Miền Trung có nền văn hóa Sa Huỳnh chứa đựng sắc thái văn hóa biển khá nổi bật chiếm vị trí quan trọng xuyên suốt. Trong thời đại kim khí, con người đã tiến dần từ vùng thung lũng núi, đồi, gò, trung du xuống đồng bằng ven biển. Những bằng chứng khảo cổ học đã phát hiện, ở vùng thượng nguồn phía bắc sông Trà Khúc, các dấu tích của cư dân hậu kỳ đá mới (1) với bộ sưu tập công cụ bao gồm cuốc, rìu có vai, bàn mài, khuyên tai chế tác từ loại đá cứng, phổ biến nhất là đá lửa. Dòng người thời hậu kỳ đá mới tiến dần về phía thềm chân núi giáp đồng bằng, qua dấu tích tụ cư ở các địa điểm Gò Nà, Vườn Chì. Bộ sưu tập di vật của cư dân hậu kỳ đá mới vùng núi phía tây Quảng Ngãi rất gần gũi với bộ sưu tập di vật đồ đá mới của văn hóa Biển Hồ. Bằng chứng khảo cổ này đem lại nhận thức về dòng người, dòng văn hóa ở thời điểm hậu kỳ đá mới từ vùng Tây Nguyên vượt qua rẻo cao Trường Sơn tiến dần về đồng bằng ven biển, chiếm lĩnh, khai phá và tạo dựng nên nền văn hóa nổi tiếng trong thời đại kim khí - văn hóa Sa Huỳnh. Đó là kết quả giao lưu, theo hai chiều xuôi - ngược, các dòng chảy văn hóa từ phía Bắc xuống, từ phía Nam lên và từ phía biển Đông vào.
Sa Huỳnh là một trong ba trung tâm văn hóa lớn thời đại kim khí ở Việt Nam. Văn hóa Sa Huỳnh với sự phát triển đỉnh cao sơ kỳ sắt được hợp thành bởi các dòng chảy tiền Sa Huỳnh sơ kỳ đồng thau trước đó.
Nói đến văn hóa Sa Huỳnh là nói đến văn hóa của cư dân Sa Huỳnh gắn liền với biển. Có rất ít các điểm di tích Sa Huỳnh ở vùng núi, trong khi đó dọc theo các cồn cát ven biển và đảo gần bờ có sự bùng nổ về số lượng các di tích văn hóa, bao gồm các di tích tiền Sa Huỳnh - thời đại đồng thau và các di tích Sa Huỳnh sơ kỳ sắt. Tác giả Trần Quốc Vượng cho rằng khi nghiên cứu di tích hay cụm di tích ở Việt Nam nên đặt nó vào trong một thể cảnh môi sinh bao quanh hay chính giữa lòng nó (2). Cảnh quan chung của các di tích tiền Sa Huỳnh, Sa Huỳnh dọc ven biển miền Trung như Long Thạnh, Bình Châu I, Bình Châu II, Phú Khương, Thạnh Đức, Gò Quê (Quảng Ngãi), Cồn Ràng (Huế), Hội An, Bàu Trám (Quảng Nam), Tăng Long (Bình Định), Gò Ốc (Phú Yên), Xóm Cồn, Hòa Diêm (Khánh Hòa), Bàu Hòe (Ninh Thuận)... phân bố trên các dải cồn cát ven biển, gần đầm nước ngọt, cạnh cửa sông ra biển, nơi tụ cư của cư dân Sa Huỳnh với tầng văn hóa dày. Gắn liền với khu cư trú là những nghĩa địa lớn của người Sa Huỳnh như Gò Quê, Phú Khương, Thạnh Đức (Quảng Ngãi), Tăng Long (Bình Định), Cồn Ràng (Huế), Hậu Xá, Đại Lộc (Quảng Nam)... Không những cư trú ven biển, người Sa Huỳnh còn vượt biển đi ra các đảo gần bờ. Trên Cù Lao Chàm (Quảng Nam), Cù Lao Ré (Quảng Ngãi), các đảo vịnh Nha Trang (Khánh Hòa) đều tìm thấy di tích văn hóa Sa Huỳnh. Như vậy không gian văn hóa Sa Huỳnh mở rộng từ vùng Quảng Bình, nơi tiếp xúc với văn hóa Đông Sơn, kéo dài đến vùng Ninh Thuận, Bình Thuận, nơi tiếp xúc với văn hóa thời đại kim khí Đông Nam Bộ; đồng thời còn mở rộng từ vùng trung du miền núi đến các đảo gần bờ. Nhưng trên dải đất miền Trung, tính hướng biển vẫn là điểm quan trọng xuyên suốt trong truyền thống văn hóa của cư dân Sa Huỳnh (3).
