logo

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
    • Thư ngỏ
    • Khái quát về Trung tâm
    • Nhân lực Trung tâm
      • Thành viên Trung tâm
      • Cộng tác viên
    • Giới thiệu Khoa Văn hóa học
      • Khái quát về Khoa
      • Nhân lực của Khoa
  • Tin tức
    • Tin nhà (Trung tâm)
    • Tin ngành
    • Tin liên quan
  • Đào tạo - Huấn luyện
    • Các chương trình
    • Tổ chức và Hiệu quả
    • Đào tạo ở Khoa VHH
      • Chương trình đào tạo
      • Kết quả đào tạo
  • Nghiên cứu
    • Lý luận văn hóa học
      • LLVHH: Những vấn đề chung
      • VHH: Phương pháp nghiên cứu
      • VHH: Các trường phái - trào lưu
      • Loại hình và phổ quát văn hóa
      • Các bình diện của văn hóa
      • Văn hóa học so sánh
      • Vũ trụ quan phương Đông
      • Văn hóa và phát triển
      • VHH và các khoa học giáp ranh
    • Văn hóa Việt Nam
      • VHVN: Những vấn đề chung
      • Văn hóa cổ-trung đại ở Viêt Nam
      • Văn hóa các dân tộc thiểu số
      • Văn hóa Nam Bộ
      • Văn hóa nhận thức
      • Văn hóa tổ chức đời sống tập thể
      • Văn hóa tổ chức đời sống cá nhân
      • Văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên
      • Văn hóa ứng xử với môi trường xã hội
    • Văn hóa thế giới
      • VH Phương Đông: Những vấn đề chung
      • VH Phương Tây: Những vấn đề chung
      • Quan hệ văn hóa Đông - Tây
      • Văn hóa Trung Hoa và Đông Bắc Á
      • Văn hóa Đông Nam Á
      • Văn hóa Nam Á và Tây Nam Á
      • Văn hóa châu Âu
      • Văn hóa châu Mỹ
      • Văn hóa châu Phi và châu Úc
    • Văn hóa học ứng dụng
      • VHƯD: Những vấn đề chung
      • VHH nghệ thuật
      • Văn hóa đại chúng
      • Văn hóa giao tiếp
      • Văn hóa du lịch
      • Văn hóa đô thị
      • Văn hóa kinh tế
      • Văn hóa quản trị
      • Văn hóa giáo dục - khoa học
    • Tài liệu phổ cập VHH
      • Văn hóa Việt Nam
      • Văn hóa thế giới
      • VHH ứng dụng
    • Tài liệu tiếng nước ngoài
      • Theory of Culturology
      • Vietnamese Culture
      • Applied Culturology
      • Other Cultures
      • 中文
      • Pусский язык
    • Thư Viện Số (Sách - Ảnh - Video)
      • Tủ sách Văn hoá học
      • Thư viện ảnh
      • Thư viện video
    • Các nhà văn hóa học nổi tiếng
  • Tiện ích
    • Dịch vụ Văn hóa học
    • Dịch vụ ngoài VHH
    • Trợ giúp vi tính
    • Từ điển Văn hóa học
    • Thư viện TT và Khoa
    • Tổng mục lục website
    • Tủ sách VHH Sài Gòn
    • Giải đáp thắc mắc
  • Thư giãn VHH
    • Văn chương Việt Nam
    • Văn chương nước ngoài
    • Nghệ thuật Việt Nam
    • Nghệ thuật thế giới
    • Hình ảnh vui
    • Video vui
  • Diễn đàn
  • Liên hệ
  • Trang chủ
  • Nghiên cứu
  • Văn hóa Việt Nam
  • VHVN: Những vấn đề chung
Thursday, 05 March 2015 14:22

Lương Văn Kế. Hệ giá trị của văn hoá để tồn tại và văn hoá để phát triển

Người post bài:  Nguyễn Thị Tuyết Ngân

Additional Info

  • Tiêu đề:

    HỆ GIÁ TRỊ CỦA VĂN HÓA ĐỂ TỒN TẠI
    VÀ VĂN HÓA ĐỂ PHÁT TRIỂN

  • Tác giả:

    TSKH. Lương Văn Kế
    Khoa Quốc tế học, Trường ĐH KHXH&NV - ĐHQG HN

Lương Văn Kế. Hệ giá trị của văn hoá để tồn tại và văn hoá để phát triển

Dân tộc Việt Nam chỉ có thể phát triển lên tầm cao, thành một trong các dân tộc tiên phong trong nền văn minh nhân loại, khi mà nó xây dựng được một văn hóa để phát triển như thế. Hai hệ giá trị này không hề loại trừ nhau, mà là bổ sung cho nhau, trong đó hệ giá trị của văn hóa để phát triển hiển nhiên phải ở trình độ cao hơn. Lịch sử các cường quốc Đông Tây đều xác nhận tầm quan trọng của hai hệ giá trị, nhất là hệ giá trị của văn hóa để phát triển.

