logo

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
    • Thư ngỏ
    • Khái quát về Trung tâm
    • Nhân lực Trung tâm
      • Thành viên Trung tâm
      • Cộng tác viên
    • Giới thiệu Khoa Văn hóa học
      • Khái quát về Khoa
      • Nhân lực của Khoa
  • Tin tức
    • Tin nhà (Trung tâm)
    • Tin ngành
    • Tin liên quan
  • Đào tạo - Huấn luyện
    • Các chương trình
    • Tổ chức và Hiệu quả
    • Đào tạo ở Khoa VHH
      • Chương trình đào tạo
      • Kết quả đào tạo
  • Nghiên cứu
    • Lý luận văn hóa học
      • LLVHH: Những vấn đề chung
      • VHH: Phương pháp nghiên cứu
      • VHH: Các trường phái - trào lưu
      • Loại hình và phổ quát văn hóa
      • Các bình diện của văn hóa
      • Văn hóa học so sánh
      • Vũ trụ quan phương Đông
      • Văn hóa và phát triển
      • VHH và các khoa học giáp ranh
    • Văn hóa Việt Nam
      • VHVN: Những vấn đề chung
      • Văn hóa cổ-trung đại ở Viêt Nam
      • Văn hóa các dân tộc thiểu số
      • Văn hóa Nam Bộ
      • Văn hóa nhận thức
      • Văn hóa tổ chức đời sống tập thể
      • Văn hóa tổ chức đời sống cá nhân
      • Văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên
      • Văn hóa ứng xử với môi trường xã hội
    • Văn hóa thế giới
      • VH Phương Đông: Những vấn đề chung
      • VH Phương Tây: Những vấn đề chung
      • Quan hệ văn hóa Đông - Tây
      • Văn hóa Trung Hoa và Đông Bắc Á
      • Văn hóa Đông Nam Á
      • Văn hóa Nam Á và Tây Nam Á
      • Văn hóa châu Âu
      • Văn hóa châu Mỹ
      • Văn hóa châu Phi và châu Úc
    • Văn hóa học ứng dụng
      • VHƯD: Những vấn đề chung
      • VHH nghệ thuật
      • Văn hóa đại chúng
      • Văn hóa giao tiếp
      • Văn hóa du lịch
      • Văn hóa đô thị
      • Văn hóa kinh tế
      • Văn hóa quản trị
      • Văn hóa giáo dục - khoa học
    • Tài liệu phổ cập VHH
      • Văn hóa Việt Nam
      • Văn hóa thế giới
      • VHH ứng dụng
    • Tài liệu tiếng nước ngoài
      • Theory of Culturology
      • Vietnamese Culture
      • Applied Culturology
      • Other Cultures
      • 中文
      • Pусский язык
    • Thư Viện Số (Sách - Ảnh - Video)
      • Tủ sách Văn hoá học
      • Thư viện ảnh
      • Thư viện video
    • Các nhà văn hóa học nổi tiếng
  • Tiện ích
    • Dịch vụ Văn hóa học
    • Dịch vụ ngoài VHH
    • Trợ giúp vi tính
    • Từ điển Văn hóa học
    • Thư viện TT và Khoa
    • Tổng mục lục website
    • Tủ sách VHH Sài Gòn
    • Giải đáp thắc mắc
  • Thư giãn VHH
    • Văn chương Việt Nam
    • Văn chương nước ngoài
    • Nghệ thuật Việt Nam
    • Nghệ thuật thế giới
    • Hình ảnh vui
    • Video vui
  • Diễn đàn
  • Liên hệ
  • Trang chủ
  • Nghiên cứu
  • Văn hóa Việt Nam
  • Văn hóa các dân tộc thiểu số
Friday, 28 November 2008 22:49

Ngô Đức Thịnh. Tính thống nhất và đa dạng của sử thi Tây Nguyên

Người post bài:  esc

Additional Info

  • Tiêu đề:

    TÍNH THỐNG NHẤT VÀ ĐA DẠNG CỦA SỬ THI TÂY NGUYÊN

  • Tác giả:

    GS. TS. Ngô Đức Thịnh

Ngô Đức Thịnh. Tính thống nhất và đa dạng của sử thi Tây Nguyên
Tóm tắt : Sử thi Tây Nguyên tồn tại không phải dưới dạng những tác phẩm sáng tạo truyền miệng đơn lẻ hay là hiện tượng văn hoá của một vài dân tộc riêng biệt, mà nó là một hiện tượng văn hoá mang tính vùng, tồn tại trong nhiều dân tộc trong phạm vi vùng địa lý Tây Nguyên.

Báo cáo khoa học của chúng tôi, một mặt đi vào những đặc trưng chung của sử thi Tây Nguyên, thể hiện ra ở sự tương đồng về thể loại, nội dung thể hiện, kết cấu tác phẩm, các sắc thái tư duy và ngôn ngữ, phương thức diễn xướng và lưu truyền..., mặt khác, và đây là mắt chính yếu cuả báo cáo, đó là tính đa dạng, đặc thù của sử thi các tộc người, các tiểu vùng, thông qua các tiểu thể loại, độ dài ngắn của tác phẩm, nội dung thời đại mà sử thi phản ảnh, các hình thức diễn xướng, kết cấu của tác phẩm truyền miệng, hình thức ngôn ngữ và các hình tượng nghệ thuật...

Báo cáo bước đầu đi sâu nghiên cứu hiện tượng đơn lập hay kết chuỗi của tác phẩm sử thi, hiện tượng “lặp” hay kết cấu kiểu “môdun” trong cấu trúc đoạn hay trường đoạn của sử thi..., mà ở đó ít nhiều vừa thể hiện tính thống nhất cũng như đa dạng của sử thi các dân tộc.