Cuộc sống của người Sa Huỳnh gắn bó, hòa quyện với biển, biển giữ vị trí chính yếu trong đời sống văn hóa vật chất và tinh thần của họ. Đã tìm thấy trong các di tích tiền Sa Huỳnh, Sa Huỳnh ở Quảng Ngãi khá nhiều bằng chứng về hoạt động khai thác biển. Tầng văn hóa Bình Châu II tìm thấy các hố rác bếp chứa nhiều vỏ sò ốc có nguồn gốc khai thác từ biển. Tầng văn hóa Xóm Ốc, Suối Chình đảo Lý Sơn cấu tạo bởi các loại vỏ nhuyễn thể ken dày với gốm do cư dân cổ sử dụng và bỏ lại, bao gồm các loài ốc tai tượng, ốc cừ, ốc mặt trăng, ốc bàn tay ngoéo, ốc đụn, ốc vú nàng, sò trơn, ốc dài, ốc cối, ốc hoa, ốc nhảy. Nhìn chung, trong tầng văn hóa Xóm Ốc tỷ lệ các di tồn của mỗi loại nhuyễn thể phát triển tương đối đồng đều. Chỉ có một vài loài nhuyễn thể chiếm ưu thế nổi trội về số lượng như ốc cừ chiếm tỉ lệ 6,30%, nắp ốc cừ 67,82%, ốc nhảy 8,31%, ốc xéo 57%, sò 5,8%. Ngoài ra các loại ốc khác như ốc hoa (ốc tiền) chiếm tỉ lệ trung bình 1,22%, ốc đụn 1,89%, các loại ốc khác chiếm tỉ lệ thấp. Tuy nhiên sự nổi trội của một vài loài nhuyễn thể về số lượng chỉ phản ánh môi trường khai thác thuận lợi và sở thích ẩm thực của cư dân cổ Xóm Ốc. Trong tầng văn hóa Xóm Ốc còn di tồn nhiều mảnh đốt sống và xương cá, mai rùa, vích, một số xương động vật, vỏ nhuyễn thể thuộc nhóm chân bụng và nhóm hai mảnh vỏ chưa định loại. Như vậy dấu tích vỏ nhuyễn thể di tồn trong tầng văn hóa ở Bình Châu II, Xóm Ốc đã phản ánh khá rõ hoạt động khai thác nguồn lợi thủy sản của cư dân Sa Huỳnh (4). Bộ sưu tập di vật phản ánh hoạt động khai thác biển của người Sa Huỳnh: tại địa điểm Long Thạnh tìm thấy lưỡi câu xương, địa điểm Bình Châu I tìm thấy lưỡi câu đồng, lao đồng, địa điểm Xóm Ốc tìm thấy lưỡi câu đồng trong mộ táng.