I. Dẫn nhập

Nhìn vào hiện trạng của xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XXI, ai cũng có cảm giác về một xã hội đang ở buổi giao thời. Ở đây, có sự đan xen giữa cái mới và cái cũ, cái văn minh và cái lỗi thời, cái tiến bộ và cái lạc hậu, cái cấp tiến và cái bảo thủ, cái cách mạng và cái phản động, cái tinh hoa và cái cặn bã cần đào thải. Đành rằng theo quan điểm biện chứng, thì mọi sự đều trong trạng thái vận động và phát triển, nhưng xã hội Việt Nam giai đoạn hiện nay mang những đặc tính khác thường: Nó đang vận động mạnh mẽ và quyết liệt về “lượng” để nhanh chóng đạt đến “độ” chuyển biến về “chất”. Đó thực chất là quá trình chuyển đổi của văn hóa Việt Nam từ văn hóa để tồn tại đến văn hóa để phát triển do sự thúc bách của thời đại. Bài viết này tập trung phân tích đặc tính của hai hệ giá trị tương ứng với hai loại hình văn hóa nói trên.

II. Văn hóa và hai cấp độ công năng: văn hóa để tồn tại và văn hóa để phát triển

Văn hóa làm cho xã hội và cá nhân con người khác biệt với tự nhiên, với bản năng. Vì thế, dấu hiệu đầu tiên của văn hóa trong lịch sử là hành vi trồng trọt (culture) khiến loài người chuyển từ phương thức sinh tồn bằng hái lượm sang phương thức sinh tồn bằng sản xuất. Sự khác biệt giữa xã hội người và giới tự nhiên bao gồm hai cấp độ: (i) khác biệt giữa con người và tự nhiên về tính chất, về loại hình, tồn tại song song, ngang bằng với tự nhiên, không bị tiêu vong theo thời gian; (ii) sự chênh lệch về trình độ phát triển, khiến con người trở thành chúa tể của muôn loài và sáng tạo thêm cho thế giới nhiều sản vật trí tuệ vốn chưa từng tồn tại trong tự nhiên.

Quan sát toàn cảnh văn hóa của các dân tộc trên thế giới còn tại tại được cho đến ngày nay, nói một cách công bằng, các dân tộc đó dù chênh lệch nhau về dân số và trình độ văn minh, nhưng đều vô cùng vĩ đại, vì họ đều đã vượt qua được mọi thăng trầm và thách thức khác nghiệt nhất của quy luật đấu tranh sinh tồn. Các dân tộc đó đều sở hữu một văn hóa đủ sức để tồn tại, mà ta gọi ngắn gọn là văn hóa để tồn tại (The Culture to exist). Do đó, các dân tộc hiện tồn đều xứng đáng được kính trọng và đối xử bình đẳng. Tiếc thay, không ít các tộc người và dân tộc khác đã không có được điều may mắn đó, họ đã bị lịch sử chôn vùi do không có đủ năng lực văn hóa để cạnh tranh sinh tồn với các đối thủ của mình. Ngay cả đến thế kỷ XXI này, một số dân tộc cũng đang đứng trước nguy cơ tồn vong, bị xóa sổ trên bản đồ chính trị thế giới do sự suy vong của các yếu tố nội lực như loại hình thể chế, loại hình văn hóa hoặc bất lợi thế về địa lý, trong khi các thế lực hùng cường khác bên ngoài luôn sẵn sàng dùng bạo lực để thôn tính.

Vậy văn hóa để tồn tại chứa đựng những căn tính phổ quát nào? Căn cứ vào đặc trưng của các nền văn hóa dân tộc hiện tồn cũng như những kinh nghiệm lịch sử của các dân tộc đã bị lịch sử nhấn chìm, có thể rút ra một số yếu tố căn bản sau đây:

(a)  Tinh thần đoàn kết hay cố kết dân tộc;

(b)  Năng lực thích nghi với mọi hoàn cảnh và biến động của thời cuộc;

(c)  Tinh thần tự chủ, tự lực cánh sinh;

(d)  Năng lực tổ chức, lãnh đạo và tầm nhìn của giới tinh hoa của dân tộc;

(e)  Năng lực sống chung hòa hiếu với các dân tộc khác xung quanh.

