Trong không khí đó, Rakugo là một sự kết hợp độc đáo giữa nghệ thuật sân khấu và trào lưu trào phúng. Nhưng trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử, Rakugo chưa bao giờ được chính quyền đánh giá đúng mực trong diện mạo chung của nền văn hóa. Nhưng hơn hết, khác với kabuki hay joruri thiên về giải trí cho tầng lớp thị dân giàu có, Rakugo là một sản phẩm nghệ thuật của các tầng lớp bình dân, và phải chăng vì thế mà nó có một sức sống bền bỉ, tiềm tàng suốt 400 năm qua.
Rakugo là một hình thức hài kịch hay còn gọi là kể chuyện hài hước có một không hai ở Nhật Bản. Rakugo đặc sắc trước hết ở nghệ thuật biểu diễn và nghệ thuật hài hước với nhiều thủ pháp: cách điệu tượng trưng, sử dụng ngôn ngữ tinh tế, lối diễn xuất độc diễn, giản dị, ngẫu hứng nhưng thông minh, linh hoạt và đầy kịch tính với những kiểu kết thúc (ochi) bất ngờ, hài hước. Cái hài hước của Rakugo không chỉ là sự gây cười đơn thuần mà còn là một biểu hiện độc đáo của văn hóa. Rakugo tiêu biểu cho chất hài của thị dân ở Edo, không quá ồn ào như Kamigata (Kyoto-Osaka và vùng phụ cận) mà nhẹ nhàng nhưng tinh tế và sâu sắc.
Rakugo mở ra một thế giới khoáng đạt với một dàn nhân vật đầy đủ của thành thị, được điển hình hóa, từ võ sĩ và đinh nhân, thợ thủ công và nghệ nhân, thị dân Edo và người nông thôn, trong đó nổi bật hơn cả là những người bình dân, với những nét khắc họa tinh tế về nhiều mặt đời sống, các mối quan hệ và tình cảm của họ. Các nhân vật, đề tài, không gian của Rakugo hướng đến được cả những ngóc ngách sâu xa nhất và những thân phận bần hàn nhất của xã hội, mà ở đó, yếu tố đậm chất Rakugo có thể đơn giản chỉ là phác ra một chút ngốc nghếch dễ thương, một ý tưởng thông minh hóm hỉnh… để rồi dẫn đến một tiếng cười tươi tắn đậm sắc Edokko (thị dân Edo) như G. Sansom đã từng nhận xét “thô ráp, nhanh nhẹn, thích cãi lẽ và sắc sảo…”(1) nhưng cũng tràn đầy lòng vị tha và tình người. Điều đặc biệt ở Rakugo còn là một kho tàng phong phú, sinh động và chân thực hiếm có về nhiều phương diện đời sống vật chất, văn hóa và tinh thần, với chủ thể và trung tâm phản ánh là thị dân ở Edo. Rakugo phản ánh thái độ, tư tưởng, lối sống, cách lao động và hưởng thụ mang đặc trưng của văn hóa thị dân. Trong đó, văn hóa giải trí, cùng với văn hóa ăn uống và văn hóa đi lại, được coi là một trong những biểu hiện cao nhất của đời sống vật chất, tinh thần của thị dân Edo được phản ánh trong Rakugo.
Văn hóa giải trí của thị dân thường là một đề tài bất tận và thường được khai thác ở nhiều khía cạnh khác nhau. Bởi vì đây chính là đặc thù lớn nhất đã tạo nên nét đặc sắc làm cho văn hóa thị dân khác biệt với văn hóa của giới quý tộc và võ sĩ. Nếu như văn hóa của giới võ sĩ được thể hiện sâu sắc ở trà đạo, hoa đạo hay mọi loại thú giải trí mà loại nào cũng đều được nâng lên thành một nghệ thuật của sự khổ luyện và những quy tắc khắt khe thì văn hóa thị dân thật sự tự do, cảm hứng, nhiều khi ngẫu hứng, khoáng đạt và hướng vào những lạc thú tự nhiên của con người.
Bản thân Rakugo là một loại hình văn hóa giải trí, nhưng sự độc đáo của nó lại ở chỗ hầu như mọi loại hình giải trí khác đều có thể là nội dung phản ánh và miêu tả, nhiều khi gần như được tái hiện nguyên vẹn trong mạch kể chuyện của Rakugoka (nghệ sĩ biểu diễn Rakugo). Điều này có lẽ không thể có đối với một hình thức giải trí. Rakugo có cách thể hiện riêng của mình, vừa hài hước lại vừa chân thực.
