logo

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
    • Thư ngỏ
    • Khái quát về Trung tâm
    • Nhân lực Trung tâm
      • Thành viên Trung tâm
      • Cộng tác viên
    • Giới thiệu Khoa Văn hóa học
      • Khái quát về Khoa
      • Nhân lực của Khoa
  • Tin tức
    • Tin nhà (Trung tâm)
    • Tin ngành
    • Tin liên quan
  • Đào tạo - Huấn luyện
    • Các chương trình
    • Tổ chức và Hiệu quả
    • Đào tạo ở Khoa VHH
      • Chương trình đào tạo
      • Kết quả đào tạo
  • Nghiên cứu
    • Lý luận văn hóa học
      • LLVHH: Những vấn đề chung
      • VHH: Phương pháp nghiên cứu
      • VHH: Các trường phái - trào lưu
      • Loại hình và phổ quát văn hóa
      • Các bình diện của văn hóa
      • Văn hóa học so sánh
      • Vũ trụ quan phương Đông
      • Văn hóa và phát triển
      • VHH và các khoa học giáp ranh
    • Văn hóa Việt Nam
      • VHVN: Những vấn đề chung
      • Văn hóa cổ-trung đại ở Viêt Nam
      • Văn hóa các dân tộc thiểu số
      • Văn hóa Nam Bộ
      • Văn hóa nhận thức
      • Văn hóa tổ chức đời sống tập thể
      • Văn hóa tổ chức đời sống cá nhân
      • Văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên
      • Văn hóa ứng xử với môi trường xã hội
    • Văn hóa thế giới
      • VH Phương Đông: Những vấn đề chung
      • VH Phương Tây: Những vấn đề chung
      • Quan hệ văn hóa Đông - Tây
      • Văn hóa Trung Hoa và Đông Bắc Á
      • Văn hóa Đông Nam Á
      • Văn hóa Nam Á và Tây Nam Á
      • Văn hóa châu Âu
      • Văn hóa châu Mỹ
      • Văn hóa châu Phi và châu Úc
    • Văn hóa học ứng dụng
      • VHƯD: Những vấn đề chung
      • VHH nghệ thuật
      • Văn hóa đại chúng
      • Văn hóa giao tiếp
      • Văn hóa du lịch
      • Văn hóa đô thị
      • Văn hóa kinh tế
      • Văn hóa quản trị
      • Văn hóa giáo dục - khoa học
    • Tài liệu phổ cập VHH
      • Văn hóa Việt Nam
      • Văn hóa thế giới
      • VHH ứng dụng
    • Tài liệu tiếng nước ngoài
      • Theory of Culturology
      • Vietnamese Culture
      • Applied Culturology
      • Other Cultures
      • 中文
      • Pусский язык
    • Thư Viện Số (Sách - Ảnh - Video)
      • Tủ sách Văn hoá học
      • Thư viện ảnh
      • Thư viện video
    • Các nhà văn hóa học nổi tiếng
  • Tiện ích
    • Dịch vụ Văn hóa học
    • Dịch vụ ngoài VHH
    • Trợ giúp vi tính
    • Từ điển Văn hóa học
    • Thư viện TT và Khoa
    • Tổng mục lục website
    • Tủ sách VHH Sài Gòn
    • Giải đáp thắc mắc
  • Thư giãn VHH
    • Văn chương Việt Nam
    • Văn chương nước ngoài
    • Nghệ thuật Việt Nam
    • Nghệ thuật thế giới
    • Hình ảnh vui
    • Video vui
  • Diễn đàn
  • Liên hệ
  • Trang chủ
  • Nghiên cứu
  • Văn hóa Việt Nam
  • Văn hóa các dân tộc thiểu số
Monday, 28 May 2012 15:10

Đặng Trọng Nghĩa. Tín ngưỡng thờ thần chuột của người Dao tiền

Người post bài:  Nguyễn Thị Tuyết Ngân

Additional Info

  • Tiêu đề:

    TÍN NGƯỠNG THỜ THẦN CHUỘT CỦA NGƯỜI DAO TIỀN

  • Tác giả:

    Đặng Trọng Nghĩa

Đặng Trọng Nghĩa. Tín ngưỡng thờ thần chuột của người Dao tiền

Trong tâm thức dân gian, chuột được coi là một loài vật tinh khôn, nhanh nhẹn, luôn thích nghi trong mọi hoàn cảnh, nổi tiếng về khả năng tàn phá. Trong lịch sử nhân loại, con người không ít lần từng bị đói, rét, bệnh tật, nhà cửa ruộng vườn bị tàn do chính loài chuột gây ra. Vì lẽ đó, trong mắt của các dân tộc, chuột là kẻ thù của con người, là loài vật cần phải tiêu diệt. Tuy nhiên, người Dao thuộc nhóm Dao tiền ở Tân Pheo, Đà Bắc Hòa Bình lại tôn sùng chuột như là một vị thần, một sự cứu cánh đối với cộng đồng và trở thành một tín ngưỡng trong tâm thức của họ.

