để giải quyết được mối quan hệ hữu cơ này, các hoạt động của bảo tàng cần được đa dạng hóa, tiệm cận với khu vực và thế giới, gắn với đời sống thực của công chúng, của cộng đồng, vừa đáp ứng yêu cầu giáo dục, giải trí lẫn làm giàu tri thức. Để làm được điều này, bên cạnh sự nỗ lực của bảo tàng đòi hỏi sự quan tâm kết nối của cả cộng đồng, xã hội, sự hỗ trợ của chính quyền, đặc biệt là sự kết nối với ngành du lịch trong một chiến lược đồng bộ lâu dài.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy trong mối quan hệ này rất cần những việc làm và thái độ đúng đắn về phát triển du lịch bền vững, du lịch có trách nhiệm từ phía chính quyền và ngành du lịch để di sản không phải chịu sức ép từ sự quá tải về lượng khách, ô nhiễm môi trường và sự tàn phá do các tác nhân khác...
4.3. Nhìn từ góc độ ngành du lịch
Trên thế giới loại hình du lịch văn hóa di sản (Heritage sites cultural tourism) với những chuyến du lịch tham quan di sản, di sản văn hóa, bảo tàng (vật thể và phi vật thể) là không thể thiếu trong các chương trình đối với khách du lịch; đặc biệt với các nước đã và hiện lưu giữ bảo tồn những giá trị di sản mang tầm cỡ thế giới: Ai Cập, Hy Lạp, Ý, Nga,... Hiện tại với nhiều loại hình du lịch văn hóa khác nhau mà Thành phố Hồ Chí Minh đang thực hiện: ẩm thực, lễ hội, làng nghề truyền thống, sự kiện, thì du lịch văn hóa di sản là sản phẩm du lịch giới thiệu những giá trị văn hóa, lịch sử có trong di sản để cho khách du lịch thưởng lãm. Sử dụng di sản văn hóa để tạo ra “hồn cốt” cho sản phẩm du lịch, sẽ góp phần giải quyết được vấn đề đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch của Thành phố, vừa đóng góp cho sự phát triển kinh tế, văn hóa xã hội của thành phố, trong đó có bảo tàng.
Về khía cạnh kinh tế, phát triển du lịch đối với bảo tàng là đem lại lợi ích về kinh tế, để từ đó có thể hỗ trợ kinh phí cho công tác bảo tồn, tôn tạo di tích, bổ sung, xây dựng các bộ sưu tập, đổi mới, hiện đại hóa trưng bày, nâng chất cơ sở vật chất, đào tạo đội ngũ nhân viên để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của du khách trong điều kiện ngân sách được cấp từ Nhà nước ngày càng eo hẹp.
Ở khía cạnh văn hóa, xã hội, nếu mục đích của các bảo tàng là lưu giữ và trao truyền những giá trị lịch sử - văn hóa cho thế hệ tương lai thì việc phát triển các hoạt động du lịch văn hóa - di sản gắn với bảo tàng chính là việc quảng bá và trao truyền các giá trị văn hóa đó.
Các sản phẩm du lịch của bảo tàng đều dựa trên các giá trị tài nguyên (giá trị lịch sử, văn hóa, thẩm mỹ,…), vì vậy phát triển du lịch di sản sẽ góp phần quảng bá hình ảnh và các giá trị lịch sử của bảo tàng, các giá trị văn hóa dân tộc nhanh chóng và sâu rộng hơn thông qua khách du lịch và các phương tiện truyền thông; các hoạt động bổ trợ tại bảo tàng: trình diễn nghệ thuật truyền thống: đờn ca tài tử, hát bội, múa rối nước; ẩm thực dân tộc, sản phẩm lưu niệm: ấn phẩm sách báo, quà tặng mỹ nghệ,… sẽ lưu lại cho du khách những ấn tượng đẹp về văn hóa, di sản Việt Nam. (Thực tế việc phát triển các hoạt động dịch vụ bổ trợ của các bảo tàng tại Thành phố theo tinh thần thông tư 18/2010/TT-BVHTTDL của Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch quy định về tổ chức và hoạt động bảo tàng cũng còn rất nhiều vướng mắc từ cách hiểu khác nhau của một số cơ quan quản lý).