Hai mảng chuyện khá lớn được thể hiện trong Rakugo là Shibai-banashi (các câu chuyện kịch nghệ) và Kuruwa-banashi (các câu chuyện kỹ viện). Các câu chuyện về những loại hình văn hóa giải trí phổ biến trong đời sống thị dân nói chung chiếm một vị trí không nhỏ ở Rakugo. Sự phản ánh phong phú về các loại hình văn hóa giải trí trong Rakugo càng chứng tỏ yếu tố thị dân đậm nét của loại hình nghệ thuật này.
Không mặn mà gì với kịch noh hay hài kịch kyogen của văn hóa võ sĩ, thị dân dành mối quan tâm đặc biệt tới kịch nghệ kabuki và joruri.
Do lo sợ hoả hoạn, đồng thời cũng là một chính sách về văn hóa của Mạc Phủ mà ở Edo sau cuộc cải cách Tenpo (1845), các sân khấu kabuki đã được dời từ các khu Sakai-cho, Fukiya-cho… về Sarukawa-cho (Asakusa). Từ đó trở đi, Sarukawa-cho nổi tiếng là trung tâm sầm uất nhất của kịch nghệ kabuki. Những sân khấu kabuki lộng lẫy cùng những thăng trầm của kịch nghệ thường được các Rakugoka khai thác trong các makura (2) mở đầu một câu chuyện Shibai-banashi.
Rakugo đã mô tả sự ham mê kịch nghệ của không ít thị dân ở Edo như wakadanna (cậu chủ) trong truyện Shichi danme (Đoạn trích thứ bảy). Wakadanna say mê kabuki đến mức làm gì hay nói gì cũng đều bắt chước trong các vở diễn. Không những thế, kozo (thằng nhỏ) cũng ham mê không thua kém gì ông chủ. Mặc cho mọi người nhắc nhở vì sự ồn ào, chủ thì đóng vai võ sĩ, tay lăm lăm thanh kiếm, tớ thì diện bộ kimono và sắm vai cô gái, cả hai say sưa trong một đoạn trích của một vở diễn nổi tiếng thời bấy giờ. Những anh thợ thủ công trong khu thị dân nghèo như Hattan và Kumasan thì đi học một lớp dạy kịch nghệ nghiệp dư. Thế là, lúc nào có dịp là họ lại khoe rằng mình am hiểu kịch nghệ lắm. Cả đến khi gặp một con chó ngoài đường cũng dừng lại mà tự đắc đọc mấy lời thoại trong kịch. Bất ngờ, bị con chó cắn, anh ta thốt lên: “ối, con chó này, mày có trái tim của shibai!” Những người khác tuy không say mê đến vậy, nhưng trong các câu chuyện của họ, kabuki vẫn xuất hiện rất tự nhiên. “Thằng con trai nhà anh và con bé nhà bán quần áo cũ mà yêu nhau mất rồi, thì chắc chắn chúng sẽ đòi cưới. Bố mẹ mà không chấp thuận thì thể nào chúng cũng rủ nhau cùng tự tử (shinju – một kiểu thể hiện tình yêu khá điển hình trong kabuki) như trong kabuki mà thôi!”. Đó là những suy diễn buồn cười mà ooya (người cho thuê nhà) lắm lời (trong truyện Kogoto Kobee, Ông Kobee lắm lời) đã nói với người thợ may đến thuê nhà.
Trong số thị dân thì khán giả nhiệt thành hơn cả đối với kabuki là phụ nữ, đặc biệt là các cô gái trẻ. Câu chuyện Imado yaki (Món nướng ở Imado) đã bắt đầu bằng makura (chú giải về cấu tạo và vai trò của các bộ phận của 1 câu chuyện) hài hước như thế này: “Nếu như thú vui của đàn ông là uống (rượu), đánh (bạc và xổ số) và mua (kỹ nữ), thì đối với phụ nữ, đầu tiên hẳn phải là shibai, sau đó đến món khoai (imo), món konnyaku và cuối cùng là món bí ngô (tonasu). Chẳng tốn kém là mấy nhỉ…!?”. Mặt khác, Yanagiya Kosen, một Rakugo bậc thầy, đã mô tả vừa chân thực lại vừa hài hước về tâm trạng của các cô gái trẻ trước mỗi buổi biểu diễn kabuki bằng makura: “Các cô con gái mà chuẩn bị đến sàn diễn shimura-za (một trong ba loại sàn diễn chính ở Edo), thì ngày hôm trước đã lo lắng, ầm ĩ hết cả lên. Nào là mời người thợ làm đầu đến để vấn tóc, rồi thì dành hàng giờ đánh bóng mình trong nhà tắm. Đến lúc đi ngủ thì cũng chẳng thể ngủ được. Đã mất công vấn được cái đầu đẹp như thế mà làm hỏng mất thì sáng mai làm sao có thể để diễn viên nhìn thấy mình được (lưu ý rằng các diễn viên kabuki đều là nam giới). Như thế thì xấu hổ biết chừng nào…!”