Người Dao tiền có mặt ở Hòa Bình từ rất lâu với số lượng khoảng 13.859 người, chiếm 1,76% dân số Hòa Bình, cư trú tại nhiều huyện: Đà Bắc, Kim Bôi, Lương Sơn, Mai Châu, Cao Phong, nhưng tập trung chủ yếu tại huyện Đà Bắc (1). Về cơ bản, người Dao ở Đà Bắc, Hòa Bình phần lớn thuộc nhóm Dao tiền và có nguồn gốc từ Quảng Đông, Trung Quốc thiên di đến Quảng Yên (Quảng Ninh) vào khoảng TK XV, rồi từ đó phân tán về các tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Hòa Bình. Sự kiện vượt biển này còn được ghi trong tập thơ Tăng chỉ hành piềm tà hộ của người Dao:

Sén so quýa khói xiết chùn tậu

Pham chùn lộ khói, pháy chùn biều

Phấy chùm xoang choang khói nằm ngạn

Pham chùm lo khói tụm chuông đầu

Tạm dịch:

Ngày đi bảy thuyền cùng xuất phát

Ba thuyền bị nạn, bốn thuyền qua

Bốn thuyền thoát nạn về tới bến

Ba thuyền dìm đáy biển Đông xa (2)

Theo một số nghiên cứu thì người Dao ở Đà Bắc, Hòa Bình thuộc nhóm Dao đeo tiền theo bà Đặng Thị Hành ngược sông Đà lên Hòa Bình, Phú Thọ, Sơn La rồi theo vận động hạ sơn họ về cư trú đông đảo ở huyện Thanh Sơn để định cư trồng lúa nước. Nhóm này thờ bà Đặng Thị Hành nên theo bà mặc váy và đeo tiền kim khí sau cổ áo (3).

Người Dao tiền ở đây có một số quan niệm về tín ngưỡng thờ cúng cũng như các ngành Dao khác. Họ quan niệm mọi vật đều có linh hồn (vần), khi vật đó chết thì hồn lìa khỏi xác để biến thành ma, và hồn ma có ở khắp nơi. Người Dao cho rằng có ma lành và có ma dữ trong cuộc sống của họ. Gặp ma lành thì gặp được sự yên ổn, bảo trợ, giúp đỡ, còn gặp ma dữ tức là không may mắn, tai họa. Người ốm là do không đủ số hồn ở trong người, do đó phải tìm đến thày bói đi tìm hồn và nhờ thày cúng tìm cách đưa những hồn trong người trở lại vị trí cũ. Có rất nhiều loại ma lành trong tín ngưỡng của người Dao, nhưng phổ biến, quen thuộc là ma tổ tiên, ma đất, ma bếp, thần nông, Ngọc Hoàng thượng đế, Tam Thanh, Bàn Vương (người Dao quan niệm Bàn Vương là thủy tổ của họ). Tuy ma lành không hại, nhưng người cũng không được làm điều gì để ma phật ý mà quở trách, còn lại là các loại ma dữ, cần phải hết sức cẩn thận với chúng. Những nghi lễ, tín ngưỡng liên quan đến nông nghiệp của người Dao cũng phổ biến như: cúng thóc giống, cúng nương, cúng cơm mới, cúng hồn lúa, cầu mưa. Ngoài ra, người Dao còn có các nghi lễ liên quan đến núi rừng. So với người Thái và người Mường thì trong tín ngưỡng của người Dao, tam giáo đã có ảnh hưởng khá mạnh (4).

Người Dao còn có một tín ngưỡng rất phổ biến, đó là lễ cúng Bàn Vương (Chẩu Đàng), có nơi còn gọi là đám chay. Nhà nào, dòng họ nào cũng phải cúng Bàn Vương ít nhất là một lần trong đời người. Lễ này đòi hỏi số lượng người tham gia nhiều và vật chất lớn, do vậy phải dày công chuẩn bị mới tiến hành được. Vì thế, người ta thường kết hợp làm lễ cấp sắc với cúng Bàn Vương.