1.TÍNH THỐNG NHẤT CỦA SỬ THI TÂY NGUYÊN

Tính thống nhất của sử thi Tây Nguyên thể hiện trên hai phương diện cơ bản, đó là 1) Tính thống nhất về thể loại và 2) Tính thống nhất về các đặc trưng vùng .

 1. Về phương diện thể loại

Từ khoảng hơn một thập kỷ nay, trong đời sống xã hội người ta nói nhiều tới cái tên “ Sử thi Tây Nguyên”, tuy nhiên, Sử thi Tây Nguyênvới tư cách l một thuật ngữ khoa học thì hầu như chưa có tác giả nào đề cập tới. Năm 1981, PGS. Võ Quang Nhơn trong công trình Văn học dân gian các dân tộc ít người ở Việt Nam [1], đã nói tới thể loại “Sử thi anh hùng của các dân tộc Tây Nguyên”, tuy nhiên đây chưa phải l một khái niệm với ý nghĩa đầy đủ và chặt chẽ của nó. Mãi tới năm 1997, trong Hội thảo khoa học được tổ chức ở Buôn Ma Thuột, nhân dịp kỷ niệm 70 năm phát hiện và công bố sử thi khan Đăm Xăn, và sau đó nội dung của nó được công bố trong tập sách Sử thi Tây Nguyên, xuất bản năm 1998, thì cái tên này mới dần dần được dùng một cách chính thức và bắt đầu hàm chứa nội dung học thuật tương đối rõ ràng [2].

Vậy, khái niệm Sử thi Tây Nguyên cần được hiểu như thế nào?. Theo tôi, đó là  một dạng tự sự dân gian, nằm trong khuôn khổ thể loại mà các nhà học giả thế giới gọi là Epic, Epope ( dịch sang tiếng Việt là “Sử thi”), gắn với những đặc thù Tây Nguyên về môi trường tự nhiên, truyền thống các dân tộc bản địa, trình độ phát triển kinh tế xã hội và các đặc trưng văn hóa, tạo nên sự thống nhất thể loại [3].

Khi tiến hành sưu tầm và nghiên cứu sử thi Tây Nguyên, tính thể loại của nó được các nhà khoa học thống nhất với nhau trên mấy đặc điểm chính như sau :

- Đây là thể loại tự sự dân gian truyền miệng trường thiên. Trong số hơn 800 tác phẩm đã thu băng được, tuy độ dài ngắn có khác nhau, nhưng so với các thể loại văn học truyền miệng của các dân tộc ở đây thì chúng chiếm độ dài nhất, thời gian diễn xướng khoảng từ 3 giờ đến trên 40 giờ. Bởi vây, khi đi khảo sát, sưu tầm sử thi chúng tôi thường nhấn mạnh tới đặc diểm này và nhân dân thường nhắc đến việc hát kể sử thi kéo dài từ “đêm này sang đêm khác”.

- Các tác phẩm sử thi Tây Nguyên tồn tại và lưu truyền thông qua hình thức diễn xướng hát kể, tức nghệ nhân vừa hát vừa kể, trong đó hát là chính. Hình thức diễn xướng này, tuỳ theo mỗi dân tộc có tên gọi khác nhaunhư :Khan của người Êđê, Hmon của người Ba na, Ot Ndrông của người Mnông, Hri của người  Gia rai, Akha Juca  của người  Raglai ..

- Nội dung của sử thi Tây Nguyên đều tập trung phản ánh về xã hội xưa kia, trong đó chiến tranh là môi trường xã hội thường xuyên, từ đó xuất hiện các nhân vật anh hùng đại diện cho cộng đồng để thiết lập các trật tự xã hội. Đó là Đăm Xăn, Xinh Nhã, Khinh Dú...của dân tộc Êđê, Tiăng, Lênh...của người Mnông, Duông, Giông của người Ba na, Xơ đăng...

-  Hình thức nghệ thuật tiêu biểu của sử thi Tây Nguyên là tính ngoa dụ, phóng đại tạo nên tính kỳ vĩ, thần kỳ, huyền thoại, nhất là trong xây dựng tính cách và hành động của các nhân vật anh hùng, khung cảnh chiến tranh giữa các cộng đồng. Ngôn ngữ lời nói vần, ví von giầu hình ảnh, nhạc điệu...

Đây là những khái quát từ những tác phẩm sử thi Tây Nguyên mà chúng tôi đã sưu tầm được chứ không phải là của sử thi chung của các dân tộc trên thế giới. Do vậy, có thể ở sử thi của các dân tộc, các vùng khác có những đặc trưng mà ở Tây nguyên không có hay không thật điển hình.

2. Về “Vùng sử thi Tây Nguyên”                        

   Vào những năm đầu thập kỷ 90, khi nghiên cứu về các vùng văn hóa ở Việt Nam, bên cạnh việc coi Tây Nguyên là một trong bảy vùng văn hóa của Việt Nam, chúng tôi đề xuất về các Vùng thể loại văn hóa, trong đó coi sử thi Tây Nguyên là một trong các vùng thể loại văn hóa của Việt Nam [4]. Đặc biệt, trong Hội thảo khoa học về Sử thi Tây Nguyên, tổ chức ở Buôn Ma Thuột, năm 1997, chúng tôi đã công bố báo cáo khoa học với đầu đề Vùng sử thi Tây Nguyên (một số quan điểm cơ bản), đã bước đầu làm rõ khái niệm này. Chúng tôi cho rằng : Vùng sử thi là vùng thể loại văn hóa, ở đó trong một không gian lãnh thổ nhất định  các tộc người đã sáng tạo và lưu truyền sử thi, mà các tác phẩm sử thi đó thể hiện sự thống nhất, tương đồng về nội dung, kết cấu cốt truyện, các đặc trưng nghệ thuật, phương thức diễn xướng, lưu truyền, các sắc thái biểu hiện, tạo nên một tổng thể văn hóa hóa sử thi bền chắc lưu truyền  từ đời này sang đời khác.