Như vậy, có thể thấy du lịch và di sản có quan hệ tương tác, gắn bó hữu cơ. Nếu di sản là nguồn “tài nguyên” góp phần làm phong phú, đa dạng, tăng sức hấp dẫn và giá trị của sản phẩm du lịch thì ngược lại, du lịch góp phần quan trọng để quảng bá di sản, giúp duy trì giá trị của di sản, làm cho di sản trở thành “di sản sống”.
Ở đây, chúng ta cũng lưu ý phải xác định sản phẩm từ du lịch di sản văn hóa cần phản ánh giá trị thực của nó, giá trị tương xứng mà ngành du lịch phải thuyết phục du khách trả cho những giá trị văn hóa mà họ thưởng lãm. Đây là một trong những vấn đề nghịch lý, đầy khó khăn mà các bảo tàng tại thành phố đang vấp phải (hơn 12 năm nay, giá vé tham quan các bảo tàng tại thành phố vẫn ở mức 2.000-5.000 đồng/người Việt Nam, 10.000-15.000 đồng/người nước ngoài trong khi ở các địa phương khác như Hà Nội, Đà Nẵng, Huế giá vé tham quan từ 30.000-40.000 đồng/người, trong khi đó chỉ số giá cả hơn 10 năm nay đã tăng hơn 10 lần!).
Tuy nhiên, việc phát triển du lịch văn hóa di sản với các tuyến tour ở bảo tàng nếu không được quản lý tốt cũng có nguy cơ làm ảnh hưởng đến các giá trị của di tích, của văn hóa truyền thống như sự tập trung đông người trong một thời điểm nhất định sẽ ảnh hưởng đến các di tích vốn đã có tuổi đời lâu như Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh, Bảo tàng Mỹ thuật, Bảo tàng Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh,... Đây cũng là một khó khăn của ngành di sản trong vấn đề làm sao để bảo tồn nhưng cũng vừa phát triển.
Việc tuyên truyền, quảng bá hình ảnh của du lịch di sản cũng nên được đặt ra như một trong những chiến lược đối với ngành du lịch nhằm xây dựng những hình ảnh, nét đẹp văn hóa tránh việc thương mại hóa các hoạt động văn hóa, việc tuyên truyền quảng bá hình ảnh không hấp dẫn, ấn tượng, thiếu sức thuyết phục sẽ làm giảm giá trị của bảo tàng, giảm giá trị văn hóa lịch sử dân tộc.
4.4. Nhìn từ góc độ những người làm công tác quản lý - chính quyền
Cần có một chiến lược quy hoạch xây dựng và phát triển bền vững hệ thống bảo tàng tại Thành phố Hồ Chí Minh. Cần thiết có thể quy hoạch các bảo tàng tập trung tại một khu vực, xây dựng và thiết kế đúng theo công năng và tiêu chuẩn của các bảo tàng hiện đại. Ví dụ: trước đây có ý kiến di dời Thảo Cầm Viên về Củ Chi để phát triển thành khu Nuôi dưỡng động vật hoang dã và công viên Safari phục vụ thiếu nhi, di dời các bảo tàng tập trung về Thảo Cầm Viên, giữ nguyên thảm thực vật ở đây tạo thành một quần thể các Di sản Lịch sử - Văn hóa - Tự nhiên phục vụ cho du lịch. Những tòa nhà hiện đang sử dụng làm bảo tàng không đúng công năng: Bảo tàng Mỹ thuật, Bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ, Bảo tàng Tôn Đức Thắng,… nên trả lại đúng công năng của nó: di tích gắn với nhân vật lịch sử, danh nhân hoặc kiến trúc nghệ thuật. Những tòa nhà không là di tích hiện nằm trên những khu đất “vàng” nên đấu giá để lấy tiền tu bổ, trùng tu di tích, mua các sưu tập hiện vật quý hoặc xây mới bảo tàng.
