Do đó, chính sách đối ngoại của Đại Việt tập trung ứng xử với các nước lân bang ở đôi đầu đất nước. Phía Bắc trở thành tiền phương nhằm chống lại sự xâm lược của các tri62u đại phong kiến Trung Hoa; Phía Nam trở thành phên dậu, sân sau của Đại việt nhằm phá thế trận vu hồi quen thuộc của phương Bắc.


Trong chiến công chung đó người ta ghi nhận sự đóng góp, sự sinh thầm lặng của những người phụ nữ. Nhà Trần được mở đầu bằng sự nhường ngôi của nữ chúa Lý Chiêu Hoàng cho cha con Trần Cảnh. Phải chăng vì thế mà nhà Trần có nhiều công chúa, nhiều phu nhân được giao nhiệm vụ gánh vác việc nước, trong đó nổi lên hai công chúa được “trưng dụng” trong chính sách đối ngoại với phía Bắc và phía nam trong hai nghich cảnh rất khác nhau.
Người thứ nhất, công chúa An Tư, con gái út vua Trần Thái Tông, em ruột Trần Thánh Tông. Năm Ất Dậu (1825), trong đợt tấn công xâm lược lần thứ hai, quân Nguyên vây hãm thành Thăng Long. Vua Trần Nhân Tông cùng với Thượng Hoàng Trần Thánh Tông phải chạy ra vùng Tam Trĩ. Thế nước lâm vào cảnh “nghìn cân treo sợi tóc”, nghĩa tướng Trần Bình Trọng hy sinh ở bờ sông Thiên Mạc, một số hoàng tộc hoảng loạn chạy theo giặc (Trần Kiện, Trần Lộng, Trần Ích Tắc…). Để cứu nguy và có thêm thời gian chuẩn bị kháng chiến, Trần Thánh Tông đã buộc phải sai người dâng em gái – Công chúa An Tư, như là một vật cống nạp cho Thoát Hoan “hoãn binh chi kê”. Đại việt sử ký toàn thư ghi: “sai người đưa công chúa An Tư đến cho Thoát Hoan là có ý làm giảm bớt tai hoạ cho nước vậy”. Người con gái “lá ngọc cành vàng” ấy vì nợ nước đã ra đi không trở lại. Nhưng trớ trêu thay, sau chiến thắng quân Nguyên, tháng 7-1285, vua trở về kinh thành hân hoan khen thưởng những người có công, nhưng không ai nhắc tới công chúa An Tư.
Người thứ hai, 16 năm sau, công chúa Huyền Trân con gái Trần Nhân Tông được nhà vua hứa gả cho Chế Mân (Djaia Sinhavarman III), vua của vương quốc Chăm Pa. Đại Việt sử ký toàn thư ghi: chiến thắng quân Nguyên, Trần Nhân Tông nhường ngôi cho con là Trần Anh Tông và tháng 3 năm Tân Sửu (1301) ông đã đi “Vân Du” sang Chiêm Thành, đến “mùa đông tháng 11 từ Chiêm Thành trở về”. Năm Bính Ngọ (1306), Trần Anh Tông thực hiện lời hứa của vua cha, đã gả công chúa Huyền Trân cho chúa Chiêm Thành Chế Mân, đổi lấy hai châu – Châu Ô, Châu Lý làm của hồi môn. Nhà Trần đổi thành châu Thuận và châu Hoá “sai hành khiển Đoàn Nhữ Hài đến vỗ yên hai châu đó”.