Theo người Dao tiền ở Tân Pheo, Đà Bắc, một lễ kết hợp cả lễ cấp sắc với cúng Bàn Vương cần ít nhất hai thầy cúng, với 50 bài cúng. Lễ vật là xôi, lợn, gà, quần áo, vàng mã, tranh thờ, chi phí rất tốn kém. Ngoài ra, người ta còn tiến hành nhiều nghi lễ khác nhau trong các lễ này, vì vậy, đòi hỏi sự tốn kém không chỉ về vật chất mà cả về thời gian. Với người Dao, ai chưa làm lễ cấp sắc thì chưa được coi là trưởng thành, và trong các hoạt động tín ngưỡng cùng các hoạt động chung khác của cộng đồng, họ sẽ không được tham gia mà chỉ được đứng ngoài. Vì vậy, lễ cấp sắc luôn là một niềm khao khát đối với những người chưa được trải qua lễ này.

Người Dao tiền còn có một tín ngưỡng khác là lễ tạ mả, một dịp để toàn bộ họ hàng đến dự. Đây là nghi lễ của dòng họ, từng họ làm riêng với nhau. Một số dòng họ khi làm lễ tạ mả là phải thịt trâu, lập bàn thờ, thả tranh, có thày cúng và nhạc chiêng, trống, xập xọe, chuông phụ họa. Người ta còn tiến hành đắp mộ giả trước sân nhà. Nơi làm lễ, người trong họ đứng theo thứ tự từ cao xuống thấp, theo các chi, các nhánh trên, dưới như gia phả ghi chép. Thày cúng được mời phải ở họ khác, vì thày cúng được đứng trên các cụ, nên nếu người trong họ cúng, như thế là bất nhã.

Có thể nói tín ngưỡng của người Dao tiền ở Tân Pheo, Đà Bắc còn giữ được khá nhiều các yếu tố truyền thống. Tuy nhiên trong hệ thống tín ngưỡng của họ, có một tín ngưỡng mang nhiều yếu tố thần bí, đó là thờ thần chuột. Sự khác biệt ở đây chính là sự ảnh hưởng và tầm quan trọng của tín ngưỡng này đối với gia đình, cộng đồng người Dao tiền thuộc 2 xã Tân Pheo và Giáp Đắt của huyện Đà Bắc, nhưng lại vô cùng xa lạ với các bản làng khác trong cùng một ngành Dao tiền ở vùng này. Vậy tại sao người Dao tiền ở các bản trên lại chọn chuột để thờ mà không chọn con vật khác, trong khi hệ thống tín ngưỡng về các thần linh của họ vô cùng phong phú? Yếu tố nào tạo nên sự khác biệt trong tín ngưỡng giữa các bản làng cùng ngành Dao tiền này?

Đến nay trong dân gian vẫn phổ biến một số truyền thuyết nói về nguồn gốc của tín ngưỡng thờ thần chuột này.

Theo người dân bản Bương xã Tân Pheo, Đà Bắc thì tín ngưỡng này có từ rất lâu đời, nó xuất hiện cùng với sự hình thành các bản người Dao tiền ở đây và họ cũng không biết tại sao, chỉ biết rằng từ các đời trước đã lưu truyền một truyền thuyết rằng: Ngày xưa, đã lâu lắm, tổ tiên của người Dao tiền từ phương Bắc di cư tới vùng đất này, rừng núi còn âm u, cây cối rậm rạp, các loài thú nhiều vô kể. Khi mới đến, người Dao tiền thường xuyên phải chịu cảnh đói rét, bệnh tật và thiếu thốn về thức ăn. Đã có nhiều người phải chết vì ốm, bệnh tật, vì cái đói, cái rét và thú dữ ăn thịt. Người Dao tiền vì thế mà ít dần đi, muốn cúng các ma rừng để cầu mong sự cứu giúp, nhưng tìm kiếm mãi cũng không có lễ vật gì, họ chỉ đành kêu cúng các thần linh bằng sự thành tâm của mình. Sự thành tâm của họ đã làm động lòng các thần linh, và ma núi đã hiện ra mách bảo cho họ cách bắt chuột để làm thức ăn, làm thuốc chống lại cái đói để duy trì nòi giống (5). Từ đó họ coi chuột là vị thần cứu cánh và thờ thần chuột như là một ân nhân. Hàng năm, để tưởng nhớ đến những ngày đói rét và công lao của thần chuột, họ lại dùng thịt chuột để cúng nhằm cầu mong cho bản làng ấm no, con cháu được đông đúc, người người được khỏe mạnh.