Một dân tộc sở hữu các đặc tính văn hóa nói trên không thể nào bị đánh bại, họ đã và mãi trường tồn cùng nhân loại.

Nếu dùng năm tiêu chí này soi rọi vào lịch sử và thế giới tinh thần của dân tộc Việt hay bất kỳ một dân tộc hiện tồn nào khác, chúng ta thấy dường như không cho phép thiếu yếu tố nào. Chẳng hạn, nếu thiếu đi tố chất thứ 5 (e) - năng lực cộng sinh hòa hiếu với các dân tộc láng giềng - thì dân tộc đó sẽ đẩy mình vào thế đối lập với các dân tộc láng giềng, xung đột ắt sẽ xảy ra không sớm thì muộn. Nếu láng giềng lại là thế lực hùng mạnh hơn mình, thì nguy cơ dân tộc tiêu vong là rất lớn. Bởi vì dân tộc đó sẽ phải thường xuyên dốc toàn lực - cả về vật chất và tinh thần - để đối phó với các nguy cơ bị xâm lăng hoặc để tiến hành các cuộc chiến tranh nhằm loại từ đối thủ xung quanh. Về lâu dài, các cuộc xung đột đó sẽ làm tiêu tan hết nguồn nhân lực và vật lực đáng lẽ ra được đầu tư cho phát triển. Nếu dân tộc đó lại thiếu đi thêm một yếu tố nào đó nữa, chẳng hạn thiếu yếu tố (d) - năng lực tổ chức và lãnh đạo của giới tinh hoa - thì dân tộc đó chắn chắn cũng sẽ tiêu vong.

Tóm lại, để trường tồn cùng nhân loại, mỗi dân tộc đều phải biết duy trì và không ngừng bồi đắp năm đặc tính trên của văn hóa dân tộc. Sự thiếu vắng một yếu tố nào đó sẽ làm cho sức sống của dân tộc yếu đi; càng thiếu vắng nhiều yếu tố bao nhiêu, thì số phận của dân tộc đó càng bị rút ngắn bấy nhiêu, và cuối cùng sẽ bị tiêu vong trong cuộc đấu tranh sinh tồn của xã hội loài người.

Tuy nhiên, sự tồn tại của một dân tộc sau những thách thức khắc nghiệt nhất vẫn không nói lên được tầm vóc của dân tộc đó trong ‘mặt bằng’ chung của cộng đồng các dân tộc và quốc gia trên quả đất. Trên khía cạnh địa chính trị người ta gọi đó là vị thế quốc gia trong trật tự quyền lực địa chính trị. Vị thế địa chính trị của quốc gia dựa trên sức mạnh tổng hợp quốc gia bao gồm cả sức mạnh cứng (các yếu tố địa lý, tố chất dân cư, kinh tế, quân sự) và sức mạnh mềm (loại hình thể chế, truyền thống dân tộc, đặc trưng văn hóa, tinh thần đại đoàn kết dân tộc, khát vọng phát triển). Cho nên, có thể nói, tầm vóc của một dân tộc mang nhiều nét đồng nhất với vị thế quốc gia về mặt địa chính trị. Bởi vì khát vọng của mọi dân tộc không chỉ dừng lại ở sự trường tồn cùng nhân loại, mà còn ở chỗ muốn chiếm lĩnh vị trí tiên phong, vị trí lãnh đạo hay dẫn đường cho các dân tộc. Sợi chỉ đỏ xuyên suốt các yếu tố sức mạnh mềm của một quốc gia chính là hệ giá trị bao gồm các nguyên tắc và khát vọng mà đại đa số thành viên của xã hội đó được giáo dục, cổ vũ và định hướng phấn đấu để đạt đến. Đó cũng chính là động lực phát triển đồng thời của cá nhân và của toàn bộ xã hội. Chỉ có xây dựng được hệ giá trị làm động lực cho sự phát triển và biến hệ giá trị đó thành động lực của từng cá nhân (person) chứ không phải chỉ của nhà lãnh đạo thì mới trở thành cái mà tác giả bài này gọi là văn hóa để phát triển (the Culture to develop).

Văn hóa để phát triển là một văn hóa ở trình độ cao hơn về chất lượng so với văn hóa để tồn tại, bởi vì chỉ với văn hóa để phát triển, một dân tộc mới có thể tiến lên một nấc thang cao hơn của lâu đài văn minh so với các dân tộc khác. Nếu ta hình dung toàn bộ lâu đài văn hóa - văn minh của nhân loại như một hình Kim tự tháp (Pyramid), thì tầng thấp nhất và cũng rộng nhất của nó sẽ bao gồm toàn bộ các dân tộc hiện tồn đến ngày nay (trong 193 quốc gia thành viên LHQ). Số lượng các dân tộc và các nền văn hóa kể từ tầng thứ hai trở lên sẽ ngày càng giảm đi theo tầng nấc của trình độ phát triển văn hóa - văn minh.