Trong công trình của mình chúng tôi cũng đã bước đầu nêu ra các tiêu chí để xác định vùng sử thi Tây Nguyên, đó là :

- Ở các dân tộc bản địa Tây Nguyên  còn lưu truyền số lượng lớn và mật độ đậm đặc các tác phẩm sử thi. Sau 7 năm điều tra, đến nay chúng ta đã sưu tầm được hơn 800 tác phẩm sử thi, trong đó có 173 tác phẩm đã phiên âm và dịch nghĩa, 75 tác phẩm đã được xuất bản. Trong hơn 800 tác phẩm sử thi đã sưu tầm, Mnông có gần 300 tác phẩm, Êđê có 54 tác phẩm, Xơ đăng có 105 tác phẩm, Ba na và Gia rai có 238 tác phẩm, Raglai có 33 tác phẩm.

Đây là con số đồ sộ mà không có vùng nào ở Việt Nam có được, và có thể đây cũng là vùng có số lượng tác phẩm sử thi lớn và mật độ cao trên thế giới.

- Các tác phẩm sử thi đã phát hiện nằm trên hầu khắp địa bàn Tây Nguyên , Nam Trường Sơn và các vùng phụ cận, trong đó tập trung hơn cả ở 5 tỉnh Tây Nguyên  : Kon Tum, Gia Lai, Đắc Lắc, Đắc Nông, Lâm Đồng. Ngòai ra, ở các dân tộc thiểu số sống ở các vùng kế cận với 5 tỉnh nêu trên cũng phát hiện được sử thi. Các dân tộc bản địa sinh sống trên địa bàn trên là chủ nhân đích thực của sử thi Tây Nguyên , trong đó tiêu biểu là các dân tộc Êđê, Mnông, Răglai, Gia rai, Ba na, Xơdăng...

- Sử thi Tây Nguyên là sử thi “Sống”, tức nó hình thành, tồn tại và lưu truyền trong sinh hoạt cộng đồng các dân tộc bản địa ở Tây Nguyên  thông qua diễn xướng hát kể. Hình thức lưu truyền của sử thi thông qua trí nhớ, truyền miệng từ thế hệ này sang thế hệ khác, trong đó môi trường gia đình và làng buôn là môi trường trao truyền chính yếu. Mặc dù ngày nay sinh hoạt diễn xướng sử thi đã suy giảm nhiều so với xưa kia

- Sử thi Tây Nguyên đều thuộc cùng một loại hình là sử thi cổ sơ (Epopee Archaique), phân biệt với sử thi cổ đại (Epopee Antique) [5]. Tất nhiên, trong loại hình sử thi cổ sơ không phải là thuần nhất, mà giữa chúng cũng có những khác biệt nhất định, đặc biệt là các hình thức tư duy, sử dụng ngôn ngữ và hình thái xã hội mà nó phản ảnh. Với các dân tộc Tây Nguyên, đó chính là kiểu tư duy “hiện thực huyền ảo” [6], ngôn ngữ lời nói vần giầu hình ảnh ví von, xã hội chuyển biến từ nguyên thuỷ sang xã hội có giai cấp.

   - Sự thống nhất về nội dung tác phẩm thông qua chuỗi hành động của các nhân vật anh hùng, đó là sinh ra, lao động, lấy vợ và chiến đấu. Sự xuất hiện của nhân vật anh hùng là cuộc sinh nở thần kỳ, sức lao động mang lại sự giầu có khiến mọi người nể phục, hôn nhân thông qua hành động cướp vợ và cuộc chiến đấu với kẻ thù dưới sự bảo trợ của thần linh vì lợi ích của cộng đồng.

   - Sử thi không phải là hiện tượng thuần tuý văn học mà là một hiện tượng văn hóa. Mối quan hệ hữu cơ, gắn bó giữa sử thi và diễn xướng hát sử thi với các sinh hoạt văn hóa cổ truyền, với phong tục và lễ hội...đã tạo nên một tổng thể văn hóa sử thi mang đặc trưng Tây Nguyên  rõ rệt.

   Một vấn đề đặt ra hiện nay là trong điều kiện lịch sử và xã hội nào mà các tộc người ở Tây Nguyên  vẫn còn bảo lưu được các tác phẩm sử thi, trong khi đó ở nhiều  nơi khác sử thi đã mất đi trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng ? Câu hỏi này vừa để lý giải một hiện tượng lịch sử-văn hóa, lại vừa giúp chúng ta có được cái nhìn thích hợp trong việc tìm kiếm các biện pháp bảo tồn sử thi và các sinh hoạt sử thi trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng.