Tại bản Yên và bản Luông xã Giáp Đắt lại lưu truyền một thuyết khác, đại thể: Khi người Dao tiền đến đây sinh sống, do cuộc sống mới chưa được ổn định, việc cúng tế các vị thần không được chu đáo nên thần núi và các ma rừng nổi giận, giáng họa. Tai họa ngày càng nhiều, ngày nào cũng có trai làng bị ma rừng bắt, vì thế số người càng ít đi. Dân làng ngày đêm khẩn cầu Bàn Vương, tổ tiên, ma làng, ma rừng hãy cứu giúp dân làng khỏi bị tuyệt chủng. Thần núi đã hiện lên dạy cho người Dao tiền học cách sinh sống, bằng cách mang đến cho họ loài thú có ở rất nhiều nơi quanh bản làm thức ăn để tồn tại, đó là chuột núi. Từ đó người Dao tiền nhớ công ơn của thần núi nên hàng năm đã dùng thịt chuột để cúng tế thần núi và ma làng. Lâu dần, đời này nối truyền đời kia, số người Dao tiền ngày càng đông thêm, vì thế họ tôn sùng chuột thành thần và dùng thịt chuột để làm lễ vật thờ cúng với ý nghĩa là con vật tượng trưng cho sự sống (6).

Như vậy, dù gắn với truyền thuyết nào thì chúng ta cũng thấy, tín ngưỡng thờ thần chuột của người Dao tiền nơi đây đã có từ rất lâu đời. Nguồn gốc của nó mặc dù chưa được khẳng định, nhưng đều liên quan và gắn liền với lịch sử thiên di của người Dao tiền. Trong quá trình thích nghi với môi trường sống, số lượng người Dao tiền đã giảm đi khá nhiều. Liệu đó có phải là lý do người Dao tiền gửi gắm những khát vọng về sự may mắn, no đủ, cầu mong sự nảy nở, sinh sôi và phát triển cho cộng đồng vào thế giới tâm linh trong tín ngưỡng này? Phải chăng khát vọng này còn được thể hiện trong tập quán nhận con nuôi của người Dao với mong muốn có đông con cháu để nối dài dòng họ? Thực tế cho thấy, hiện trong các bản người Dao tiền ở Tân Pheo vẫn duy trì tập quán nhận con nuôi với mong muốn có đủ con cái, cả trai lẫn gái, và đặc biệt là mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình không có sự phân biệt giữa con đẻ và con nuôi.

Có thể nói, thờ thần chuột là tín ngưỡng quan trọng trong các tín ngưỡng truyền thống của người Dao tiền ở Tân Pheo, Đà Bắc. Đặc biệt đối với người Dao tiền ở bản Bương, tín ngưỡng này có ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống của gia đình và cộng đồng. Sự tôn sùng thần chuột đã được người dân lập thành miếu để thờ và coi chuột là vị thần cứu tinh của người dân nơi đây. Miếu thờ thần chuột được đặt trên một ngọn đồi cao ở đầu bản. Theo quan niệm của họ, miếu thờ thần chuột có hai ý nghĩa, vừa thờ thần chuột là con vật linh thiêng của dân bản, vừa thờ các ma làng để cầu mong sự may mắn. Vì vậy miếu phải được làm ở chỗ cao ráo, thoáng mát, ít người qua lại, người dân không được tự ý đi vào, không được thả trâu bò xung quanh miếu, như thế mới thể hiện được sự tôn nghiêm, thần chuột và các ma làng mới có chỗ yên tĩnh để nghỉ ngơi mà không bị quấy nhiễu. Theo người dân nơi đây, trước kia miếu được làm bằng tre, nứa, gỗ. Miếu cao bằng tầm đứng của người lớn, mái được lợp bằng nhiều lớp phên nứa và cấu trúc thành hai mái dốc. Cửa miếu quay về hướng đông hoặc bắc, nhưng nhất thiết phải hướng vào trong bản. Bên trong miếu, bàn thờ làm bằng một tấm gỗ đặt nằm suốt theo chiều ngang của miếu, ở giữa được ngăn đôi tượng trưng bằng một tấm phên nứa, một bên là dùng để bày lễ vật cúng thần chuột, một bên để bày lễ cúng ma làng.

Thần chuột được các gia đình thờ cúng cùng với tổ tiên vào những ngày tến đón năm mới. Việc thờ cúng thần chuột chung cho cả bản được tiến hành tại miếu thờ vào ngày mùng 2 tết Nguyên đán và các ngày lễ lớn trong năm như lễ cầu mùa (tháng 5), cơm mới (tháng 9). Trong các ngày lễ này không thể thiếu thịt chuột. Thịt chuột được dùng làm lễ vật dâng lên thần chuột, tổ tiên, ma làng và các thần linh nhằm cầu mong sự sung túc, mạnh khỏe, an toàn cho gia đình và cộng đồng.

