Chưa dừng lại ở đó, về sức sống của những di sản văn hóa phi vật thể tại các cộng đồng tộc người ở Việt Nam càng đa dạng và phong phú. Nhã nhạc cung đình Việt Nam – âm nhạc tinh hoa của các triều đại phong kiến Việt Nam kết tinh ở triều đại nhà Nguyễn –mà chúng ta tưởng chừng như nó đã vĩnh viễn biến mất ở Việt Nam trước những biến cố lịch sử, nhưng nhờ sự quan tâm kịp thời của Nhà nước và sự đóng góp công sức không nhỏ của các nhà khoa học, di sản này đã phục nguyên được loại hình và được UNESCO sớm công nhận là Di sản Văn hóa Phi vật thể của nhân loại. Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên của các tộc người cư trú trên địa bàn Tây Nguyên như Bana, Ê-đê, M’nông,… là một di sản độc đáo và đặc sắc của các tộc người ở vùng văn hóa Trường Sơn - Tây Nguyên. Về sau, chúng ta có các Di sản Văn hóa Phi vật thể và truyền khẩu lần lượt được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa nhân loại như: Dân ca Quan họ, Nghệ thuật ca trù, Hội Dóng ở đền Phù Đổng và đền Sóc, Hát Xoan ở Phú Thọ, Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, Nghệ thuật Đờn ca Tài tử Nam Bộ, Dân ca ví, dặm Nghệ Tĩnh, Nghi lễ và trò chơi Kéo co và Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt.
Mặt khác, Việt Nam còn có các Di sản Tư liệu đã được UNESCO công nhận như Bia đá các khoa thi Tiến sĩ triều Lê và Mạc, Mộc bản triều Nguyễn, Mộc bản kinh Phật thiền phái Trúc Lâm chùa Vĩnh Nghiêm, Châu bản triều Nguyễn, Thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế và Mộc bản trường học Phúc Giang.
Hơn thế nữa, Việt Nam còn có một Di sản Hỗn hợp rất đặc biệt đã được UNESCO công nhận là Quần thể danh thắng Tràng An, một sự kết hợp độc đáo giữa tạo hóa thiên nhiên và sức sáng tạo của con người. Lần đầu tiên, chúng ta có một Di sản Đa quốc gia đó là Nghi lễ và trò chơi Kéo co.
- Di sản Văn hóa vật thể Thế giới ở Việt Nam
Di sản văn hóa vật thể là gì? Theo Công ước về di sản văn hóa và Thiên nhiên thế giới được UNESCO họp tại Paris từ 17/10 đến 21/11 năm 1972, kỳ họp lần thứ 17, tại Khoản 1, Điều 1 có quy định về các Di sản văn hoá:
“Các di tích: Các công trình kiến trúc, điêu khắc hoặc hội họa hoành tráng, các yếu tố hay kết cấu có tính chất khảo cổ học, các văn bản, các hang động và các nhóm yếu tố có giá trị quốc tế đặc biệt về phương diện lịch sử, nghệ thuật hay khoa học.
Các quần thể: các nhóm công trình xây dựng đứng một mình hoặc quần tụ có giá trị quốc tế đặc biệt về phương diện lịch sử, nghệ thuật hay khoa học, do kiến trúc, sự thống nhất của chúng hoặc sự nhất thể hóa của chúng vào cảnh quan.
Các thắng cảnh: các công trình của con người hoặc những công trình của con người kết hợp với công trình của tự nhiên, cũng như các khu vực, kể cả các di chỉ khảo cổ học, có một giá trị quốc tế đặc biệt về phương diện lịch sử, thẩm mỹ, dân tộc học hoặc nhân chủng học”.