   Trước nhất, Tây Nguyên  so với các vùng khác trong cả nước và có thể cả Đông Nam Á nữa, trong suốt quá trình lịch sử hàng nghìn năm, nó phát triển tương đối biệt lập, gần như không chịu  ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa và Ấn Độ, tức là vùng “phi Hoa, Phi ấn” như nhiều nhà nghiên cứu thường nói. Cho đến thời kỳ đầu và thậm chí giữa thế kỷ XX, nhiều tộc người ở Tây Nguyên  vẫn giữ gần như nguyên vẹn lối sống cổ truyền từ xa xưa. Hơn nữa, trong cấu trúc văn hóa tộc người, như trên chúng tôi đã nói, sử thi và sinh hoạt sử thi vẫn giữ được những mối quan hệ cân bằng, hài hòa và hữu cơ với các sinh hoạt văn hóa khác, tạo cho sử thi một môi trường xã hội cần thiết để tồn tại với tư cách là một yếu tố văn hóa tiêu biểu và đặc thù. Cách đây vài ba thập kỷ, sử thi vẫn được nhân dân các dân tộc ở đây lưu truyền thông qua các sinh hoạt hát kể trong cộng đồng, vẫn được mọi người ưa thích, say mê thưởng thức. Chính nhân dân và nhu cầu thưởng thức văn hóa của nhân dân mới là mảnh đất tốt để gìn giữ và lưu truyền sử thi. Một nguyên nhân khác cũng góp phần lưu truyền sử thi Tây Nguyên, đó là sử thi và diễn xướng sử thi không gắn với các sinh hoạt tôn giáo tín ngưỡng, do vậy, một khi tôn giáo tín ngưỡng phai nhạt hay thay đổi thì cũng không trực tiếp ảnh hưởng tới sự tồn tại của loại hình văn học dân gian này.

II. TÍNH ĐA DẠNG CỦA SỬ THI TÂY NGUYÊN

   Ở phần trên, chúng tôi đã đề cập đến những khía cạnh thể hiện tính thống nhất của sử thi Tây Nguyên, trong đó nổi bật là tính thống nhất thể loại và tính vùng của sử thi. Tuy nhiên, một thực thể thống nhất áy không phải là đồng nhất, mà bao chứa tính đa dạng, thể hiện trên nhiều khía cạnh khác nhau.

   1. Tính đa dạng về vùng - tộc người của sử thi Tây Nguyên

   Từ góc độ vùng lãnh thổ và tộc người, có thể phân chia vùng sử thi Tây Nguyên thành 4 tiểu vùng, mà mỗi tiểu vùng như vậy chứa đựng các sắc thái riêng :

   - Tiểu vùng sử thi Ba na – Xơ đăng ở bắc Tây Nguyên trên địa bàn tỉnh Kon Tum, và Gia Lai. Các tộc người này nói ngôn ngữ Môn- Khơ me. Đây là tiểu vùng có số lượng sử thi khá lớn. Trong số trên 800 tác phẩm đã sưu tầm của cả vùng Tây Nguyên, thì sử thi Ba na, Xơ đăng chiếm 275 tác phẩm (chiếm khoảng 30% tống số tác phẩm sưu tầm). Sử thi ở đây phần nhiều thuộc loại sử thi liên hoàn (sử thi phả hệ) liên quan đến hai nhân vật anh hùng huyền thoại là Duông và Giông. Quy mô của mỗi tác phẩm không lớn như Ot’ Nđrông của Mnông hay Akha Juka của Raglai, nhưng khi xâu chuỗi các tác phẩm này lại với nhau, thông qua các hành động nhân vật Duông và Giông thì lại tạo nên chuỗi tác phẩm liên hoàn (xâu chuỗi) khá đồ sộ. Nội dung tác phẩm, ngôn ngữ và các thủ pháp nghệ thuật của sử thi Ba na và Xơ đăng khá tương đồng, khiến người ta có thể lầm lẫn giữa sử thi Ba na và Xơ đăng.

   Khi diễn xướng nghệ nhân có thể ngồi hay nằm, đặc biệt người Ba na diễn xường sử thi Hmon vào ban đêm, trong bóng tối.

   - Tiểu vùng sử thi Êđê – Gia rai ở miền trung Tây Nguyên trên địa bàn hai tỉnh Gia Lai và Đắc Lắc. Các tộc người này nói ngôn ngữ Nam Đảo (Austronesien). Sử thi ở đây được người Pháp phát hiện khá sớm, vào các thập niên 20 thế kỷ XX. Đó là Sử thi Khan của người Êđê, như Đăm Xăn, sau này có thêm Xinh Nhã, Khinh Dú, Đăm Di...Tống số tác phẩm của người Êđê sưu tầm được vừa qua lên tới trên 60 tác phảm. Riêng Sử thi Hri của người Gia rai cũng sưu tầm được khá nhiều (khoảng 50-60 tác phẩm), nhưng vì chưa phiên âm và dịch ra được, nên chúng ta chưa thể tiếp cận cụ thể các tác phẩm này. Các tác phẩm sử thi thuộc tiểu vùng này thường có độ dài vừa phải (khoảng 150-200 trang, diễn xường khoảng trên dưới 15 giờ). Nội dung sử thi đề cập đến chiến tranh và các nhân vật anh hùng, hình thức ngôn ngữ điêu luyện. Các nhà nghiên cứu thường xếp sử thi Khan Êđê là sử thi anh hùng (sử thi thiết chế xã hội) để phân biệt với sử thi Mnông là sử thi thần thoại (sử thi sáng thế).