Vậy đâu là các yếu tố tạo thành hệ giá trị của một nền văn hóa để phát triển?

Văn hóa để phát triển chắc chắn phải dựa trên trí tuệ và lý trí là những yếu tố thuộc hệ thống 2 theo lý thuyết tâm lý học xã hội của học giả Mỹ Daniel Kahneman [2014]. Theo lý thuyết của nhà khoa học đoạt giải Nobel kinh tế năm 2002 này, tư duy của con người được chia ra làm hai hệ thống là hệ thống nhận thức cảm tính, trực giác (gọi là hệ thống 1) và hệ thống nhận thức trí tuệ, lý trí (gọi là hệ thống 2). Nét đặc trưng nổi bật của hệ thống 1 là phản xạ mau lẹ, vô thức, thích nghi tức thì với kích thích bên ngoài. Lịch sử tiến hóa của con người khiến cho hệ thống 1 là một hệ thống thường trực, tích cực, tự tin, giúp con người tồn tại trong một môi trường biến đổi không ngừng. Tuy nhiên, ỷ vào kinh nghiệm, không chịu động não cân nhắc, tự kiểm soát và mang tính ứng phó chính là những điểm yếu chết người của hệ thống này: Nó có xu hướng ‘tối thiếu hóa nỗ lực’ của con người, dễ dẫn con người đến tư duy ngắn hạn, thời vụ, đi đến đâu hay đến đó; đơn giản, chủ quan, cảm tính; nó không thể giúp con người định vị đúng mình và giúp một xã hội phát triển bền vững. Điều này lý giải vì sao các phát minh lớn của nhân loại không đến từ các khu vực có nền văn hóa dựa vào hệ thống 1.

Hệ thống 2 thường khởi động với độ trễ lớn, thích nghi và phản ứng khá chậm chạp với kích thích bên ngoài. Nó bao gồm các phép tính phức tạp, sự tập trung cao độ và lựa chọn kỹ lưỡng của chủ thể. Tuy nhiên, hệ thống 2 không ỷ vào kinh nghiệm, mà luôn hoài nghi, đòi kiểm chứng các phán đoán cảm tính, động não để tìm các mối liên hệ hệ thống và nhân quả. Vì thế, hệ thống 2 khiến nhận thức của con người mang tính hệ thống, logic, tính chính xác và độ bền vững cao. Các phát minh khoa học nổi tiếng mang tính nguyên lý đều là sản phẩm của kiểu tư duy theo hệ thống 2.

Như thế, trong một mức độ suy luận khái quát nhất định, chúng ta có thể tìm ra mối liên hệ khăng khít giữa loại hình văn hóa với loại hình tư duy của chủ thể:

- Loại hình văn hóa để tồn tại căn bản dựa trên loại hình tư duy hệ thống 1 mang tính cảm tính, trực giác, tự tin, linh hoạt, dễ thích ứng;

- Loại hình văn hóa để phát triển, trái lại, dựa trên loại hình tư duy hệ thống 2 mang tính lý tính, trí tuệ, hoài nghi, cứng nhắc và chậm thích ứng.

III. Các giá trị văn hóa tinh thần tạo nên sự phát triển: Tấm gương từ văn hóa Mỹ

Để làm sáng tỏ thêm mối tương quan giữa đặc tính của văn hóa để phát triển và đặc tính của tư duy hệ thống 2, chúng ta có thể tìm thấy rất nhiều tấm gương sáng của các dân tộc trên thế giới. Ở đây, có thể chọn văn hóa Mỹ như một ví dụ điển hình.

Một nhà nghiên cứu người Mỹ là Tom Lickola (Giám đốc nghiên cứu Học viện Giáo dục Công dân) trong bài viết “Hàm ý các đức tính của chúng ta: Mười đức tính thiết yếu” (The Content of Our Characters: Ten Essential Virtues) đã đưa ra danh mục mười đức tính tiêu biểu được xếp thứ tự từ trên xuống dưới theo mức độ quan trọng của chúng như sau [Tom Lickola 2003]:

(1) Trí là đức tính chủ đạo, đức tính hướng dẫn mọi đức tính khác. Trí là có óc phán đoán đúng đắn, giúp cho ta có thể đưa ra những quyết định mang lại lợi ích cho ta và người khác. Trí cũng giúp ta áp dụng các đức tính khác trong hành động - khi nào thì hành động, hành động ra sao, và làm thế nào để điều hòa giữa các đức tính khác nhau khi gặp xung đột. Trí giúp phân biệt sự kiện được đúng đắn, để thấy đâu là điều thật quan trọng trong đời để còn ấn định những ưu tiên cho phù hợp.