Mỗi di sản văn hóa có những nét đặc trưng và đặc thù riêng mà UNESCO dựa vào những tiêu chí cụ thể để quyết định công nhận nó là Di sản Văn hóa Thế giới hay không. Ở Việt Nam, chúng ta có tất cả là 5 Di sản Văn hóa Thế giới bao gồm: Quần thể di tích cố đô Huế, Khu đền tháp Mỹ Sơn, Đô thị Hội An, Khu di tích trung tâm hoàng thành Thăng Long - Hà Nội và Thành nhà Hồ. Song song đó, cho đến nay, UNESCO cũng công nhận các di sản tư liệu như: Mộc bản triều Nguyễn, Bia các khoa thi Tiến sĩ triều Lê và Mạc, Mộc bản kinh Phật thiền phái Trúc Lâm chùa Vĩnh Nghiêm, Châu bản triều Nguyễn, Văn thơ trên kiến trúc cung đình Huế và Mộc bản trường học Phúc Giang (Hà Tĩnh). Ngoài ra, UNESCO cũng công nhận một di sản hỗn hợp đầu tiên ở Việt Nam, đó là Quần thể danh thắng Tràng An. Để tiện trình bày và theo dõi, chúng tôi tạm xếp tất cả chúng là Di sản Văn hóa Thế giới ở Việt Nam đã được UNESCO công nhận.
Các tiêu chí để đưa tài sản văn hóa vào danh sách Di sản Thế giới (theo Công ước về Di sản Thế giới):
- Là một kiệt tác cho thấy thiên tài sáng tạo của con người; hoặc
- biểu hiện cho sự giao lưu các giá trị của con người, trong một thời gian dài hoặc trong một khu vực văn hóa của thế giới về những bước phát triển trong kiến trúc, nghệ thuật tượng đài hoặc quy hoạch thành phố và thiết kế cảnh quan; hoặc
- là minh chức độc đáo hoặc chí ít cũng là hiếm có cho truyền thống văn hóa hoặc một nền văn minh còn đang tồn tại hoặc đã biến mất; hoặc
- là một mẫu hình nổi bật của một loại công trình xây dựng hoặc quần thể kiến trúc hay cảnh quan minh họa cho một (các) giai đoạn lịch sử loài người; hoặc
- là một hình mẫu nổi bật về nơi sinh sống truyền thống hoặc sử dụng đất đai của con người đại diện cho một (hoặc nhiều) nền văn hóa đặc biệt khi nó trở nên dễ bị tổn thương do tác động của những biến đổi không cưỡng lại được; hoặc
- liên quan trực tiếp hoặc đích thực tới các sự kiện hay truyền thống đang còn tồn tại, với những ý tưởng hoặc niềm tin, với các tác phẩm nghệ thuật hoặc văn học có ý nghĩa toàn cầu nổi bật (tiêu chuẩn này chỉ được xem xét trong những hoàn cảnh đặc biệt hoặc liên quan đến các tiêu chí văn hóa hoặc thiên nhiên khác khi Ủy ban xem xét có đưa vào danh sách di sản thế giới hay không).
Chúng tôi có thể tóm lược những nét đặc sắc của các di sản văn hóa thế giới được UNESCO công nhận ở Việt Nam.
Quần thể di tích cố đô Huế được UNESCO công nhận từ năm 1993 với sức hấp dẫn văn hóa đặc sắc là nơi trị vì của các vị vua triều Nguyễn, triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Đô thị Hội An được UNESCO công nhận từ năm 1999 với sức hấp dẫn đặc thù là một thương cảng mang đậm dấu ấn giao lưu văn hóa sống động với khu vực và quốc tế từ thế kỷ thứ XVII đến nay. Trong thời điểm này, Việt Nam còn có Khu đền tháp Mỹ Sơn được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa Thế giới với sức hấp dẫn đặc thù là di sản văn minh đỉnh cao của nhà nước Chăm-pa. Mộc bản triều Nguyễn được UNESCO công nhận từ năm 2009 với ý nghĩa đặc biệt là bằng chứng của một nền văn hóa chữ viết của một dân tộc mà cụ thể là người Việt. Bia đá các khoa thi Tiến sĩ triều Lê và Mạc được UNESCO công nhận từ năm 2010 với sức hấp dẫn là nơi rạng danh các bậc hiền tài, kẻ sĩ trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Khu di tích trung tâm Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa Thế giới từ năm 2010 với sức hấp dẫn đặc biệt là di sản văn hóa của Thủ đô ngàn năm văn hiến, trái tim của Việt Nam hay “Thành phố vì hòa bình”. Thành nhà Hồ là Di sản Văn hóa Thế