Để có chuột làm lễ vật cúng, các gia đình phải chuẩn bị một cách công phu, như vậy mới thể hiện được sự thành kính đối với thần chuột và ông bà tổ tiên. Công việc chuẩn bị cho lễ cúng được phân ra các công đoạn:

Chuẩn bị, đây là công đoạn mang yếu tố quyết định. Theo quy định, vào những ngày lễ, đặc biệt là lễ thần chuột, yêu cầu bắt buộc là mỗi gia đình phải có ít nhất từ một đến ba con chuột để góp vào lễ chung của bản. Những con chuột dùng làm lễ vật phải được các gia đình tự bắt lấy, sấy khô và bảo quản trước khi nộp cho thày mo. Vì vậy ngay từ trong năm, vào bất kỳ thời gian nào, các gia đình đều phải chú ý bắt cho được những con chuột ưng ý. Chuột phải thuộc loại chuột núi (có tiếng kêu như tiếng chim). Loài chuột này chỉ sống trên núi cao, chỉ ăn các loại rau, lá, củ rừng, vì vậy chúng vừa béo, vừa to mà không hề có bệnh tật.

Trước đây, khi rừng còn nhiều chuột, hàng năm sau lễ cầu mùa, cả bản lại tổ chức săn chuột, đây là thời điểm có nhiều chuột nhất và cũng là những ngày vui nhất của bản với sự tham gia của tất cả mọi người từ trẻ nhỏ, nam nữ thanh niên đến các cụ già còn sức khỏe. Dụng cụ đi săn gồm: nỏ, lưới quăng, bùi nhùi, cuốc, xẻng, các loại rọ để đựng. Mở đầu cho mùa săn chuột, ngày đầu tiên dân bản sắm sửa một mâm lễ gồm 5 con gà trống, 2 miếng thịt lợn luộc, cơm xôi, rượu trắng, 5 ống bương rượu hoẵng, 5 con chuột khô đã được nướng vàng và để nguyên con. Lễ vật bày trên tảng đá hoặc nơi đất cao ở cửa rừng, mỗi loại được bày riêng vào một tàu lá chuối, thịt chuột bày ở chính giữa mâm lễ, sau khi chuẩn bị xong dân làng mời thày mo đến làm lễ cúng (7). Trước sự có mặt đông đủ và thái độ thành kính của những người đi săn, thày mo trang nghiêm cúng mời các ma rừng, ma suối, ma núi, ma cây và các ma tốt khác về hưởng lễ vật nhằm giúp cho dân bản đi săn được kết quả như mong muốn. Sau khi làm lễ, thày mo lấy mỗi loại lễ vật một ít cho vào một ống bương to và bịt kín hai đầu lại. Ống bương này được treo lên một cây cao đầu bản với ý nghĩa là dân bản luôn kính lễ với các thần linh trong suốt cuộc săn. Các lễ vật còn lại dù là ít cũng được mang xuống chia cho mọi người có mặt, sau đó họ vào rừng đi săn. Cuộc săn thường diễn ra từ 3 đến 5 ngày. Những ngày này người dân chỉ săn chuột chứ không được săn bất kỳ loại thú nào khác.

Sau khi kết thúc mùa săn, số chuột được các gia đình lựa chọn và phân loại một cách kỹ lưỡng. Việc lựa chọn nhằm hai mục đích là chọn ra những con chuột dùng để góp với bản làm lễ cúng tại miếu thờ thần chuột, và dùng để cúng tổ tiên trong gia đình. Vì vậy, việc chọn lựa phải hết sức kỹ càng, phải là những con chuột to khỏe (nếu còn sống thì càng tốt), không già quá, không bị mất các bộ phận trên cơ thể, lông phải mịn mượt và có màu hanh vàng Sau khi lựa chọn xong, họ mang chuột về để tiến hành làm lông và sấy khô. Tuy nhiên, do mùa săn chuột diễn ra trong thời gian ngắn, nên nhiều gia đình không bắt đủ số chuột, vì vậy họ sẽ tiếp tục phải đi săn hoặc trao đổi bằng được những con chuột như ý để đảm bảo đủ lễ vật góp với bản và dùng cho gia đình trong các ngày giỗ tết.

Chế biến, chuột sẽ được nhúng vào nước sôi, làm lông và mổ bỏ ruột sạch sẽ, sau đó thui trên lửa. Thui chuột là một công đoạn quan trọng vì không cẩn thận chuột sẽ bị cháy chân, đuôi hoặc rụng mất răng. Theo quan niệm truyền thống, nếu chuột dùng để làm lễ vật thờ cúng mà mất các bộ phận quan trọng thì các thần linh chê là không đầy đủ, vì vậy việc thui chuột thường do đàn ông đảm nhiệm. Khi thui xong, chuột được đưa lên trên gác bếp để sấy khô. Gác bếp được bố trí độ cao vừa đủ, trong quá trình sấy phải đảo chỗ thường xuyên, đảm bảo chuột được khô đều, nếu nóng quá chuột dễ bị đổi màu hoặc sạm khói. Nhiều gia đình cẩn thận còn dùng những tấm phên nứa buộc quây vào xung quanh nhằm tránh bụi bặm và đảm bảo chuột sấy khô rồi nhưng vẫn giữ được màu vàng như vừa mới thui xong.