   - Tiểu vùng sử thi  Mnông - Xtiêng ở Nam Tây Nguyên, trên địa bàn các tỉnh Đắc Nông, Lâm đồng, Bình Phước. Đây là các tộc nói ngôn ngữ Môn – Khơ me, trong đó sử thi Xtiêng phát hiện được ở nhóm Xtiêng Bulơ (Xtiêng cao) giống với sử thi Ot Nđrông của người Mnông. Từ xa xưa hai tộc Mnông và Xtiêng cùng một gốc, sau này mới phân hoá thành hai dân tộc như ngày nay. Số lượng các tác phẩm sử thi Ot’Nđrông sưu tầm được chiếm số lượng lớn nhất 281 tác phẩm, thường các tác phẩm này  có độ dài vào loại nhất, thường là ttừ 700- trên 1000 trang (diễn xướng 30-40 giờ). Đặc biệt, phần lớn các tác phẩm sử thi này dưới dạng liên hoàn (phổ hệ), tạo nên tác phẩm đồ sộ, dài vào loại nhất ở nước ta và trên thế giới.

   - Tiểu vùng sử thi  Raglai, Chăm trên địa bàn Khánh Hoà, Ninh thuận, Bình Thuận. Đây là địa bàn chưa điều tra và sưu tầm kỹ, nên số lượng tác phẩm thu được chưa nhiều, khoảng trên 30 tác phẩm, nhưng nếu kể các tác phẩm thu được thì có độ dài rất lớn, diễn xướng trong nhiều giờ (từ 50-60 giờ), tiêu biểu như các tác phẩm: Udai-Udac, Che Tili, Dăm Mutui Ama, Dăm Chi Lăng...Sử thi Akha juka của người Raglai phản ánh những nội dung lịch sử và xã hội liên quan nhiều đến người Chăm, quốc gia Chămpa và xa hơn là với Ấn Độ. Điều này hoàn toàn có thể giải thích được từ mối quan hệ nguồn gốc và lịch sử giữa người Chăm và Raglai trong quá khứ.

   2. Tác phẩm sử thi “độc lập” và tác phẩm sử thi “liên hoàn”

   Với nhứng phát hiện mới về sử thi Tây Nguyên từ sau thập niên 70 của thế kỷ trước của các nhà sưu tầm và nghiên cứu Việt Nam, khiến chúng ta biết đến hai loại tác phẩm sử thi ở Tây Nguyên. Đó là loại tác phẩm sử thi “độc lập” và loại tác phẩm sử thi “liên hoàn”. Tác phẩm sử thi độc lập là các tác phẩm riêng rẽ, trong đó các nhân vật anh hùng có tên tuổi riêng, sự nghiệp, hành động riêng, khiến nó có thể đứng độc lập trong các tác phẩm cùng loại. Như đã giới thiệu ở trên, loại tác phẩm này thấy phổ biến ở sử thi của người Êđê, Gia rai, Raglai, phân biệt với loại tác phẩm sử thi “:liên hoàn” (còn gọi là “xâu chuỗi”, “phổ hệ”) thường thấy ở các tộc Mnông, Ba na, Xơ đăng. Loại sử thi “liên hoàn” này, một mặt, mỗi tác phẩm có vị trí “độc lập” tương đối, có nhân vật, có nội dung, tình tiết riêng, nhưng mặt khác, những nhân vật anh hùng này lại có mối liên hệ với các tác phẩm khác trong hệ thống.

   Mối liên hệ nhân vật anh hùng giữa các tác phẩm trong hệ thống thường có hai dạng chính. Dạng thứ nhất là cùng tên một nhân vật anh hùng, như Giông của người Ba na, Duông của người Xơ đăng, chỉ khác là mỗi tác phẩm nói về một hành động, như “Giông cứu nàng Rang Hu”, “Giông đánh quỷ Bung Lung”, “Giông đạp đổ núi cao ngất”.. (Ba na)., “Duông hoá cọp”, “Duông đánh quỷ Barmar”, “Duông làm nô lệ”, “Duông trong lốt ông già”...(Xơ đăng). Dạng thứ hai, mà dạng này thấy phổ biến ở người Mnông, là các nhân vật anh hùng không phải là một, mà là nhiều người, như Tiăng, Tang, Yang, Giông, Lênh, Yơng, Kong, Mbong...Họ là những nhân vật khác nhau, nhưng có mối quan hệ theo phả hệ, là cha con, anh em, chú bac...của một đại gia tộc mà mẹ Rong, bố Bông là cha mẹ đầu tiên . Số tác phẩm trong một bộ sử thi phổ hệ này của người Mnông lên tới chục, thậm chí con số trăm.

   Hai dạng kết cấu tác phẩm sử thi nêu trên cần được nghiên cứu kỹ lưỡng về mặt cấu trúc tác phẩm, nội dung phản ánh và quan trọng hơn cả là đặc tính tộc người của các tác phẩm. Quan sát bước đầu thì loại tác phẩm sử thi độc lập thương gắn với các tộc nói ngôn ngữ Nam Đảo, còn sử thi liên hoàn thì gắn với các tộc người nói ngôn ngữ Môn-Khơme.

   3. Đa dạng các tiểu loại trong sử thi cổ sơ Tây Nguyên

   Như trên đã nói, một trong những  tính thống nhất về thể loại của sử thi Tây Nguyên là chúng đều thuộc sử thi cổ sơ, phân biệt với sử thi cổ đại, trong đó, theo phân loại của nhà Folklore học nổi tiếng nước Nga là Bêialínky thì mỗi loại phản ánh những đặc trưng thời đại khác nhau [7]. Loại sử thi cổ sơ phản ánh sự vận động xã hội các dân tộc từ nguyên thuỷ sang xã hội có giai cấp, còn sử thi cổ đại thì phản ánh cuộc vận động xã hội của các dân tộc đang hình thành nhà nước đầu tiên, mà Iliade và Odyssee của Hy Lạp là tiêu biểu. Tất nhiên đi cùng với nội dung xã hội được phản ánh trong mỗi loại sử thi cổ sơ và sử thi cổ đại có khác nhau, thì các hình thức nghệ thuật cũng có sự khác biệt.