giới được UNESCO công nhận vào năm 2011 với sức hấp dẫn là dấu ấn kiến trúc của một triều đại phong kiến khao khát canh tân trong lịch sử Việt Nam. Mộc bản kinh Phật thiền phái Trúc Lâm chùa Vĩnh Nghiêm là Di sản thuộc chương trình Ký ức Nhân loại được UNESCO công nhận vào năm 2012 với nét văn hóa độc đáo là nơi lưu giữ những tinh hoa của Thiền phái Trúc Lâm ở Việt Nam. Châu bản triều Nguyễn là di sản thuộc chương trình Ký ức Nhân loại được UNESCO công nhận vào năm 2014 với những nét riêng có là những châu phê, điệp sớ, công văn còn lưu lại của các vị vua triều đại nhà Nguyễn – triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Quần thể danh thắng Tràng An được UNESCO công nhận là Di sản kép của nhân loại từ năm 2014 với sức hấp dẫn độc đáo là nơi hội tụ của tuyệt tác tự nhiên và sức sáng tạo văn hóa của người Việt Nam. Thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế là Di sản thuộc chương trình Ký ức Nhân loại được UNESCO công nhận vào năm 2016 với những nét đặc sắc là những sáng tác văn thơ tuyệt tác của các bậc minh quân triều Nguyễn trên các kiến trúc kinh thành Huế. Cùng thời điểm đó, Việt Nam có thêm Mộc bản trường học Phúc Giang (Hà Tĩnh) được vinh danh là Di sản tư liệu Thế giới thuộc chương trình Ký ức Nhân loại với nét độc đáo là nơi lưu giữ nếp gia phong giáo dục của dòng họ Nguyễn Huy ở Hà Tĩnh.
- Di sản Văn hóa phi vật thể Thế giới ở Việt Nam
Nghiên cứu các dạng thức của văn hóa, các nhà nghiên cứu văn hóa trong và ngoài nước đã đưa ra khái niệm văn hóa phi vật thể (intangible culture). Vậy, văn hóa phi vật thể là gì? Theo Ngô Đức Thịnh, đó là “một dạng tồn tại (hay thể hiện) của văn hóa không phải dưới dạng vật thể có hình khối tồn tại trong không gian và thời gian, mà nó tiềm ẩn trong trí nhớ, tập tính, hành vi, ứng xử của con người và thông qua các hoạt động sống của họ trong sản xuất, giao tiếp xã hội trong hoạt động tư tưởng và văn hóa - nghệ thuật mà thể hiện ra khiến người ta nhận biết được sự tồn tại của nó” [Ngô Đức Thịnh 2006: 93].
Văn hóa phi vật thể (theo Ngô Đức Thịnh) có những dạng thức tồn tại chủ yếu như:
- Ngữ văn và truyền miệng như thần thoại, cổ tích, truyền thuyết, ca dao, thành ngữ, tục ngữ, vè, ngụ ngôn,…
- Diễn xướng dân gian bao gồm các hình thức ca múa, nhạc, sân khấu, các hoạt động lễ hội, nghi lễ, trò diễn, phong tục,… (cũng có thể gọi với tên khác là trình diễn).
- Những hành vi ứng xử của con người đó là ứng xử giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với cộng đồng, ứng xử giữa cộng đồng với cộng đồng.
- Tri thức dân gian (cũng là một lĩnh vực của văn hóa phi vật thể) như tri thức địa phương) có thể được phân chia thành 5 lĩnh vực chủ yếu: tri thức về môi trường tự nhiên; tri thức về bản thân con người; tri thức về sản xuất; tri thức về sáng tạo nghệ thuật và tri thức về quản lý xã hội.
Văn hóa phi vật thể là lĩnh vực rất nhạy cảm với sự biến đổi của thời gian, sự thay đổi của con người và môi trường văn hóa. Nếu nó không được quan tâm, bảo tồn và phát huy các giá trị vốn có thì một ngày nào đó nó sẽ biến mất mãi mãi. (Thí dụ: ở các tộc người Tây Nguyên, mỗi già làng là một pho sử thi truyền miệng, nếu chúng ta không quan tâm đến sức khỏe của họ, để họ chết bất ngờ thì coi như chúng ta mấy toàn bộ ký ức của họ mà đó là văn hóa truyền miệng phi vật thể hoặc chúng ta không có chính sách đào tạo những người kế tục họ thì khi họ chết, toàn bộ di sản văn hóa có thể mất theo họ). Do đó, văn hóa phi vật thể cần được đặc biệt quan tâm để bảo tồn.
Di sản Văn hóa Phi vật thể là gì?