(2) Công bình. Công bình nghĩa là tôn trọng quyền của tất cả mọi người. Có một Quy luật Vàng bảo người ta rằng hãy làm cho người khác những gì ta muốn họ làm cho ta, là một nguyên tắc của công bình được phổ cập trong mọi văn hóa và tín ngưỡng trên thế giới. Vì chính bản thân chúng ta cũng là con người, công bình cũng bao gồm lòng tự trọng, một nhận thức đúng đắn về nhân cách và quyền của chính mình. Mối quan tâm về sự công bình cộng với khả năng biết phẫn nộ trước những điều bất công thúc đẩy người ta hành xử như một công dân trong việc xây dựng một xã hội và thế giới công bình hơn.

(3) Dũng cảm. Dũng cảm giúp cho người ta làm đúng khi đối diện với khó khăn. Quyết định đúng trong đời, thường là quyết định khó. Khẩu hiệu của một trường trung học đã nắm được tinh túy này như sau: "Làm điều phải dù khó thay vì làm điều dễ mà sai". Dũng cảm, theo nhà giáo dục James Stenson, là sức mạnh nội tâm giúp ta vượt qua hoặc chịu đựng nổi những khó khăn, thất bại, bất lợi và đau đớn. Can đảm, kiên trì, nhẫn nhục, chịu đựng và một niềm tự tin vững mạnh là các diện của dũng cảm.

(4) Tự chủ. Tự chủ là khả năng kiểm soát chính mình, giúp con người kiểm soát được sự nóng giận, điều hòa những nhu cầu tâm - sinh lý, và theo đuổi những ham thích chính đáng một cách chừng mực. Tự chủ là sức mạnh chống lại các cám dỗ và giúp cho ta khả năng chờ đợi - đình hoãn những khoái lạc hiện tại để tiếp tục tiến tới mục tiêu cao xa hơn. Cách ngôn có câu: "Nếu ta không cai quản được tham vọng, thì tham vọng sẽ cai quản ta". Các hành vi thiếu thận trọng hoặc tội phạm đều nảy sinh từ sự thiếu tự chủ mà ra.

(5) Tình yêu. Tình yêu còn hơn cả công bằng, vì tình yêu khiến cho ta cho đi nhiều hơn cái mà công bằng đòi hỏi. Tình yêu là sự sẵn lòng hy sinh cho kẻ khác. Tất cả các đức tính quan trọng của con người như thông cảm, trắc ẩn, tử tế, bao dung, phục vụ, trung thành, ái quốc, và tha thứ, tạo nên đức hạnh của tình yêu. F. Washington Jarvis viết trong cuốn sách "Với Yêu thương và Khấn nguyện" rằng: "Tình yêu - một tình yêu vị tha không đòi hỏi đáp đền là nguồn lực mạnh nhất trong vũ trụ". Chúa Jesus dạy cần yêu kẻ thù như yêu chính bản thân ta vậy. Hoặc: "Hãy yêu láng giềng của ta như thể yêu ta".

(6) Thái độ tích cực là đức tính quan trọng thứ sáu. Hy vọng, phấn khởi, linh động, và óc hài hước là những thuộc tính của một thái độ tích cực. Abraham Lincoln nói: "Hạnh phúc của hầu hết chúng ta là do ý tưởng của ta quyết định." Martha Washington cũng nói: "Tôi học được từ kinh nghiệm bản thân rằng hầu hết những hạnh phúc hay đau khổ tùy vào thái độ của ta chứ không vào hoàn cảnh. Ta mang theo mầm hạnh phúc hay khổ đau với ta trên mọi bước đường".

(7) Chuyên cần (hard working) là đức tính thứ bảy, một đức tính không thể thiếu được. Không thể sống trong đời mà không làm việc, và không thể nào đạt được thành quả nếu thiếu chuyên cần. Vị huấn luyện viên bóng rổ lừng danh John Wooden từng nói: "Tôi thách các bạn có thể chỉ cho tôi một người đạt được thành quả xuất sắc trong đời họ mà không phải làm việc cật lực". Chuyên cần gồm có sáng tạo, siêng năng, biết đặt mục tiêu và tháo vát.