Câu chuyện Yodo goro đã vẽ lên khung cảnh một nhà hát kabuki với sân khấu đẹp, rực rỡ và không gian chật kín khán giả. Khán giả đến xem kịch nghệ có thể ngồi, nằm ngả ngốn và xem tùy thích. Trong shibai có đủ mọi dịch vụ cho các nhu cầu của khán giả: cơm hộp (bento) hai bữa trưa và tối, bánh kẹo (kashi), rượu và đồ nhắm (sake và sakana)… Ngoài ra, tùy thuộc vào khả năng tài chính của mình mà khán giả phải ngồi xem trên sàn đất (doma) hay được ngồi đệm (shikimono). Riêng các khách thượng lưu được phục vụ đặc biệt ở quán trà (shibai chaya). Với một nghìn ryo thì một ngày ở shibai quả là một sự tốn kém.
Với những ai không có tiền cũng như không thể dành cả một ngày, thì cũng có thể giống như thằng bé học việc (sakadachi) trong truyện Yondanme (Đoạn trích thứ tư) chỉ toàn chen vào trong đám đông mà ngó xem. Còn anh chàng thích kabuki trong Nameru (Nịnh hót) lại có một cách làm khôn ngoan khác. vì không có tiền nên ngày nào anh ta cũng chỉ được đứng xem trong đám đông chật ních những khán giả. Lần này, anh ta quyết định chắt chiu một ít tiền nhờ người phục vụ tìm cho một chỗ ngồi. Tình cờ chỗ ngồi này lại ở ngay đằng sau hai cô gái trẻ rất hâm mộ diễn viên trên sân khấu. Họ không ngớt lời ca tụng. Thấy vậy, anh chàng ranh mãnh lập ra một kế hoạch tán dương người nghệ sĩ đó và cuối cùng anh ta được ăn uống no say mà không phải mất tiền.
Rõ ràng là việc thưởng thức kịch nghệ không chỉ đơn thuần là đến và ngồi xem kịch. Đó là dịp để thị dân tiêu tiền, trưng diện, phô trương và giao tiếp.
Sau kabuki, joruri cũng được thị dân vô cùng hâm mộ. Lần này, ham thích hơn cả lại là các ông chủ, bởi vậy joruri được gọi là “Danna no gei” (nghệ thuật của các ông chủ). Danna trong truyện Nedoko (Giường ngủ) quá say mê và lại còn tự mãn về khả năng diễn joruri của mình đến mức hào hứng chuẩn bị một buổi biểu diễn và mặc cho mọi người trong nagaya (khu nhà các thị dân thuê của danna để ở và kinh doanh nhỏ) viện đủ mọi lý do để từ chối, ông ta nổi giận và bắt mọi người phải đến xem. Thế là, danna cứ một mình say sưa diễn mà không hề biết ở dưới mọi người sau một hồi đánh chén no say đã lăn ra ngủ từ lúc nào. Trong câu chuyện, Rakugoka đã hóa thân vào một diễn viên joruri nghiệp dư và trình diễn những màn kịch hát sống động.
Như đã thấy qua các câu chuyện Rakugo, kịch nghệ ở nhiều khía cạnh quả có một ảnh hưởng mạnh mẽ và phản ánh nhiều nét về đời sống vật chất tinh thần của mọi tầng lớp thị dân Edo. ở Rakugo, sự hâm mộ của thị dân dành cho kịch nghệ được mô tả có phần cường điệu thậm chí cực đoan, nhưng phải chăng đó cũng chính là một đặc điểm, một tính cách rất thị dân. Khác với giải trí của văn hóa quý tộc hay võ sĩ luôn chứa đựng tính giáo lý, khiên cưỡng, văn hóa thị dân không chuẩn mực, dè chừng mà tự nhiên, cảm tính. Và dường như tiêu chí duy nhất để thưởng thức nghệ thuật đối với họ chính là đam mê, yêu thích hết mình.