Sự thật việc Huyền Trân công chúa về làm dâu xứ Chăm Pa, là nàng phải hy sinh vì nghĩa cả. Hy sinh vì tính cao thượng và lòng nhân ái của Điếu Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông.
Vì sao vậy? Đó là vì sau hai lần liên tiếp đánh bại đội quân hùm sói của Hốt Tất Liệt xăm lăng bờ cõi Đại Việt, giới quân sự luôn gây sức ép với triều đình phải bành trướng về phương nam.
Thật tâm Trần Nhân Tông không muốn vậy. Cái chí của ngài là liên kết giữa Đại Việt và Chăm Pa trở thành một sức mạnh để đối phó với phương Bắc.
Vì vậy ngài phải đích thân sang thăm Chăm Pa với cả gần một năm trời, phần thì tìm hiểu đất nước bạn, phần thì thuyết phục bạn. Vì thế nhà vua (Djaia Sinhavarman III) đã lập được cầu hoà hiếu, thông qua cuộc hôn nhân giữa con gái ngài và vua nước Chăm Pa sính lễ thật là hậu hỹ: cả một vùng đất hai châu: châu Ô và châu Lý (Quảng Trị, Thừa Thiên ngày nay).
Djaia Sinhavaraman III tức thái tử Harifit từng chỉ huy toàn quân đánh bại âm mưu xâm lược của Hối Tất Liệt, và cầm chân tướng giặc Toa Đô suốt mấy năm trời.
Tuy là một vị vua anh hùng nhưng Chế Mân không phải không có sự chống đối của các thế lực khác. Bởi thế, sự thoả thuận giữa hai Nhà nước từ năm 1301nhưng mãi tới năm 1306 hôn lễ mới được tiến hành. Và chỉ một năm sau Huyền Trân vào Chăm Pa thì Chế Mân bị giết, Huyền Trân suýt phải lên giàn thiêu.
Biết đâu cái chết của Chế Mân chẳng phải là do thế lực chống đối nhà vua và thù nghịch với Đại Việt gây lên.
Như chúng ta đã biết, để xây dựng các quốc gia cổ đại, người Đông Nam Á đều tiếp nhận hai mô hình Ấn Độ (Chăm Pa, AêAngkor… và Trung Hoa (Đại Việt). Mặc dù các nước đến đều có chung một cơ tầng văn hoá lúa nước Đông Nam Á, nhưng thể chế chính trị và nền văn hoá quốc gia dân tộc lại rất khác nhau.
Người Chăm Pa là cư dân biển đã có mối giao lưu tiếp xúc với văn hoá Ấn Độ từ rất sớm. Cho đến thế kỷ III – IV, Chăm Pa đã là một trong những quốc gia cổ bậc nhất ở Đông Nam Á tiếp nhận mô hình văn hoá Ấn Độ một cách sâu sắc qua con đường truyền giáo. Vì thế các văn bản Ấn Độ (Đạo Pháp, luật pháp, chính pháp…) có một vai trò đặc biệt quan trọng và các vua Chăm Pa đã áp dụng khá nguyên vẹn.


Chế độ Vương quyền Ấn Độ đã được cấp nhãn hiểu của thần quyền. Vua là hiện thân của thần trên mặt đất – người bảo vệ thần dân bằng “Thánh luật” tức “Luật thiêng”. Vì vậy, đất nước không thể không có vua. “Đất nước không có vua khác nào như sông không có nước, dàn gia súc không có người chăn”. Người Ấn Độ trong đời có 3 việc lớn phải làm theo trình tự: chọn vua, chọn vợ, tích luỹ tài sản. Vì vậy, toàn bộ cơ cấu tổ chức chính trị – văn hoá là sự kết hợp vua – thần (vương quyền kết hợp thần quyền) dựa trên cơ sở một xã hội đẳng cấp các vị vua Chăm Pa đều theo Ấn Độ giáo và tự coi mình có gốc thần linh, đồng nhất với các vị thần như Siva, Indra, Brahma, Kama, Krisna,Visnu … (Vua Badravarman I được đồng hoá với Sivi dưới tên gọi Bhadresvara và được thờ ở Mỹ Sơn. Các vua thuộc thời Hoàn Vương đều ví mình với các thần như Indravarman. Tự so sánh với Vikraman (hoá thân của Visnu) nâng quả đất bằng hai tay, hay Narayama (Visnu hoá thân_ nằm trên con rắn nâng thế giới bằng bốn cánh tay, các vua thời Đồng Dương cũng vậy Harivarman IV dựng bia tự ca ngợi và so sánh với các thần Krisna, Kama, Indra, Brahma, Siva … Ông vua tài ba Yaya Harivarman I được bia ký gọi ông là “hình thức có thể lấy được của thần Visnu”. (Bài viết này dựa trên những tư liệu lịch sử trong các tác phẩm được dùng làm tài liệu tham khảo.). Họ rất thông thạo kinh điển Ấn Độ từ kinh vệ đà đến văn phạm Kyakarana, các bài luận Kasika, các truyền thuyết Akhyana.. và rất nhiệt thành với các tôn giáo. Họ tự cho mình có quyền uy tối thượng nắm trong tay luật thiêng và xử sự theo nguyên tắc : kẻ nào mạnh thì thắng, kẻ nào không đủ phẩm chất làm vua thì phải rút lui theo thánh luật.