Có chính sách đầu tư ngân sách thích đáng cho bảo tàng về cơ sở vật chất, hiện vật, con người; việc đầu tư này phải được xây dựng bài bản, có chiến lược, có kế hoạch, thời gian cụ thể, tránh manh mún, dàn trải, thời vụ như trước đây. Để tăng nguồn thu hợp lý, cho phép các bảo tàng được thực hiện tăng giá vé tham quan đối với khách du lịch theo đúng quy định pháp luật để tạo nguồn thu tái đầu tư đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về hưởng thụ văn hóa tinh thần của công chúng. Cho phép xã hội hóa trong việc xây dựng các bảo tàng để thu hút đầu tư của các nguồn lực xã hội trong công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản.
Cuối cùng, các nhà quản lý ngành cũng cần có cái nhìn thóang hơn trong hoạt động của bảo tàng thời kỳ hội nhập, để làm cho hoạt động của bảo tàng phong phú, đa dạng và thu hút công chúng đến với bảo tàng không chỉ từ những hoạt động chuyên môn. Các bảo tàng có thể khai thác một cách hiệu quả ưu thế về mặt bằng để tổ chức những hoạt động quảng bá văn hóa thông qua các dịch vụ như: cà phê gallery, nhà hàng ẩm thực Nam Bộ, trình diễn đờn ca tài tử, múa rối nước,… để văn hóa Việt Nam thực sự đi vào lòng của công chúng một cách sinh động và hấp dẫn hơn.
Chúng tôi cũng xin tóm lược một số giải pháp tăng cường sự gắn kết hoạt động bảo tàng với phát triển du lịch nhìn từ góc độ trách nhiệm của ngành du lịch trong bài viết “Gắn kết hoạt động bảo tàng với phát triển du lịch” của Kiến trúc sư Dương Đình Hiển - Viện Nghiện cứu phát triển Du lịch thay cho lời kết:
- Phải xác định rõ quan điểm phát triển du lịch bền vững trên cơ sở khai thác các di tích là luôn gắn công tác bảo tồn tính đa dạng, gìn giữ các giá trị di tích lịch sử - văn hóa với việc khai thác phục vụ du lịch; hay nói cách khác, phát triển du lịch vì mục tiêu văn hóa; đồng thời, việc bảo vệ tôn tạo di tích phải hướng tới phục vụ ngày càng tốt hơn các đối tượng đến tham quan nghiên cứu, trong đó có khách du lịch.
- Cần xác định hệ thống bảo tàng là điểm đến không thể thiếu trong các chương trình du lịch của quốc gia để khuyến khích các công ty lữ hành xây dựng các tour du lịch có sự tham gia tích cực của hệ thống bảo tàng.
- Phối hợp với ngành văn hóa để tăng cường xúc tiến quảng bá hình ảnh cũng như các giá trị văn hóa của bảo tàng đối với khách quốc tế.
- Tập trung đầu tư phát triển các điểm du lịch di sản văn hóa đã được định hướng trong chiến lược phát triển của quốc gia để gắn kết chặt chẽ với các chương trình du lịch của quốc gia.
- Các doanh nghiệp lữ hành cũng quan tâm hơn việc giới thiệu, tư vấn cho du khách về giá trị của các bảo tàng ở Việt Nam, đặc biệt cần dành thời gian hợp lý cho điểm đến bảo tàng trong chương trình tour.
- Giúp đỡ ngành bảo tàng trong việc đào tạo, bồi dường nghiệp vụ du lịch cho những người làm công tác bảo tàng, đặc biệt đội ngũ thuyết minh viên.
- Phối hợp giúp đỡ ngành bảo tàng trong việc định hướng các sản phẩm du lịch theo hướng nâng cao chất lượng, có chiều sâu để phù hợp với định hướng chung toàn ngành.