Bên cạnh kịch nghệ, kỹ viện cũng là một loại hình nghệ thuật tiêu biểu cho văn hóa thị dân. Nhìn từ góc độ của xã hội võ sĩ thì đây là một trong những “văn hóa xấu” và ngay đối với ngày nay, nó có thể được coi là một tệ nạn xã hội. Nhưng như đã từng trình bày, văn hóa thị dân là một loại hình văn hóa đặc biệt mang tính bản năng và thiên về những lạc thú tự nhiên của con người. Đề tài này được khai thác nhiều và chiếm một vị trí quan trọng trong các câu chuyện Rakugo.
Thời Edo chứng kiến sự nở rộ của giải trí kỹ viện. Sự phát triển này đã đi ngược với những truyền thống thuần khiết của giới võ sĩ khiến Mạc Phủ đã không ít lần ngăn cấm quyết liệt. Vụ cháy lớn vào thời Meiriki (1657) đã khiến tất cả khu yoshiwara bị thiêu trụi. Nhưng với nhu cầu không thể thiếu được, một trung tâm khác đã mọc lên thay thế ở ngay sau chùa Sensoji (Asakusa)(!)(3) và được gọi là Shin-yoshiwara (Yoshiwara mới). ở đây, văn hóa này đã hồi sinh và phát triển hơn bao giờ hết. ở Edo, nếu như Yoshiwara là trung tâm kỹ viện thượng lưu nổi tiếng nhất thì Iro-machi (hay còn được gọi là Okabasho trong tiếng Edo) lại rất phổ biến trong tầng lớp bình dân. Hầu như ở mỗi khu phố đều có những kỹ viện kiểu như thế này với những cái tên đã trở nên nổi tiếng như khu Fukagawa hay Shishuku (bốn trạm ở quanh Edo là Shinagawa, Shinjuku, Itabashi và Senju). Đó cũng là những không gian phổ biến của nhiều câu chuyện.
Khác với chính quyền, thị dân từ lâu đã coi kỹ viện là một nhu cầu sinh hoạt đương nhiên, bình thường của họ. Nó được công khai thừa nhận tới mức, trong nhiều câu chuyện mà điển hình là Nishiki no kesa (Bộ cà sa lụa lóng lánh), người vợ hối hả sửa soạn quần áo và các đồ dùng cho chồng đêm đó đi chơi ở Yoshiwara. Hơn thế nữa, thường thấy trong các câu chuyện, thị dân đến đâythành các phường hội thương nhân (shonin nakama) hay phường thủ công (shokunin renchu). Nishiki no kesa vẽ lên một bức tranh châm biếm về cảnh các thương nhân tranh nhau xem ai được lọt vào mắt của người đẹp cao cấp nhất của kỹ viện (oiran). Để được vậy, từ nhà, họ đã háo hức sửa soạn những cái khố hấp dẫn nhất. Anh chàng Yotaro thì nghe vợ sang mượn bộ cà sa lóng lánh của nhà sư. Cuối cùng, anh chàng ngờ nghệch lại trở thành “đức ông” trong mắt các cô gái. Ngoài ra, Rakugo còn mô tả một tập quán kỹ viện của Edo khác biệt với các nơi khác. Đó là việc trong một đêm, một kỹ nữ được tiếp lần lượt nhiều khách. Và cứ như thế, các vị khách cứ tụ tập thành một hội, chuyện trò huyên náo trong lúc chờ đợi đến lượt của mình (truyện Gonin mawashi, Lần lượt năm người).
Nam giới được tự do ra vào kỹ viện nhưng đối với phụ nữ thì gần như có một loại giấy thông hành nhằm đề phòng sự chạy trốn của các cô gái. Mặt khác, giống như trong nhiều vở kabuki hay joruri, Rakugo cũng đề cập đến một hiện tượng thời bấy giờ. Đó là việc nhiều khách làng chơi khi đã quá gắn bó với các cô gái mà không thể chuộc họ ra được thì cả hai rủ nhau cùng tự tử. Hành động cùng tự tử ở đây được coi là một sự gột rửa những tội lỗi ở kiếp trước để mãi mãi được sống bên nhau (4) và là một biểu hiện cao đẹp của tình yêu. Câu chuyện Shinagawa shinju (Cùng tự tử vì tình yêu ở Shinagawa) kể về một kỹ nữ rất được ưa chuộng ở Shinagawa. Nhưng cùng với tuổi tác, cô gái không còn được hâm mộ nữa mà cũng không có người khách nào có ý định chuộc cô ra. Buồn chán định tự tử, cô ta chợt nghĩ nếu tự tử một mình thì sẽ bị mang tiếng là không còn có giá nữa và đó là một sự xúc phạm lớn. Thế là, cô gái quyết tâm đi tìm người cùng tự tử. Cuối cùng, cô cũng tìm được một người vừa ý, đó là một anh chàng cho thuê sách hiền lành. Và cô gái đã ra sức vẽ ra trước mắt anh ta một viễn cảnh đẹp đẽ trên thiên đường nơi hai người cùng sống hạnh phúc. Họ đã lên kế hoạch rất chu đáo nhưng may thay, cuối cùng cả hai người đều không chết. Các câu chuyện đã phản ánh chân thực cuộc sống hưởng thụ thực dụng của xã hội thị dân. Nhưng bên cạnh đó, ta vẫn thấy chúng toát lên những biểu hiện tinh tế, sâu sắc về tình người.