   Tuy nhiên, ngay trong bản thân sử thi cổ sơ của các dân tộc Tây Nguyên cũng không đồng nhất. Những thập kỷ trước đây, người ta đã dùng các khái niệm “sử thi thần thoại” và “sử thi anh hùng” hay là “sử thi sáng thế” và “sử thi thiết chế xã hội” để phản ánh tính đa dạng tiểu loại đó      .Cùng với việc dùng các khái niệm trên, xu hướng thường xếp sử thi Mnông thuộc loại sử thi sáng thế hay sử thi thần thoại, còn sử thi Êđê lại thuộc về sử thi anh hùng hay sử thi thiết chế xã hội [8]. Cách phân loại “sử thi thần thoại” hay “sử thi anh hùng” tuy nhấn mạnh đến các khía cạnh nổi trội này hay khác, tuy nhiên, người ta thấy tính “anh hùng” hay tính “thần thoại” đều có trong các loại sử thi khác nhau, chứ không riêng gì loại này hay loại kia. Còn cách phân loại “sử thi sáng thế” (sáng tạo vũ trụ) là nhấn mạnh tính sáng tạo ra loại người và vũ trụ hay “sử thi thiết chế xã hội” lại nhất mạnh đến tính thiết lập các trật tự xã hội, thoát khỏi tình trạng hỗn loạn của chiến tranh. Như vây, xét trình độ phát triển xã hội, thì sử thi sáng thế ở dạng cổ sơ hơn sử thi thiết chế xã hội.

   Với quan niệm như vậy, sử thi Mnông, Ba na, Xơ đăng tính sáng thế đậm hơn, còn sử thi Êđê, Raglai thì tính thiết chế xã hội nổi bật hơn. Bên cạnh sự khác biệt đó, giữa hai tiểu loại sử thi này còn thấy sự khác biệt về các thủ pháp nghệ thuật, khiến sự khác biệt giữa chúng khá rõ nét.

   4. Đa dạng về các thủ pháp nghệ thuật

   Hình thức và các thủ pháp nghệ thuật trong sử thi là vấn đề nghiên cứu khá lý thú, tuy nhiên đòi hỏi có thời gian để có thể tiếp cận được các tác phẩm hiện có. Tuy nhiên, bước đầu chúng tôi xin nêu một số khía cạnh thuộc về các thủ pháp nghệ thuật này.

- Hiện tượng “lặp” trong sử thi Tây Nguyên

“Lặp” là thuộc tính chung của văn học dân gian, văn hoá dân gian, trong đó có một căn nguyên quan trọng là để dễ thuộc, dễ nhớ trong điều kiện nền văn hoá không có chữ viết và truyền miệng. Tuy nhiên, “lặp” trong sử thi Tây Nguyên, đặc biệt là sử thi Ot’ Nđrông của người Mnông thì thủ pháp “lặp” trở thành nổi trội và đặc trưng hơn cả.

Có thể nói, người Mnông đã sáng tạo ra các hình mẫu điển hình về khung cảnh tự nhiên, hình dáng và hành vi nhân vật, cảnh huống xã hội và giao tiếp, tính cách con người… và tương ứng với nó là các đoạn nói vần đã có sẵn, như cảnh bon làng buổi sáng, khi hội hè, cảnh uống rượu mời khách, cách đóan biết may rủi qua uống rượu cần, khi đón khách vào nhà, vào làng, cách mời thần, trang phục người anh hùng với vũ khí đầy người, cách đi trên mặt đất cũng như bay lên trời, cảnh làm ngải và sai khiến ngải, cảnh đánh nhau, hình dạng và cung cách sinh hoạt, hành động của các thần linh…Đặc biệt là trong kho tàng truyền miệng của các dân tộc nước ta, có lẽ lần đầu tiên người Mơ Nông đã sáng tạo nên cung cách làm tình (sex) khá sinh động giữa trai gái.

   Tôi có cảm giác là các tác phẩm sử thi Ot’ Nđrông là sự lắp ghép lại từ các khuôn mẫu (môđun) tình huống, trạng thái đã có sẵn, do vậy, khi diễn xướng, nghệ nhân chỉ cần thuộc các khuôn mẫu (môđun) đó và lắp ghép lại theo cốt chuyện. Ai thuộc nhiều tình huống, trạng thái có sẵn thì diễn xướng câu chuyện phong phú hơn, làm say mê người nghe hơn. Chưa ai trả lời được trong kho vốn sử thi Ot’ Ndrông của người Mơ Nông có bao nhiêu khuôn mẫu có sẵn như vậy. Hiện tượng khuôn mẫu có sẵn và diễn xướng lặp của sử thi hòan toàn xuất phát từ nhu cầu truyền miệng, dễ nhớ của các tộc người không có chữ viết. Đây là một trong các vấn đề thi pháp rất lý thú của sử thi Ot ndrông nói riêng và sử thi Tây Nguyên  nói chung mà chúng ta cần đi sâu nghiên cứu.