Trong khi đó Nhà nước Đại Việt lại mô phỏng theo vương triều và từ chương học Trung Hoa rất khác với mô hình Ấn Độ. Tiếp nhận Nho giáo trên cơ tầng văn hoá bản địa Đông Nam Á, do yêu cầu có một chính quyền vững chắc để chống ngoại xâm, Nhà nước Đại Việt đã phát triển với 3 đặc điểm:
Một là, nó là nước quân chủ tập quyền, dựa trên chế độ tông pháp, phụ quyền, cha truyền con nối theo dòng trưởng thuần tuý dân sự, tôn giáo tách khỏi Nhà nước, bộ máy cai trị được đào tạo công phu theo lối “văn trị”, không có giai cấp quí tộc ăn bám và cát cứ. Sự thống nhất quốc gia dựa trên văn hoá và chính t
Hai là, nó có ý thức đầy đủ về một quốc gia văn hiến, về vai trò Nhà nước: có cương vị rõ ràng, có lịch sử ghi chép đầy đủ, có chính quyền thống nhất, có văn hiến riêng và được coi trọng.
Ba là, một nước theo Nho giáo rất coi trọng học vấn, lấy lễ làm gốc.
Trong lịch sử quan hệ giữa Đại Việt và Chăm Pa, Trần Nhân Tông là ông vua duy nhất đã thiết lập mối quan hệ hữu hão với nước này. Có lẽ nhà vua đã cảm nhận được hai điều tâm đắc với Chăm Pa:
Một là, họ đã cùng nhau chung lưng đấu cật để chống quân Nguyên trong đó vua Trần Nhân Tông đã có công lớn trong chiến thắng vĩ đại này. Sau khi có thắng lợi Trần Nhân Tông chắc muốn sang cảm ơn bạn bè và xây dựng quan hệ hoà hiếu, xoá đi sự ngờ vực nhau giữa Đại Việt và Chăm Pa trong quá khứ.
Hai là, Trần Nhân Tông là một ông vua say mê đạo Phật, là người đã xây dựng nên Thiền phái Trúc lâm của Việt Nam, cho nên có thể ông rất có cảm tình với nền văn hoá balamôn giáo và Phật giáo của nước này.
Vì những lẽ đó mà Trần Nhân Tông đã tạo nên một nốt nhạc thiền hoà hiếu trong quan hệ với Chăm Pa, mặc dù không phải mọi người trong triều đình đã chia sẻ với ông điều đó.
Lịch sử là những gì đã diễn ra, lịch sử không có “giá như” thế này, thế kia. Người đời sau chỉ có thể rút ra bài học lịch sử cho mình… và cứ như thế lịch sử sẽ được nối tiếp theo chiều hướng ngày càng tốt đẹp hơn, thành công hơn.

Cảnh binh lính Chăm xử tử tù binh, Tây Sơn - Bình Định, TK 12
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đại Việt sử ký toàn thư, tập II, NXB KHXH, Hà Nội 1998
2. Ngô Văn Doanh, Văn hoá Chăm Pha, NXB VHTT, Hà Nội 1994
3. Quỳnh Cư – Đỗ Đức Hưng, Các triều đại Việt Nam, NXB Thanh Niên, Hà Nội 1995.
4. A.B. Pôliacôp, Sự phục hưng của Nhà nước Đại Việt thế kỷ X – XIV, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1996.
5. Viện sử, Tìm hiểu xã hội Việt Nam thời Lý, Trần, NXB KHXH, Hà Nội 1980
6. Kính Dân, Hào khí Đông A, Tr.9, 105 – Tuyển tập, XNB VHDT, Hà Nội 2000.
7. Hoàng Quốc Hải, Vương triều sụp đổ, NXB phụ nữ, Hà Nội 1999.
Nguồn: http://www.daosuduytue