Truyền thống khai thác biển của người Sa Huỳnh còn được thể hiện qua lối sử dụng nguyên liệu từ vỏ nhuyễn thể để chế tác công cụ và đồ trang sức. Cư dân trên đảo Lý Sơn sử dụng vỏ tai tượng và nắp ốc cừ để chế tác công cụ ghè đập. Loại công cụ này được ghè thô sơ trên vỏ tai tượng, lấy đi vành miệng vỏ ốc, rồi giữ lại phần đốc cầm ở đáy, rất sắc bén và cứng, dùng để đập vỡ các loại vỏ nhuyễn thể khác. Ốc cừ ghè tạo rìa lưỡi khá sắc, dùng làm công cụ trong sinh hoạt hàng ngày. Loại công cụ này đầu tiên được phát hiện ở Xóm Cồn, sau đó tìm thấy ở Bãi Dong, Bãi Ngự (đảo Thổ Chu), riêng ở Xóm Ốc có đến 16 công cụ nắp vảy ốc cừ di tồn trong tầng văn hóa. Đồ trang sức vỏ nhuyễn thể Xóm Ốc gồm vòng trang sức chế tác từ lõi vỏ tai tượng bằng phương pháp khoan tách lõi, cưa và mài bóng. Loại hạt chuỗi đeo cổ chế tác từ vỏ ốc hoa. Loại ốc xéo được khoan lỗ, cắt mài thành vật đeo (ở ngón tay của di cốt Xóm Ốc còn đeo một chiếc vòng nhẫn ốc xéo). Loại trang sức khuyên tai chế tác từ vỏ sò và vỏ ốc đụn. Ngoài ra, ở Xóm Ốc và Suối Chình cũng tìm thấy công cụ đá và đồ trang sức bằng đá quý, thủy tinh và đất nung, nhưng số lượng ít, chứng tỏ trong môi trường biển đảo, nguyên liệu vỏ nhuyễn thể được ưa chuộng để chế tác công cụ. Truyền thống sử dụng vỏ nhuyễn thể để làm công cụ và đồ trang sức, như khuyên tai, nhẫn đeo, hạt chuỗi, vòng đeo tay..., làm đẹp cho người sống và mang theo người chết là đặc trưng chung của cư dân các đảo vùng lòng chảo Thái Bình Dương, Ryukiu (Nhật Bản) và Sa Huỳnh. Các công cụ vỏ nhuyễn thể, đồ trang sức chế tác từ nguyên liệu ốc tai tượng và ốc cừ ở các địa điểm Xóm Ốc, Suối Chình (Quảng Ngãi), Xóm Cồn (Khánh Hòa), Mỹ Tường (Ninh Thuận) rất tương đồng với các vùng hải đảo Tây Thái Bình Dương. Trong không gian hải đảo, hoạt động chính của người dân thiên về khai thác sản vật từ biển, sản xuất nông nghiệp không quan trọng nên khiến cho loại hình công cụ bằng đá ít thay đổi. Chính vì vậy truyền thống kỹ thuật chế tác công cụ từ thời đá mới vẫn di tồn trong giai đoạn muộn nhất của thời đại kim khí.
Văn hóa Sa Huỳnh với vùng hải đảo Thái Bình Dương khu vực Đông Nam Á là mối quan hệ giao lưu trong môi trường biển. W.G Solheim II đã đưa ra lý thuyết về dòng hải lưu đen là tác nhân quan trọng để tạo nên sự gần gũi trong việc sử dụng vỏ nhuyễn thể để chế tác công cụ và đồ trang sức. Ở suối Chình, đảo Lý Sơn tìm thấy trong mộ vò nhiều hạt chuỗi tai tượng cắt mài thành hình tròn dẹt nhỏ có xuyên lỗ, kết xâu thành chuỗi trang sức, tương tự ở Nhật Bản, Thái Lan. Truyền thống chế tác công cụ và đồ trang sức từ vỏ nhuyễn thể tồn tại trên các đảo từ vùng Tây đến Nam Thái Bình Dương, thậm chí còn thâm nhập vào đất liền như ở Hòa Diêm, Rạch Núi hoặc ở Bản Chiang (Thái Lan). Đỉnh cao của truyền thống này là kỹ thuật cắt khoan và mài để tạo nên các đồ trang sức vòng tay có dáng đẹp, tính thẩm mỹ cao.