   “Lặp” trong xử thi tạo ra hiệu quả nhiều mặt, thứ nhất, nó đáp ứng nhu cầu dễ nhớ, dễ học, dễ diễn xuất của một nền văn hoá chưa có chữ viết; thứ hai, trong môi cảnh diễn xướng cộng đồng, sự lặp đi lặp lại đó tạo dấu ấn, sự đồng cảm của người nghe. Tuy nhiên, trong môi trường văn hoá đọc, chứ không phải diễn xướng thì lại gây trùng lặp, nhàm chán. Do vậy, khi văn bản hoá, người ta thường lược bỏ các đoạn lặp ấy, làm tác phẩm dễ đọc, cô đọng hơn. Chính Sabatier khi sưu tầm và chỉnh lý Đăm Xăn , Ông đã “rút gon” sử thi Đăm Xăn, khiến nó khác nhiều với nguyên gốc diễn xướng của nghệ nhân dân gian bản tộc.

   - Nhân vật anh hùng trong sử thi Tây Nguyên là môt đề tài lớn cần nghiên cứu và ở đây cũng thể hiện tính thống nhất và đa dạng về hình ảnh người anh hùng trong các sử thi. Như các tác giả đều thống chất cho rằng, người anh hùng trong sử thi Tây nguyên không phải là anh hùng cá nhân mà là gương mặt, đại diện cho sự tài giỏi, sức mạnh của cộng đồng. Tuy nhiên, ở mỗi thể loại sử thi, mỗi tác phẩm sử thi của mỗi dân tộc lại hiện lên với các khuôn mặt, tính cách khác nhau. Nếu hình ảnh anh hùng trong sử thi thiết chế, mà tiêu biểu là Đăm Xăn, Xinh Nhã... ít ngiều đã cá thể hoá về hình dạng, tính cách và hành động, thì các nhân vật anh hùng trong sử thi sáng thế, của người Mnông, người Ba na, Xơ đăng, mà đại diện là các nhân vật anh hùng Tiăng, Tang, Lênh (Mnông) và Giong, Duông (Ba na, Xơ đăng) ít nhiều chưa được cá thể hoá, hình hài, hành động còn mang tính tương trưng...

   - Ngôn ngữ trong sử thi cũng là khía cạnh thể hiện tính đa dạng. Nếu như trong sử thi khan Êđê ngôn ngữ đã được chau chuốt, tinh tế, thể hiện các sắc độ tình cảm, tính cách, hành động của các nhân vật, thì sử thi Ot’ Nđrông của người Mnông, Hmon, Hri của Ba na, Xơđăng có phần còn thô phác, nặng về diễn tả hành động hơn là diễn biến tâm lý nhân vật...

   Trên đây là những phác thảo nặng về cảm nhận hơn là sự nghiên cứu kỹ lưỡng trên những nguồn tư liệu vô cùng phong phú về sử thi Tây Nguyên mà chúng ta mới sưu tầm. Những ý kiém mang tính cảm nhận trên bước đầu khơi gợi cho những nghiên cứu chuyên sâu sau này.

 

                                                                                       Nguồn: Tác giả, tháng 10/2008



[1] Vừ Quang Nhơn. Văn học dân gian các dân tộc ít người ở Việt Nam. Nxb. Đại học và THCN, H., 1983

[2] Trung tâm KHXH và NV Quốc gia và UBND tỉnh Đắc Lắc.. Sử thi Tây Nguyên. Nxb. KHXH, H., 1998

[3] Ngô Đức Thịnh. Vùng sử thi Tây Nguyên (Một số quan điểm cơ bản). In trong “Sử thi Tây Nguyên” Sdd.. Tr.48

[4] Ngô Đức Thịnh. Văn hóa  vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam. Nxb. KHXH. H., 1993

[5] Chúng tôi dùng các khái niệm “sử thi cổ sơ” (Archaic Epic) và “sử thi cổ điển” (Antique Epic) của E.M. Meletinxky, nhà folklore học nổi tiếng của Nga.

[6] Ngô Đức Thịnh, Những mảng màu văn hóa Tây Nguyên, NXB. Trẻ, 2006

[7] E.M. Meletinxky. Từ sử thi cổ sơ đến sử thi cổ điển. NXB Văn học Phương Đông, M., 1963

[8] Đinh Gia Khánh. Sử thi ở Việt Nam “Sử thi Tây nguyên”, NXB. KHXH., H., 1978, Võ Quang Nhơn. Ddd., Phân Đăng Nhật Nhìn lại quá trình sưu tầm, nghiên cứu sử thi Tây Nguyên trong bối cảnh sử thi Việt Nam, “Sử thi Tây Nguyên”, Sdd.; Sử thi Khan Êđê,  Đỗ Hồng Kỳ. Sử thi thần thoại Mnông, Nxb. KHXH, H., Ngô Đức Thịnh. Sử thi Tây nguyên, phát hiện và vấn đề, “Những mảng mầu văn hoá Tây Nguyên”, Nxb Trẻ, 2006...