Vào những ngày giỗ cha mẹ, tổ tiên, lễ vật gồm có gà, rượu, gạo và bắt buộc phải có 3 con chuột. Các lễ vật do đàn bà chuẩn bị, riêng món thịt chuột và việc bày lễ lên bàn thờ tổ tiên phải được người đàn ông trong nhà trực tiếp làm. Vì vậy, trong khi đàn bà chế biến các món ăn khác thì ông chủ nhà tự lấy 3 con chuột khô từ trên gác bếp, rửa sạch và đem vào nướng chín trên than hồng. Chuột chín được chủ nhà bày lên lá chuối theo hình rẻ quạt đầu chụm vào nhau, bên cạnh để 3 chén rượu trắng, 3 đôi đũa dài, ở giữa để một số gia vị và một nhúm muối trắng. Sau khi chuẩn bị xong, lễ vật được bày lên bàn thờ gia tiên, gia chủ làm lễ cúng mời tổ tiên về hưởng lễ vật để phù hộ cho con cháu. Cúng xong lễ được hạ xuống để mọi người cùng ăn, riêng món thịt chuột sẽ được chủ nhà chia đều cho mọi người.

Trong các nghi thức cộng đồng, người Dao tiền ở Tân Pheo dùng thịt chuột để thờ vào ba ngày lễ lớn: lễ cầu mùa, lễ cơm mới và lễ tết Nguyên đán cuối năm. Riêng trong lễ cầu mùa và lễ cơm mới, người Dao tiền dùng thịt chuột để cúng trong nhà, sau đó thịt chuột được mang đến nhà thày mo để góp. Mỗi nhà bắt buộc phải có 2 con chuột cho làng, sau khi đến nhà thày mo, việc chế biến thịt chuột do những người đàn ông đảm nhiệm. Thịt chuột được chế biến thành nhiều món khác nhau, trong quá trình này những người phụ nữ chỉ trợ giúp các công việc chứ không trực tiếp làm. Khi cỗ đã được bày xong, các món ăn chế biến từ thịt chuột được mang xuống để cả làng thưởng thức. Khác với hai ngày lễ cầu mùa và lễ cơm mới, thịt chuột mang ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với mọi người dân trong những ngày tết Nguyên đán. Từ đầu tháng 12 âm lịch, mọi gia đình đều phải chuẩn bị thịt chuột, tối thiểu là 4 con, tất cả được nướng chín, 3 con thờ ở nhà, 1 con nộp làng để mang lên miếu cúng thần chuột và ma làng. Việc cúng thần chuột tại miếu thờ chỉ tổ chức một ngày duy nhất vào mồng 2 tết. Vào đúng ngày lễ, mỗi nhà chọn 1 con chuột ưng ý nhất, 1 chai rượu, 1 nén hương mang lên miếu. Tất cả người ở trong bản đều phải tập trung có mặt tại miếu, nhưng mỗi nhà chỉ được một người vào làm lễ, thường là chủ nhà, những người còn lại tập trung ở sân để xem lễ. Sau khi lễ vật đã được bày đầy đủ ở trong miếu, mo làng sẽ làm chủ tế để cúng lễ. Lễ xong, toàn bộ thịt chuột sẽ được tập trung về nhà chủ tế để làm cỗ liên hoan, trong bữa ăn lộc đầu năm này, mỗi gia đình trong bản chỉ một người đại diện được dự bữa ăn mà thôi. Cúng thịt chuột vào ngày tết của người Dao tiền ở Tân Pheo là một tín ngưỡng đã có từ lâu, được duy trì từ thế hệ trước sang thế hệ sau và chưa bao giờ thay đổi. Đối với người dân nơi đây, nói đến tết là nói đến thịt chuột, không có thịt chuột thì không có tết và nếu ít thịt chuột thì đó là cái tết buồn tẻ, năm mới sẽ kém may mắn.

Cũng vào những ngày tết, các gia đình đều chuẩn bị thịt chuột, tối 30 tết, đúng 8 giờ, 3 con chuột đã nướng chín được bày lên chỗ trang trọng nhất trên bàn thờ. Đúng giao thừa, chủ gia đình sẽ cúng những người đã khuất và các ma làng, mời tất cả về cùng hưởng món thịt chuột trong những ngày tết. Người dân ở đây quan niệm, nhà nào có nhiều thịt chuột nhất trong ngày tết thì nhà đó trong năm mới sẽ được tổ tiên và ma làng phù hộ cho sung túc, con đàn cháu đống, vui vẻ, mạnh khỏe quanh năm. Ngày tết của người Dao tiền ở Tân Pheo thường kết thúc vào ngày mùng 4 hoặc kéo dài đến mùng 6, tùy theo điều kiện kinh tế của từng năm. Kết thúc những ngày tết, 3 con chuột đem lên thờ từ ngày 30 sẽ được đưa xuống để cả gia đình hưởng lộc đầu năm. Đây là bữa ăn có ý nghĩa nhất đối với tất cả gia đình, vì người dân tin rằng được ăn thịt chuột vào những này sẽ tăng thêm sức khỏe và mang lại sự ấm cúng, hạnh phúc cho gia đình.