“Chìa khóa” để giải quyết triệt để mọi vấn đề chính là tư duy của người làm công tác quản lý, nhận thức của người dân và kinh phí. Cần phải có kinh phí để “nâng cấp”, quảng bá hình ảnh bảo tàng, di tích, để trả công xứng đáng cho cán bộ, nhân viên hoạt động trong lĩnh vực này giúp họ có điều kiện nâng cao trình độ chuyên môn và tận tâm với công việc.
Đầu tư vào lĩnh vực văn hóa trong hoạt động du lịch, làm đa dạng, phong phú và tạo sự hấp dẫn đối với du khách chính là những định hướng có tính chiến lược vì không gì khác mà yếu tố hấp dẫn, gợi mở lôi cuốn đối với du khách chính là những bề dày văn hóa, lịch sử, những điểm khác biệt, độc đáo của một dân tộc - sự đa dạng trong quá trình toàn cầu hóa hiện nay [Dương Đình Hiển 2015].
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Arthur Pedersen, 2002, Tài liệu hướng dẫn về Di sản thế giới, UNESCO.
- Culture and Managerial Implications, 2016, Culture and Managerial Implications, http://hndassignmenthelp.co.uk/culture-and-managerial-implications/
- Dương Đình Hiển, 2015, “Gắn kết hoạt động Bảo tàng với phát triển du lịch”, http://itdr.org.vn/vi/nghiencuu-traodoi/1010-gan-ket-hoat-dong-bao-tang-voi-phat-trien-du-lich.html
- ICOMOS, 2002, Điều lệ du lịch văn hóa quốc tế. Nguyên tắc và hướng dẫn quản lý du lịch tại các địa điểm văn hóa và di sản,Ủy ban Du lịch Văn hóa Quốc tế ICOMOS.
- Luật Di sản văn hóa, 2001, Luật Di sản văn hóa số 28/2001/QH10, Thông qua ngày 29/6/2001.
- Nguyễn Văn Huy, 2004, “Đa dạng hóa hoạt động của các bảo tàng hiện đại (từ kinh nghiệm Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam)”, Tạp chí Di sản Văn hóa, 6/2004, tr. 20-25.
- Nguyệt Hà 2016, “Du lịch đóng góp 6,6% GDP quốc gia”, http://baochinhphu.vn/Kinh-te/Du-lich-dong-gop-66-GDP-quoc-gia/253960.vgp
- Phòng Di sản Văn hóa, 2017a, “Danh sách các công trình, địa điểm đã được quyết định xếp hạng di tích trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh (đến hết tháng 5 năm 2017)”, http://www.svhtt.hochiminhcity.gov.vn/web/guest/tin-chi-tiet/-/chi-tiet/danh-sach-cac-cong-trinh-%C4%91ia-%C4%91iem-%C4%91a-%C4%91uoc-quyet-%C4%91inh-xep-hang-di-tich-tren-%C4%91ia-ban-thanh-pho-ho-chi-minh-%C4%91en-het-thang-5-nam-2017--21236-201.html
- Phòng Di sản Văn hóa, 2017b, “Lãnh đạo Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch làm việc về quy hoạch hệ thống bảo tàng trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh”, http://www.svhtt.hochiminhcity.gov.vn/web/guest/tin-chi-tiet/-/chi-tiet/lanh-%C4%91ao-bo-van-hoa-the-thao-va-du-lich-lam-viec-ve-quy-hoach-he-thong-bao-tang-tren-%C4%91ia-ban-thanh-pho-ho-chi-minh-21279-201.html
- Thanh Mai 2016, “Năm 2015: Doanh thu ngành du lịch TP đạt 94.600 tỷ đồng”, http://www.hochiminhcity.gov.vn/thongtinthanhpho/tintuc/lists/posts/post.aspx?CategoryId=36&ItemID=53801&PublishedDate=2016-01-12T17:20:00Z
- The UK Tourist, 2008, “Statistics 2008”, https://www.visitbritain.org/sites/default/files/vb-corporate/Documents-Library/documents/England-documents/uk_tourist_2008.pdf
Nguồn: Sách “Quản lý và khai thác di sản văn hóa trong thời kỳ hội nhập”