Mối quan hệ giữa Sa Huỳnh và vùng hải đảo còn thông qua loại hình đồ gốm. Trước tiên là kiểu nồi vai gãy, đáy tròn của gốm Sa Huỳnh xuất hiện nhiều trong phức hệ gốm Tabon, gốm Sahuynh - Kalanay; kiểu tô màu trên gốm Niah tìm thấy trên gốm Xóm Cồn và Bình Châu. Về hoa văn trang trí cho thấy mối quan hệ gần gũi giữa gốm Sa Huỳnh với gốm Sahuynh - Kalanay, đó là kiểu văn vạch hình nan phên, văn vạch song song trên thân đồ gốm phối hợp với tô chì, văn thừng, văn in chấm mép sò, văn in hình học...
Nhờ thiên nhiên ưu đãi, có đường bờ biển kéo dài và có những cửa sông để đi ra biển thuận tiện, người Sa Huỳnh đã vươn ra biển, buôn bán trao đổi với bên ngoài. Đồng thời những luồng thương mại trên biển cũng dễ dàng xâm nhập vào xã hội Sa Huỳnh qua hệ thống các cửa biển. Hutterer, nhà khảo cổ học người Mỹ, cho rằng “...hoạt động buôn bán đóng vai trò lớn trong sự tiến triển văn hóa ở Đông Nam Á và làm động lực gián tiếp để biến đổi văn hóa” (5). Trung tâm Sa Huỳnh có sự giao lưu rộng với các nơi trong khu vực thể hiện qua những kiểu khuyên tai ba mấu nhọn, khuyên tai hai đầu thú..., là những hiện vật đặc trưng của Sa Huỳnh tìm thấy ở vùng phân bố của văn hóa Đông Sơn, Thái Lan, vùng hải đảo Đông Nam Á (6). Trong các mộ chum Sa Huỳnh có các hiện vật trang sức bằng đá mã não và các loại đá quý khác đều có nguồn gốc từ vùng Trung Á. Các loại gương đồng Hán tìm thấy ở vùng trung du Nghĩa Hành (Quảng Ngãi), Bình Yên (Quảng Nam)..., tiền đồng Ngũ Thù Hán tìm thấy ở Xóm Ốc (Quảng Ngãi) và các di tích Sa Huỳnh ở Hội An... đều có nguồn gốc giao lưu trao đổi với Trung Hoa. Đồ gốm Sa Huỳnh và đồ gốm Kalanay (Philippin), đồ gốm Tabon (Indonesia) khá giống nhau ở kiểu dáng, phong cách trang trí, khiến cho W.G. SolheimII đưa ra khái niệm truyền thống Sahuynh - Kalanay (7).
Người Sa Huỳnh có óc thẩm mỹ cao, biểu hiện rõ nét nhất ở nghệ thuật tạo dáng và trang trí trên gốm. Trong các di tích tiền Sa Huỳnh sơ kỳ đồng thau, đồ gốm được tạo tác như một tác phẩm nghệ thuật. Nếu như đồ gốm Bình Châu nổi bật với phong cách tạo dáng gãy gấp khúc mạnh mẽ ở các điểm chuyển tiếp thuộc miệng, eo cổ, vai và tạo sự tương phản mạnh về màu sắc, thì đồ gốm Long Thạnh chú ý đến yếu tố tạo dáng cân xứng ở ba phần miệng, thân và chân đế; các điểm chuyển tiếp trên thân đồ đựng luôn cong lượn. Trang trí trên bình lọ hoa gốm là sự tổng hợp của các loại văn thừng mịn, văn in chấm que, văn in chấm vỏ sò, văn vạch, văn ấn răng cưa kết hợp với đắp nổi tạo gờ... để tạo nên nhiều đồ án khác nhau như chữ S, tam giác, hình kỷ hà gấp khúc..., được làm nổi bật bằng nghệ thuật tô chì graphít lồng bên trong tương phản với nền áo gốm tô đỏ. Trên nắp đậy chum, tạo dáng như hình lồng bàn úp, được trang trí các đồ án chữ S, kỷ hà tô chì nổi bật trên nền tô đỏ. Đồ án chữ S ngược luôn là chủ đề trang trí nổi bật trên gốm tiền Sa Huỳnh, biểu hiện trạng thái của sóng biển từ hiền hòa đến hung dữ (8). Đặc trưng tính biển của đồ gốm tiền sử vùng duyên hải và các đảo trong lòng chảo Thái Bình Dương là kỹ thuật in chấm vỏ sò. Trong đồ gốm tiền Sa Huỳnh, Sa Huỳnh, tỷ lệ in chấm vỏ sò chiếm vị trí thứ hai sau kỹ thuật văn thừng, thể hiện khá phong phú trên đồ gốm ở Phú Khương, Tăng Long, Gò Ốc, Xóm Ốc. Người Sa Huỳnh sử dụng vỏ sò ở phần mép và gai vỏ sò để tạo nên các đồ án hoa văn rất đẹp và mang đậm tính biển.