Như vậy có thể thấy, tín ngưỡng thờ thần chuột có những ảnh hưởng không nhỏ đến gia đình và cộng đồng của các bản người Dao tiền ở Tân Pheo, Đà Bắc. Nó phản ánh khát vọng về một cuộc sống ấm no, con cháu đông đúc, mọi người mạnh khỏe. Thực tế cho thấy, những bản làng có tín ngưỡng thờ thần chuột đều có không gian cư trú hẹp, thuộc những vùng núi cao, hiểm trở, đi lại khó khăn, kinh tế của bà con phần lớn dựa vào tự cung tự cấp. Vì vậy, sự hình thành tín ngưỡng thần chuột phản ánh quá trình thích nghi với môi trường tự nhiên và giao lưu, tiếp biến các giá trị văn hóa giữa các tộc người trên địa bàn sinh sống. Điều này phần nào cho thấy sự khác biệt trong tín ngưỡng thờ thần chuột của các bản làng có cùng ngành Dao tiền.

Tín ngưỡng thờ thần chuột của người Dao tiền ở Tân Pheo, và các bản làng khác, phần nào phản ánh những giá trị đạo đức trong mối quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với môi trường tự nhiên và cao hơn nữa là phản ánh bản sắc văn hóa tộc người, cũng như đời sống kinh tế xã hội, tâm linh của cư dân khu vực này. Đó là những giá trị văn hóa cần phải tập trung nghiên cứu để gìn giữ, bảo tồn và bổ sung vào kho tàng văn hóa dân gian của người Dao tiền nói riêng, đồng thời góp phần gìn giữ văn hóa các dân tộc thiểu số ở Việt Nam nói chung.

_______________

1. Cục thống kê tỉnh Hòa Bình, Niên giám thống kê năm 1999.

2. Bùi Chí Thanh, Tết nhảy của người Dao quần chẹt ở Hòa Bình, Sở VHTTTT Hòa Bình, 2006.

3. Nguyễn Hữu Nhàn, Về việc sưu tầm nghiên cứu văn nghệ dân gian các dân tộc thiểu số ở Phú Thọ, Tạp chí Văn học Nghệ thuật Phú Thọ, 2011.

4. Viện dân tộc học, Các dân tộc ít người ở Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1978.

            5, 6, 7. Sưu tầm qua lời kể của người già tại các bản người Dao.

Nguồn: Tạp chí VHNT số 334, tháng 4-2012

 

Lên trên

Cùng chủ đề

  • Đổng Thành Danh. Những nhận thức mới về các di sản vật thể của người Chăm Ninh Thuận

  • Đổng Thành Danh. Diễn xướng linh thiêng như một biểu tượng trong nghi lễ của người Chăm

  • Đổng Thành Danh. Góp phần tìm hiểu vấn đề họ và tên của người Chăm

  • Đổng Thành Danh. Giải ảo huyền thoại Po Romé của người Chăm

  • Trương Thị Kim Thủy. Dấu ấn văn hóa Ấn Độ trong lễ hội Ok Om Bok

Thông báo

Tư vấn khoa học và kỹ năng nghiên cứu…

Tủ sách văn hoá học Sài Gòn

  • Thư viện ảnh
  • Thư viện video
  • Tủ sách VHH

Phóng sự ảnh: Toạ đàm khoa học: Xây dựng…

Hình ảnh văn hóa Tết xưa (sưu tầm)