Khoản 1, Điều 2, Mục 1 của Công ước Bảo vệ Di sản Văn hóa Phi vật thể của UNESCO (2003) đã ghi nhận: “Di sản Văn hóa Phi vật thể được hiểu là các tập quán, các hình thức thể hiện, biểu đạt, tri thức, kĩ năng và kèm theo đó là những công cụ đồ vật, đồ tạo tác và các không gian văn hóa có liên quan mà các cộng đồng, các nhóm người và trong một số trường hợp là các cá nhân, công nhận là một phần di sản văn hóa của họ. Được chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ khác, di sản văn hóa phi vật thể được các cộng đồng, các nhóm người không ngừng tái tạo để thích nghi với môi trường và mối quan hệ qua lại giữa cộng đồng với tự nhiên và lịch sử của họ, đồng thời hình thành trong họ ý thức về bản sắc và sự kế tục, qua đó khích lệ thêm sự tôn trọng đối với đa dạng văn hóa và tính sáng tạo của con người. Vì những mục đích của Công ước này, chỉ xét đến những di sản văn hóa phi vật thể phù hợp với các văn kiện quốc tế hiện hành về quyền con người, cũng như những yêu cầu về sự tôn trọng lẫn nhau giữa các cộng đồng, các nhóm người và cá nhân, và về phát triển bền vững”. Đây là cách hiểu chính thức của UNESCO về Di sản Văn hóa Phi vật thể được vận dụng trên toàn cầu.
Như vậy, theo UNESCO, Di sản Văn hóa Phi vật thể được thể hiện dưới các hình thức: (a) Các truyền thống và biểu đạt truyền khẩu, trong đó ngôn ngữ là phương tiện của di sản văn hóa phi vật thể; (b) Nghệ thuật trình diễn; (c) Tập quán xã hội, tín ngưỡng và các lễ hội; (d) Tri thức và tập quán liên quan đến tự nhiên và vũ trụ; (e) Nghề thủ công truyền thống.
Theo Luật Di sản văn hóa Việt Nam (2003) cho rằng: “Di sản Văn hóa Phi vật thể là sản phẩm tinh thần có giá trị lịch sử - văn hóa, khoa học, được lưu giữ bằng trí nhớ, chữ viết, được lưu truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức lưu truyền khác bao gồm: tiếng nói, chữ viết, tác phẩm văn học nghệ thuật, khoa học, ngữ văn truyền miệng, diễn xướng dân gian, lối sống, nếp sống, lễ hội, bí quyết nghề nghiệp thủ công truyền thống, tri thức về y dược cổ truyền, văn hóa ẩm thực, về trang phục truyền thống và những tri thức dân gian” [tr.12].
Chúng ta cần có những biện pháp bảo vệ Di sản Văn hóa Phi vật thể khác với các biện pháp bảo tồn di tích, di sản vật thể và các không gian thiên nhiên. Di sản phi vật thể chỉ có thể sống khi chúng còn phù hợp với nền văn hóa đó, được thực hành thường xuyên và được truyền dạy giữa các thế hệ trong cộng đồng. Các nhóm và cộng đồng các truyền thống và phong tục trên toàn thế giới có những hệ thống chuyển giao trí thức và kỹ năng của riêng họ, thường xuyên là truyền miệng nhiều hơn qua chữ viết. Vì vậy các hoạt động bảo vệ di sản luôn phải bao gồm các cộng đồng, nhóm và trong một số trường hợp, các cá nhân sở hữu di sản và đó cũng là khuyến cáo của tổ chức UNESCO trong Công ước về Di sản Văn hóa Phi vật thể: “Để di sản văn hóa phi vật thể có thể sống và phát triển, chúng cần phù hợp với một nền văn hóa, phải được thường xuyên thực hành và chuyển giao giữa các thế hệ khác nhau trong cộng đồng”. Các di sản văn hóa phi vật thể ở Việt Nam được UNESCO công nhận rất đa dạng, từ tín ngưỡng, diễn xướng dân gian, âm nhạc cung đình và dân gian cho đến trò chơi… Theo thứ tự thời gian, chúng ta có thể kể đến một loạt Di sản Văn hóa Phi vật thể đã được UNESCO công nhận.