Vốn là cư dân sinh sống chủ yếu ven duyên hải miền Trung, người Sa Huỳnh đã biết đến nghề muối. Muối đóng vai trò quan trọng trong đời sống cộng đồng, mặt khác là động lực thúc đẩy quá trình giao lưu văn hóa giữa đồng bằng duyên hải miền Trung với khu vực Tây Nguyên trong thời đại kim khí tiền Sa Huỳnh, Sa Huỳnh. Đáng chú ý các di tích văn hóa Sa Huỳnh quan trọng thường phân bố liền kề với các đồng muối cổ ở các tỉnh khu vực miền Trung. Tiêng ở vùng Quảng Ngãi, trung tâm của văn hóa Sa Huỳnh, di tích Sa Huỳnh, Phú Khương, Long Thạnh gắn với đồng muối Tân Diêm; di tích Bình Châu gắn với đồng muối Diêm Điền; di tích Gò Quê gắn với đồng muối cổ Tuyết Diêm.
Như vậy, biển đóng vai trò quan trọng trong đời sống văn hóa vật chất và tinh thần của cư dân Sa Huỳnh: Biển đem lại cho người Sa Huỳnh nguồn lợi thủy sản, muối biển; mở rộng những con đường giao lưu văn hóa, kinh tế với bên ngoài; đem lại cho người Sa Huỳnh cảm hứng sáng tạo hoa văn mang đậm tính biển trên đồ gốm Long Thạnh và tạo tác nên các loại trang sức, công cụ từ vỏ nhuyễn thể biển, điển hình là Xóm Ốc và Suối Chình trên đảo Lý Sơn.
________________
1. Đoàn Ngọc Khôi,Đào thám sát di tích Trà Phong,Những phát hiện mới về khảo cổ học, 2002, tr.121-124.
2. Trần Quốc Vượng,Về miền Trung (mấy nét khái quát về nhân học văn hóa), Hội thảo kỷ niệm thành lập khoa Sử Trường ĐHTH Hà Nội, 2001.
3. Đoàn Ngọc Khôi,Vai trò của các đảo ven bờ và vùng duyên hải trong nghiên cứu văn hóa Sa Huỳnh ở miền Trung Việt Nam,Hội thảo khoa họcMột thế kỷ khảo cổ học Việt Nam, Viện Khảo cổ học, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, 2001.
4. Đoàn Ngọc Khôi,Di tích Xóm Ốc và vấn đề văn hóa Sa Huỳnh ở vùng duyên hải Nam Trung Bộ, luận án tiến sĩ Sử học, Hà Nội, 2004.
5. Hutterer K.L,The revolution of Philippine Lowland socioties,Mankid, N09, London, 1974.
6. Hà Văn Tấn,Những chiếc khuyên tai hai đầu thú mới phát hiện ngoài Việt Nam, Những phát hiện mới về khảo cổ học,1985, tr.132-134.
7. Solheim II, W.G,The Sa Huynh - Kalanay pottery tradition: past and future research,Studies in Philippine Anthoropology, 1967, pp.151-174.
8. Ngô Sĩ Hồng,Nghệ thuật trang trí gốm sớm Sa Huỳnh,KCH(1), 1989, tr.54-63.
Nguồn:Tạp chí VHNT số 317, tháng 11-2010