(8) Liêm chính (integrity). Liêm chính là luôn tuân theo các nguyên tắc đạo đức, lương tâm, giữ lời nói, và dám bảo vệ những gì ta tin tưởng. Có đức tính liêm chính tức là "toàn vẹn", do đó. những việc ta làm luôn nhất quán trong những trường hợp khác nhau. Liêm chính khác với thành thực vì thành thực là nói thật với người khác, còn liêm chính là thành thật với chính mình.

(9) Lòng biết ơn là đức tính thứ chín. Văn sĩ Anne Husted Burleigh nhận xét: "Lòng biết ơn cũng giống như lòng yêu thương không phải là một cảm xúc mà là một hành động của ý chí. Chúng ta chọn xem có biết ơn không, cũng như chọn xem có nên yêu hay không". Lòng biết ơn thường được xem như bí mật của một đời sống hạnh phúc; nó nhắc cho ta nhớ rằng ta đang cùng uống nước từ một cái giếng mà ta chưa bao giờ đào; nó nhắc ta nhớ để đếm những phước hạnh ta nhận được mỗi ngày.

(10) Khiêm nhượng là đức tính cuối cùng và cũng có thể được xem là nền tảng của đời sống đạo đức. Khiêm nhượng là điều cần thiết giúp ta sở đắc những đức tính khác vì nó cho ta biết được sự bất toàn của mình mà cố gắng để trở nên người tốt hơn. Nhà giáo David Isaacs viết: "Khiêm nhượng là nhận thức được những khiếm khuyết của mình và cố gắng hết khả năng để phục vụ mà không cần đến được vinh danh hay tán thưởng". Đại thi sĩ T. S. Eliot cũng nói: "Một nửa những điều tệ hại xảy ra cho thế giới này là do những người muốn được cảm thấy ta đây là quan trọng gây ra. Lòng khiêm nhượng giúp ta nhận lấy trách nhiệm về những lỗi lầm do ta gây ra, và sửa đổi chúng.

Các đức tính trên thoáng qua dường như cũng không xa lạ với văn hóa Việt Nam và văn hóa phương Đông. Nhưng thực chất có rất nhiều sự khác biệt lớn: Ấy là thứ tự của từng đức tính. Người phương Tây coi trọng trí tuệ, tính duy lý, sáng tạo, và coi đây là cội nguồn của tất cả; còn người phương Đông coi trọng đạo đức khiêm nhường và tình yêu. Chẳng thế mà Khổng tử coi Lòng nhân đứng đầu (trong bảng trên, tình yêu đứng thứ 5). Điều này lý giải vì sao phương Tây, nhất là Mỹ, luôn tiên phong về lý luận, tiến bộ khoa học công nghệ và kinh tế.

Tóm lại, trong so sánh với hệ giá trị của văn hóa để tồn tại, ngoài các yếu tố tối cần thiết của một văn hóa để tồn tại ra, thì hệ giá trị của một văn hóa để phát triển phải bao gồm những yếu tố cơ bản khác nữa sau đây:

(a)  Khát vọng xây dựng quốc gia hùng mạnh, tiên phong trong nền văn minh nhân loại;

(b)  Năng lực cải tạo hoàn cảnh, vượt thắng mọi thách thức và nỗ lực chế ngự hoàn cảnh;

(c)  Tinh thần phấn đấu mạnh mẽ vì một tương lai tốt đẹp hơn cho bản thân và cộng đồng;

(d)  Giới tinh hoa của dân tộc cần có tấm lòng cởi mở bao dung, có tầm nhìn xa hàng thế kỷ về tương lai trên cơ sở nhận thức đúng quy luật vận động và phát triển của nền văn minh nhân loại, tuyệt đối không lệ thuộc vào bất kỳ một lý thuyết giáo điều nào;

(e)  Năng lực lôi cuốn các dân tộc khác xung quanh thành một liên minh sức mạnh cùng chung lý tưởng, chung hệ giá trị và chung một tương lai.

IV. Kết luận

Dân tộc Việt Nam chỉ có thể phát triển lên tầm cao, thành một trong các dân tộc tiên phong trong nền văn minh nhân loại, khi mà nó xây dựng được một văn hóa để phát triển như thế. Hai hệ giá trị này không hề loại trừ nhau, mà là bổ sung cho nhau, trong đó hệ giá trị của văn hóa để phát triển hiển nhiên phải ở trình độ cao hơn. Lịch sử các cường quốc Đông Tây đều xác nhận tầm quan trọng của hai hệ giá trị, nhất là hệ giá trị của văn hóa để phát triển nói trên.