Nhã nhạc cung đình Việt Nam được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa phi vật thể từ năm 2003 với những nét độc đáo là nơi lưu giữ tinh hoa của âm nhạc cung đình Việt Nam. Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa phi vật thể Thế giới từ năm 2005 với những nét văn hóa đặc sắc của các tộc người sinh sống ở Tây Nguyên. Dân ca Quan họ được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa phi vật thể Thế giới vào năm 2009. Đây là loại hình nghệ thuật âm nhạc lưu dấu ấn của trai tài, gái sắc đất Kinh Bắc, một cái nôi văn hóa lâu đời của người Việt. Nghệ thuật Ca trù được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa truyền miệng và phi vật thể của nhân loại vào năm 2009, là âm hưởng của nghệ thuật âm nhạc phong lưu thời phong kiến ở Việt Nam. Hội Gióng ở đền Phù Đổng và đền Sóc được UNESCO công nhận Di sản Văn hoá phi vật thể đại diện của nhân loại vào năm 2010, nơi lưu dấu của dân tộc Việt anh hùng từ thuở niên thiếu. Hát xoan ở Phú Thọ được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa phi vật thể của nhân loại vào năm 2011, nơi âm hưởng của các vua Hùng vọng lại. Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa phi vật thể Thế giới vào năm 2012, nơi tri ân các bậc anh hùng dựng nước, Quốc tổ của người Việt. Nghệ thuật Đờn ca Tài tử Nam Bộ được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa phi vật thể của nhân loại vào năm 2013, âm vang đầy chất tài tử và hào khí của người đi mở cõi. Dân ca ví, giặm Nghệ Tĩnh được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại vào năm 2014. Di sản này giữ vị trí quan trọng trong đời sống văn hóa tinh thần của người dân 2 tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh (gọi tắt là Nghệ Tĩnh). Đây là loại hình nghệ thuật có sức sống lâu bền, in đậm bản sắc, tâm hồn, cốt cách của người dân xứ Nghệ, là di sản quý giá trong kho tàng văn hóa Việt Nam. Nghi lễ và Trò chơi Kéo co được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa phi vật thể đa quốc gia của Việt Nam, Campuchia, Philippines và Hàn Quốc vào năm 2015. Đây là trò chơi thú vị của các dân tộc có những nét tương đồng về văn hóa ở Châu Á. Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt - Di sản Văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại được UNESCO công nhận vào tháng 12/2016 với những nét độc đáo của việc thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt. Tín ngưỡng thờ Mẫu thể hiện những giá trị văn hóa truyền thống trong tâm thức của người Việt. Ngoài ra, nó còn được xem như một “bảo tàng sống” lưu giữ lịch sử, di sản và bản sắc văn của người Việt. Thông qua việc kết hợp một cách nghệ thuật các yếu tố văn dân gian như trang phục, âm nhạc, hát chầu văn, múa, diễn xướng dân gian trong lên đồng và lễ hội.
- Phát huy giá trị các Di sản Văn hóa Thế giới ở Việt Nam trong du lịch
Du lịch Việt Nam với nhiều lợi thế về tài nguyên tự nhiên cũng như văn hóa mà đặc biệt là các di sản văn hóa được UNESCO công nhận là nguyên liệu đầu vào giúp tạo ra các sản phẩm du lịch khác biệt và đẳng cấp thế giới mà chúng ta cần phát huy giá trị của chúng. Trong các cuộc hội thảo khoa học về du lịch, các công trình nghiên cứu được công bố gần đây đề cập đến mối liên hệ giữa di sản văn hóa và phát triển du lịch cũng như mối liên hệ biện chứng giữa bảo tồn và phát huy giá trị của chúng trong du lịch[1]. Di sản văn hóa là linh hồn của các điểm du lịch, làm tăng lên nhiều lần giá trị của điểm đến. Ngược lại, nếu không có du lịch phát huy các giá trị, giới thiệu, biến thành những sản phẩm du lịch để du khách tiếp cận thì di sản văn hóa sẽ thiếu đi sức sống, không có cơ hội để phát lộ các giá trị và thậm chí trở thành gánh nặng chí phí trong việc bảo tồn, tôn tạo các di sản văn hóa. Nói rõ hơn, sự phát triển của du lịch không thể tách rời di sản văn hóa và du lịch văn hóa chính là cầu nối để di sản đến với du khách trong và ngoài nước [Xem thêm Nguyễn Văn Kim (cb) 2016: 327]. Chúng tôi dùng thuật ngữ phát huy (promotion) chứ không phải là khai thác (exploitation) để tránh đi nhận thức phiến diện và triển khai thành hành động thực tiễn cực đoan đã và đang diễn ra tại nhiều quốc gia trên thế giới (trong đó có Việt Nam) với nhiều di sản tự nhiên và văn hóa được khai thác một cách bừa bãi mà không có chính sách bảo tồn tốt dẫn đến làm xuống cấp di sản văn hóa, thậm chí là xóa sổ chúng.