Phóng sự ảnh: Lễ hội truyền thống VHH 2011

Phóng sự ảnh Lễ hội truyền thống VHH 2010

Thành phố Sankt-Peterburg, Nga

Bộ ảnh: Việt Nam quê hương tôi 2

Tranh Bùi Xuân Phái

Bộ tem tượng Phật chùa Tây Phương

Bộ ảnh: Đá cổ Sapa

Bộ ảnh: Phong cảnh thiên nhiên

Bộ ảnh: Việt Nam quê hương tôi

"Biển, đảo Việt Nam - Nguồn cội tự bao đời":…

Con dê trong văn hóa và văn hóa Việt Nam

Văn hóa Tết ở Tp.HCM (Chương trình truyền…

Văn hóa Tp. HCM: Một năm nhìn lại và động…

Phong tục Tết cổ truyền của người Nam Bộ

Bánh tét và Tết phương Nam

Con ngựa trong văn hóa và văn hóa Việt Nam

Điện Biên Phủ - Cuộc chiến giữa hổ và voi

Nhìn lại toàn cảnh thế giới từ 1911-2011…

Tọa độ chết - một bộ phim Xô-Việt xúc động…

Video: Lễ hội dân gian Việt Nam

Văn hoá Việt từ phong tục chúc Tết

Văn hoá Tết Việt qua video

Tết ông Táo từ góc nhìn văn hoá học

“Nếp nhà Hà Nội” trên “Nhịp cầu vàng”: tòa…

Văn hóa Thăng Long - Hà Nội qua video: từ…

Hướng về 1000 năm TL-HN: Xem phim “Tử Cấm…

Hướng về 1000 năm TL-HN: Người Thăng Long…

Phim "Chuyện tử tế" – tập 2 (?!) của “Hà…

Default Image

Hướng về 1000 năm TL-HN: "Chuyện tử tế" -…

Sách “Di sản Ấn Độ trong văn hóa Việt Nam”

Nguyễn Văn Bốn. Tín ngưỡng thờ Mẫu của người…

Sách: Quản lý và khai thác di sản văn hóa…

Hồ Sĩ Quý. Con người và phát triển con người

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 3

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 2

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 1

Hồ Sỹ Quý. Tiến bộ xã hội: một số vấn đề về…

Hồ Sỹ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á (Phụ…

Hồ Sỹ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á…

Hồ Sĩ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á…

Sách: Chuyên đề Văn hoá học

Sách: Một số vấn đề về hệ giá trị Việt Nam…

FitzGerald. Sự bành trướng của Trung Hoa…

Hữu Đạt. Đặc trưng ngôn ngữ và văn hoá giao…

Sống chụ son sao (Tiễn dặn người yêu)

Gs. Mai Ngọc Chừ. Số phận & Tâm linh

Trần Văn Cơ. Những khái niệm ngôn ngữ học…

Đoàn Văn Chúc. Văn hóa học (Phần 3 - hết)

Đoàn Văn Chúc. Văn hóa học (Phần 2)

Các nhà VHH nổi tiếng

Julian Haynes Steward

Wen Yi'duo (Văn Nhất Đa)

Leslie Alvin White

Huang Wen'shan (Hoàng Văn Sơn)

Radcliff-Brown, Alfred Reginald

Sapir, Edward

Margaret Mead

Thăm dò ý kiến

Bạn thích cuốn "Cơ sở văn hoá VN" của tác giả nào nhất?

Chu Xuân Diên - 4.8%
Lê Văn Chưởng - 0.9%
Trần Diễm Thuý - 1%
Trần Ngọc Thêm - 37.4%
Trần Quốc Vượng - 53%
The voting for this poll has ended on: 26 06, 2020

Tổng mục lục website

tong muc luc

Tủ sách VHH Sài Gòn

tu sach VHH SG

Thống kê truy cập

  • Đang online :
  • 45
  • Tổng :
  • 3 8 1 8 2 8 9 2
  • Đại học quốc gia TPHCM
  • Đại học KHXH&NV
  • Tran Ngoc Them
  • T.c Văn hóa-Nghệ thuật
  • Tc VHDG
  • Viện NCCN
  • Khoa Văn hóa học
  • Khoa Đông phương học
  • Phòng QLKH
  • Khoa Việt Nam học
  • Khoa Hàn Quốc học
  • BM Nhật Bản học
  • Khoa Văn học - Ngôn ngữ
  • Khoa triết học
  • Khoa Quan hệ quốc tế
  • Khoa Xã hội học
  • Bảo tàng Lịch sử - Văn hóa
  • viettems.com
  • myfaifo.com
Previous Next Play Pause

vanhoahoc.vn (các tên miền phụ: vanhoahoc.edu.vn ; vanhoahoc.net)
© Copyright 2007-2015. Bản quyền thuộc Trung tâm Văn hóa học Lý luận và Ứng dụng, Trường Đại học KHXH & NV - ĐHQG Tp. HCM
ĐT (028) 39104078; Email: ttvanhoahoc@hcmussh.edu.vn; ttvanhoahoc@gmail.com. Giấy phép: số 526/GP-BC, do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 27-11-2007
Ghi rõ nguồn vanhoahoc.vn khi phát hành lại các thông tin từ website này.

Website được phát triển bởi Nhà đăng ký tên miền chính thức Việt Nam trực thuộc Trung Tâm Internet VNNIC.

Văn hóa các dân tộc thiểu số