Bảng so sánh hệ giá trị của hai kiểu văn hóa này có thể trình bày như sau:

Văn hóa để tồn tại

Văn hóa để phát triển

a

Tinh thần đoàn kết hay cố kết dân tộc

Khát vọng xây dựng quốc gia hùng mạnh, tiên phong trong nền văn minh nhân loại

b

Năng lực thích nghi với mọi hoàn cảnh và biến động của thời cuộc

Năng lực cải tạo hoàn cảnh, vượt thắng mọi thách thức và nỗ lực chế ngự hoàn cảnh

c

Tinh thần tự chủ, tự lực cánh sinh

Tinh thần phấn đấu mạnh mẽ cho một tương lai tốt đẹp hơn cho bản thân và cộng đồng

d

Năng lực tổ chức, lãnh đạo và tầm nhìn của giới tinh hoa của dân tộc

Giới tinh hoa của dân tộc cần có tấm lòng cởi mở bao dung, có tầm nhìn xa hàng thế kỷ

e

Năng lực sống chung hòa hiếu với các dân tộc khác xung quanh

Năng lực lôi cuốn các dân tộc khác xung quanh thành một liên minh sức mạnh cùng chung lý tưởng

Tài liệu tham khảo và trích dẫn

  1. Kahneman Daniel 2014: Tư duy nhanh và chậm (Thinking Fasst and Slow). - H.: NXB Thế Giới.
  2. Lương Văn Kế 2010: Văn hóa Châu Âu: Lịch sử - Thành tựu - Hệ giá trị. - H.: NXB Giáo dục Việt Nam.
  3. Lương Văn Kế 2011: Văn hóa Bắc Mỹ trong toàn cầu hóa. - H.: NXB Giáo dục Việt Nam.
  4. Lương Văn Kế 2013: Tiếp nhận văn hóa Âu Mỹ ở Việt Nam giai đoạn 1858-1975 (E-Book). - NXB ĐHQG Hà Nội.
  5. Lương Văn Kế 2014: Tiếp nhận văn hóa Âu Mỹ ở Việt Nam giai đoạn từ 1975 đến nay (E-Book). - NXB ĐHQG Hà Nội.
  6. Tom Lickola 2003: The Content of Our Characters: Ten Essential Virtues. - in:http://www.character-education.info/articles/thecontentofourcharacter.pdf. Bản tiếng Việt “Hàm ý các đức tính của chúng ta: Mười đức tính thiết yếu”: http://happybank.vn/forum/index.php?threads/mười-đức-tính-thiết-yếu-trong-văn-hóa-tây-phương.57130/ ; http://icevn.org/vi/node/527

  Nguồn: Bài viết tham gia hội thảo “Hệ giá trị Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”. Kỷ yếu hội thảo in thành sách “Một số vấn đề về hệ giá trị Việt Nam trong giai đoạn hiện tại”

Lên trên

Cùng chủ đề

  • Bùi Hoài Sơn, Đỗ Thị Thanh Thủy. Cơ hội và thách thức đối với sự nghiệp phát triển văn hóa Việt Nam đến năm 2030

  • Joseph Caspermeyer. Nghiên cứu mới cho thấy sự đa dạng di truyền của người Việt Nam

  • Nguyễn Chu Hồi. Biển, đảo Việt Nam - Bảo vệ không gian sinh tồn của dân tộc

  • Nguyễn Huy Phòng. Thách thức trong kiến tạo hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người Việt Nam hiện nay

  • Nguyễn Văn Thanh. Xây dựng nền văn hóa Việt Nam trước tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0

Thông báo

Tư vấn khoa học và kỹ năng nghiên cứu…

Tủ sách văn hoá học Sài Gòn

  • Thư viện ảnh
  • Thư viện video
  • Tủ sách VHH

Phóng sự ảnh: Toạ đàm khoa học: Xây dựng…

Hình ảnh văn hóa Tết xưa (sưu tầm)