Về mối quan hệ giữa văn hóa và du lịch cũng đã được bàn đến nhiều, đặc biệt là các di sản văn hóa trong phát triển du lịch, ví dụ các tài liệu Toàn cầu hóa du lịch và Địa phương hóa du lịch (nhiều tác giả, 2015), Du lịch Việt Nam thời kỳ hội nhập (Trần Thị Minh Hòa chủ biên, 2015), Bàn về văn hóa du lịch Việt Nam (Phan Huy Xu & Võ Văn Thành, 2016), Tiếp biến và hội nhập văn hóa ở Việt Nam (Nguyễn Văn Kim chủ biên, 2016), Văn hóa du lịch (Nguyễn Phạm Hùng, 2017). Di sản văn hóa và phát triển du lịch có mối liên hệ tương tác, gắn bó hữu cơ: di sản văn hóa là nguồn vốn, là cơ sở để du lịch khai thác, làm giàu; còn du lịch, đến lượt mình sẽ có tác dụng quảng bá, tôn lên các giá trị văn hóa của di sản, góp phần giữ gìn và phát huy di sản [Nguyễn Văn Kim (cb) 2016: 327]. Trong nhiều chuyến du lịch của du khách, văn hóa là một trong những mục đích chính của chuyến đi, là đối tượng mà du khách muốn tìm hiểu, trải nghiệm, thẩm nhận, tận hưởng (enjoy) sự khác biệt văn hóa. Theo số liệu điều tra của Tổ chức Du lịch Thế giới (UNWTO), có đến hơn 80% số khách đi du lịch nhằm vào mục đích hưởng thụ các giá trị văn hóa độc đáo và khác biệt với nền văn hóa của dân tộc họ [Phạm Trung Lương (cb) 2000: 183 - 184]. Họ bị hấp dẫn bởi các điểm đến có sự bổ sung giữa cảnh đẹp tự nhiên và nền văn hóa truyền thống, gây ấn tượng mạnh và độc đáo, đặc biệt là các di sản văn hóa đã được UNESCO vinh danh như một tài sản đẳng cấp nhất của nhân loại.
Muốn những di sản được UNESCO vinh danh được nhân loại chú ý hơn thông qua du lịch và trở thành điểm đến trong kế hoạch du lịch của mọi công dân trên quả địa cầu, chúng ta cần thay đổi căn bản về nhận thức, cách quản lý và phát huy giá trị của chúng. Nói cách khác, chúng là tài sản chung của nhân loại (được UNESCO công nhận) mà mọi người đều có quyền tiếp cận, tận hưởng chúng dưới sự quản lý, khai thác và bảo tồn của chúng ta.
23 Di sản Văn hóa Thế giới quả là một con số đáng tự hào cho các tộc người sinh sống trên mảnh đất Việt Nam mang “hình dáng chữ S”. Thông qua du lịch, các giá trị di sản văn hóa phát lộ và đem lại lợi ích thiết thực cho quốc gia - dân tộc. Nhờ có du lịch mà các di sản văn hóa được bảo vệ, trùng tu, tôn tạo đồng thời với việc xây dựng mới, làm phong phú thêm giá trị của các công trình văn hóa đương đại của quốc gia - dân tộc. Hơn nữa, du lịch còn góp phần làm giàu bản sắc văn hóa địa phương thông qua những chắt lọc cái hay, cái đẹp, cái mới mà du khách đem đến. Đối với Việt Nam, hoạt động du lịch sẽ góp phần giới thiệu một cách tích cực giá trị di sản văn hóa độc đáo của Việt Nam mấy nghìn năm văn hiến. Bằng các ấn phẩm quảng cáo, xúc tiến, vẻ đẹp về đất nước và con người Việt Nam được giới thiệu đến du khách trong và ngoài nước.