Lên trên

Cùng chủ đề

  • Đổng Thành Danh. Những nhận thức mới về các di sản vật thể của người Chăm Ninh Thuận

  • Đổng Thành Danh. Diễn xướng linh thiêng như một biểu tượng trong nghi lễ của người Chăm

  • Đổng Thành Danh. Góp phần tìm hiểu vấn đề họ và tên của người Chăm

  • Đổng Thành Danh. Giải ảo huyền thoại Po Romé của người Chăm

  • Trương Thị Kim Thủy. Dấu ấn văn hóa Ấn Độ trong lễ hội Ok Om Bok

Thông báo

Tư vấn khoa học và kỹ năng nghiên cứu…

Tủ sách văn hoá học Sài Gòn

  • Thư viện ảnh
  • Thư viện video
  • Tủ sách VHH

Phóng sự ảnh: Toạ đàm khoa học: Xây dựng…

Hình ảnh văn hóa Tết xưa (sưu tầm)

Phóng sự ảnh: Lễ hội truyền thống VHH 2011

Phóng sự ảnh Lễ hội truyền thống VHH 2010

Thành phố Sankt-Peterburg, Nga

Bộ ảnh: Việt Nam quê hương tôi 2

Tranh Bùi Xuân Phái

Bộ tem tượng Phật chùa Tây Phương

Bộ ảnh: Đá cổ Sapa

Bộ ảnh: Phong cảnh thiên nhiên

Bộ ảnh: Việt Nam quê hương tôi

"Biển, đảo Việt Nam - Nguồn cội tự bao đời":…

Con dê trong văn hóa và văn hóa Việt Nam

Văn hóa Tết ở Tp.HCM (Chương trình truyền…

Văn hóa Tp. HCM: Một năm nhìn lại và động…

Phong tục Tết cổ truyền của người Nam Bộ

Bánh tét và Tết phương Nam

Con ngựa trong văn hóa và văn hóa Việt Nam

Điện Biên Phủ - Cuộc chiến giữa hổ và voi

Nhìn lại toàn cảnh thế giới từ 1911-2011…

Tọa độ chết - một bộ phim Xô-Việt xúc động…

Video: Lễ hội dân gian Việt Nam

Văn hoá Việt từ phong tục chúc Tết

Văn hoá Tết Việt qua video

Tết ông Táo từ góc nhìn văn hoá học

“Nếp nhà Hà Nội” trên “Nhịp cầu vàng”: tòa…

Văn hóa Thăng Long - Hà Nội qua video: từ…

Hướng về 1000 năm TL-HN: Xem phim “Tử Cấm…

Hướng về 1000 năm TL-HN: Người Thăng Long…

Phim "Chuyện tử tế" – tập 2 (?!) của “Hà…

Default Image

Hướng về 1000 năm TL-HN: "Chuyện tử tế" -…

Sách “Di sản Ấn Độ trong văn hóa Việt Nam”

Nguyễn Văn Bốn. Tín ngưỡng thờ Mẫu của người…

Sách: Quản lý và khai thác di sản văn hóa…

Hồ Sĩ Quý. Con người và phát triển con người

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 3

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 2

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 1

Hồ Sỹ Quý. Tiến bộ xã hội: một số vấn đề về…

Hồ Sỹ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á (Phụ…

Hồ Sỹ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á…

Hồ Sĩ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á…

Sách: Chuyên đề Văn hoá học

Sách: Một số vấn đề về hệ giá trị Việt Nam…

FitzGerald. Sự bành trướng của Trung Hoa…

Hữu Đạt. Đặc trưng ngôn ngữ và văn hoá giao…

Sống chụ son sao (Tiễn dặn người yêu)

Gs. Mai Ngọc Chừ. Số phận & Tâm linh

Trần Văn Cơ. Những khái niệm ngôn ngữ học…

Đoàn Văn Chúc. Văn hóa học (Phần 3 - hết)

Đoàn Văn Chúc. Văn hóa học (Phần 2)

Các nhà VHH nổi tiếng

Julian Haynes Steward

Wen Yi'duo (Văn Nhất Đa)

Leslie Alvin White

Huang Wen'shan (Hoàng Văn Sơn)

Radcliff-Brown, Alfred Reginald

Sapir, Edward

Margaret Mead

Thăm dò ý kiến

Bạn thích cuốn "Cơ sở văn hoá VN" của tác giả nào nhất?

Chu Xuân Diên - 4.8%
Lê Văn Chưởng - 0.9%
Trần Diễm Thuý - 1%
Trần Ngọc Thêm - 37.4%
Trần Quốc Vượng - 53%
The voting for this poll has ended on: 26 06, 2020

Tổng mục lục website

tong muc luc

Tủ sách VHH Sài Gòn

tu sach VHH SG

Thống kê truy cập

  • Đang online :
  • 37
  • Tổng :
  • 3 8 1 8 2 7 9 8
  • Đại học quốc gia TPHCM
  • Đại học KHXH&NV
  • Tran Ngoc Them
  • T.c Văn hóa-Nghệ thuật
  • Tc VHDG
  • Viện NCCN
  • Khoa Văn hóa học
  • Khoa Đông phương học
  • Phòng QLKH
  • Khoa Việt Nam học
  • Khoa Hàn Quốc học
  • BM Nhật Bản học
  • Khoa Văn học - Ngôn ngữ
  • Khoa triết học
  • Khoa Quan hệ quốc tế
  • Khoa Xã hội học
  • Bảo tàng Lịch sử - Văn hóa
  • viettems.com
  • myfaifo.com
Previous Next Play Pause

vanhoahoc.vn (các tên miền phụ: vanhoahoc.edu.vn ; vanhoahoc.net)
© Copyright 2007-2015. Bản quyền thuộc Trung tâm Văn hóa học Lý luận và Ứng dụng, Trường Đại học KHXH & NV - ĐHQG Tp. HCM
ĐT (028) 39104078; Email: ttvanhoahoc@hcmussh.edu.vn; ttvanhoahoc@gmail.com. Giấy phép: số 526/GP-BC, do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 27-11-2007
Ghi rõ nguồn vanhoahoc.vn khi phát hành lại các thông tin từ website này.

Website được phát triển bởi Nhà đăng ký tên miền chính thức Việt Nam trực thuộc Trung Tâm Internet VNNIC.

Văn hóa các dân tộc thiểu số