Phóng sự ảnh: Lễ hội truyền thống VHH 2011

Phóng sự ảnh Lễ hội truyền thống VHH 2010

Thành phố Sankt-Peterburg, Nga

Bộ ảnh: Việt Nam quê hương tôi 2

Tranh Bùi Xuân Phái

Bộ tem tượng Phật chùa Tây Phương

Bộ ảnh: Đá cổ Sapa

Bộ ảnh: Phong cảnh thiên nhiên

Bộ ảnh: Việt Nam quê hương tôi

"Biển, đảo Việt Nam - Nguồn cội tự bao đời":…

Con dê trong văn hóa và văn hóa Việt Nam

Văn hóa Tết ở Tp.HCM (Chương trình truyền…

Văn hóa Tp. HCM: Một năm nhìn lại và động…

Phong tục Tết cổ truyền của người Nam Bộ

Bánh tét và Tết phương Nam

Con ngựa trong văn hóa và văn hóa Việt Nam

Điện Biên Phủ - Cuộc chiến giữa hổ và voi

Nhìn lại toàn cảnh thế giới từ 1911-2011…

Tọa độ chết - một bộ phim Xô-Việt xúc động…

Video: Lễ hội dân gian Việt Nam

Văn hoá Việt từ phong tục chúc Tết

Văn hoá Tết Việt qua video

Tết ông Táo từ góc nhìn văn hoá học

“Nếp nhà Hà Nội” trên “Nhịp cầu vàng”: tòa…

Văn hóa Thăng Long - Hà Nội qua video: từ…

Hướng về 1000 năm TL-HN: Xem phim “Tử Cấm…

Hướng về 1000 năm TL-HN: Người Thăng Long…

Phim "Chuyện tử tế" – tập 2 (?!) của “Hà…

Default Image

Hướng về 1000 năm TL-HN: "Chuyện tử tế" -…

Sách “Di sản Ấn Độ trong văn hóa Việt Nam”

Nguyễn Văn Bốn. Tín ngưỡng thờ Mẫu của người…

Sách: Quản lý và khai thác di sản văn hóa…

Hồ Sĩ Quý. Con người và phát triển con người

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 3

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 2

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 1

Hồ Sỹ Quý. Tiến bộ xã hội: một số vấn đề về…

Hồ Sỹ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á (Phụ…

Hồ Sỹ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á…

Hồ Sĩ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á…

Sách: Chuyên đề Văn hoá học

Sách: Một số vấn đề về hệ giá trị Việt Nam…

FitzGerald. Sự bành trướng của Trung Hoa…

Hữu Đạt. Đặc trưng ngôn ngữ và văn hoá giao…

Sống chụ son sao (Tiễn dặn người yêu)

Gs. Mai Ngọc Chừ. Số phận & Tâm linh

Trần Văn Cơ. Những khái niệm ngôn ngữ học…

Đoàn Văn Chúc. Văn hóa học (Phần 3 - hết)

Đoàn Văn Chúc. Văn hóa học (Phần 2)

Các nhà VHH nổi tiếng

Julian Haynes Steward

Wen Yi'duo (Văn Nhất Đa)

Leslie Alvin White

Huang Wen'shan (Hoàng Văn Sơn)

Radcliff-Brown, Alfred Reginald

Sapir, Edward

Margaret Mead

Thăm dò ý kiến

Bạn thích cuốn "Cơ sở văn hoá VN" của tác giả nào nhất?

Chu Xuân Diên - 4.8%
Lê Văn Chưởng - 0.9%
Trần Diễm Thuý - 1%
Trần Ngọc Thêm - 37.4%
Trần Quốc Vượng - 53%
The voting for this poll has ended on: 26 06, 2020

Tổng mục lục website

tong muc luc

Tủ sách VHH Sài Gòn

tu sach VHH SG

Thống kê truy cập

  • Đang online :
  • 90
  • Tổng :
  • 3 8 1 8 1 2 3 1
  • Đại học quốc gia TPHCM
  • Đại học KHXH&NV
  • Tran Ngoc Them
  • T.c Văn hóa-Nghệ thuật
  • Tc VHDG
  • Viện NCCN
  • Khoa Văn hóa học
  • Khoa Đông phương học
  • Phòng QLKH
  • Khoa Việt Nam học
  • Khoa Hàn Quốc học
  • BM Nhật Bản học
  • Khoa Văn học - Ngôn ngữ
  • Khoa triết học
  • Khoa Quan hệ quốc tế
  • Khoa Xã hội học
  • Bảo tàng Lịch sử - Văn hóa
  • viettems.com
  • myfaifo.com
Previous Next Play Pause

vanhoahoc.vn (các tên miền phụ: vanhoahoc.edu.vn ; vanhoahoc.net)
© Copyright 2007-2015. Bản quyền thuộc Trung tâm Văn hóa học Lý luận và Ứng dụng, Trường Đại học KHXH & NV - ĐHQG Tp. HCM
ĐT (028) 39104078; Email: ttvanhoahoc@hcmussh.edu.vn; ttvanhoahoc@gmail.com. Giấy phép: số 526/GP-BC, do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 27-11-2007
Ghi rõ nguồn vanhoahoc.vn khi phát hành lại các thông tin từ website này.

Website được phát triển bởi Nhà đăng ký tên miền chính thức Việt Nam trực thuộc Trung Tâm Internet VNNIC.

VHVN: Những vấn đề chung