“Du lịch cho tất cả mọi người” (Tourism for all) là thông điệp của UNWTO cho Ngày Du lịch Thế giới năm 2016. Ở bất kỳ góc độ nào, du lịch cũng mang lại lợi ích thiết thực cho con người trên hành tinh này như nhận định của Bộ quy tắc ứng xử toàn cầu về đạo đức trong du lịch (Global Code of Ethics for Tourism) của Tổ chức Du lịch Thế giới từ năm 1999: Đóng góp cho sự hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau giữa các dân tộc và xã hội loài người (Điều 1); Như là một phương tiện cho sự hoàn thiện cá nhân và cộng đồng (Điều 2); Một nhân tố của sự phát triển bền vững (Điều 3); Sử dụng di sản văn hóa của nhân loại và sự đóng góp đối với di sản (Điều 4); Một hoạt động có lợi cho các quốc gia và cộng đồng của nước sở tại (Điều 5); v.v. [UNWTO 1999: tr.279 – 290].
Những di sản kể trên xứng tầm hạng nhất của loài người. Quan điểm về lợi thế, về tài nguyên du lịch của Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa và môi trường hội nhập quốc tế cần phải thay đổi căn bản, phải coi đây là tài sản thuộc về loài người, của loài người, không phải của riêng Việt Nam (nhưng do Việt Nam quản lý và khai thác). Do đó, loài người có quyền được tiếp cận, tận hưởng tài nguyên đó và có trách nhiệm với chúng. Chúng ta, bằng cách nào đó phải góp sức biến những tiềm năng đó thành lợi ích hiện thực của loài người, cho loài người, ở cấp độ xứng với tầm “hạng nhất thế giới” của chúng. Mong muốn của chúng tôi ở tham luận này là góm thêm tiếng nói để một ngày nào đó, ngành Du lịch Việt Nam thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn và sẽ cất cánh hơn nữa ở một tầm cao mới. Hiện nay chúng ta đang trên đường hiện thực hóa ước mơ đó.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Công ước bảo vệ Di sản Văn hóa phi vật thể của UNESCO năm 2003 (bản dịch của Trần Hải Vân (Vụ Hợp tác - Quốc tế, Bộ Văn hóa - Thông tin; Cục Di sản Văn hóa, Bộ Văn hóa - Thông tin và Ủy ban Quốc gia UNESCO của Việt Nam hiệu đính).
- Luật Di sản văn hóa và văn bản hướng dẫn thi hành, NXB Chính trị Quốc gia 2003.
- Ngô Đức Thịnh, 2006, Văn hóa, văn hóa tộc người và văn hóa Việt Nam, NXB Khoa học Xã hội.
- Nguyễn Văn Kim (cb), 2016, Tiếp biến và hội nhập văn hóa ở Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
- Phạm Trung Lương (cb), 2000, Tài nguyên và môi trường du lịch, NXB Giáo dục.
- Trần Thị Minh Hòa (cb), 2015, Du lịch Việt Nam thời kỳ đổi mới, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
- UNWTO, 1999, “Global Code of Ethics for Tourism”, pdf. file. (Võ Văn Thành dịch), in trong Bàn về văn hóa du lịch Việt Nam, NXB Tổng hợp TP HCM, tr.279 - 290.
Nguồn: Sách “Quản lý và khai thác di sản văn hóa trong thời kỳ hội nhập”
[1] Có thể kể đến Hội thảo Phát triển du lịch Việt Nam trong thời kỳ mới do Ban Kinh tế Trung ương, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch & Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam tại Hà Nội, tháng 7/2015; Hội nghị toàn quốc về phát triển du lịch được tổ chức tại Khu nghỉ dưỡng Palm Garden, thành phố Hội An, ngày 09/8/2016; Hội thảo Quốc tế Các loại hình du lịch hiện đại được tổ chức tại Trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật và Du lịch Sài Gòn, ngày 20 & 21/10 năm 2016; Nghị quyết số 08 - NQ/TW Về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của Bộ Chính trị (ngày 16/01/2017), v.v. Di sản văn hóa Việt Nam dưới góc nhìn lịch sử (Phan Huy Lê, 2015), Du lịch Việt Nam thời kỳ hội nhập (Trần Thị Minh Hòa (cb), 2015), Tiếp biến và hội nhập văn hóa ở Việt Nam (Nguyễn Văn Kim (cb), 2016),…