Ngoài kịch nghệ và kỹ viện, nhiều thú giải trí phổ biến khác của giới thị dân cũng được phần nào mô tả trong nhiều câu chuyện.
Người Nhật là một dân tộc thích tắm bồn và có tập quán tắm khá độc đáo. Nhưng ở thời Edo, trong các gia đình đều không có bồn tắm, bởi vậy hàng ngày họ phải ra nhà tắm công cộng (yuya). Không đơn thuần là nhà tắm, yuya đã trở thành nơi giao tiếp công cộng rất được ưa chuộng của thị dân và cũng luôn là một không gian hài hước trong thế giới Rakugo. Câu chuyện Yuyaban vẽ lên khung cảnh nhộn nhịp của một yuya. Bên nhà tắm nam, người thì tắm, người lại say sưa với ván cờ vây, người uống trà, kẻ hút thuốc… Trong khi đó, wakadanna trong câu chuyện lại được thuê làm người trông coi nhà tắm. Nhưng vốn là một cậu chủ lười nhác nên bỏ băc những người khách, anh ta chỉ biết ngóng sang bên nhà tắm nữ mà mơ mộng. Thế là, một loạt tình huống dở khóc dở cười đã xảy ra. Khách tưởng hòn đá là xà phòng nên chà xước hết cả mặt, rồi họ ầm ĩ cả lên vì nhầm dép của nhau…
Phổ biến không kém gì các nhà tắm công cộng, tiệm cắt tóc cũng được coi là một nơi giao tiếp ưa thích của thị dân. Tiệm cắt tóc trong câu chuyện Ukiyodoko trở thành nơi tụ tập của nhiều anh chàng thị dân. Lúc chờ đợi đến lượt mình, chỗ này mấy người chơi cờ vây, chỗ khác lại có người đọc sách báo ầm ĩ đến mức đánh thức một anh chàng đang nằm ngủ còng queo. Tỉnh ngủ, anh chàng này bắt đầu say sưa kể chuyện tình cờ gặp một cô gái trong quán trà shibai chaya ở một buổi diễn kịch nghệ. Nhưng rốt cuộc, đó lại là một giấc mơ… Ngoài những tiệm cắt tóc cố định, người ta còn nghe tiếng rao của những người đi rong, Nếu như trước đây, phụ nữ thường phải tự vấn tóc thì từ giữa thời Edo dịch vụ này đã trở nên rất phổ biến trong giới nữ. Như đã thấy trong các câu chuyện về kịch nghệ, những người phụ náo nức chuẩn bị đầu tóc như thế nào trước mỗi buổi diễn.
Bên cạnh những nhà tắm công cộng và tiệm cắt tóc, những điểm chơi xổ số cũng là một không gian giải trí rất phổ biến trong giới thị dân, đặc biệt trong thời Genroku (như người ta thường nói: một trong ba thú vui lớn nhất của nam giới là “đánh số”). Hơn thế nữa, được sự bảo trợ của các đền chùa lớn nhằm mục đích kiến thiết và lại có những giải thưởng lớn nên mặc dù nhiều lúc đã bị chính quyền ngăn cấm quyết liệt, xổ số vẫn ngày càng thịnh hành với ba điểm chơi lớn ở đền Yujima Tenjin, chùa Taninaka Kannoji và chùa Meguro Fudoji ngay trong trung tâm Edo. Từ đây, thú giải trí này đã mở rộng ra các khu vực khác (5).
Nhân vật Kyu trong truyện Tomikyu (Anh chàng Kyu chơi xổ số) là một thị dân nghèo nhưng luôn mơ trở nên giàu có nhờ trúng xổ số. Mỗi lần mua xổ số từ chùa Sensoji (Asakusa) trở về, anh ta lại dâng tấm vé số lên bàn thờ và thả hồn vào giấc mơ của mình. Còn câu chuyện Yadoya no tomi (Chơi xổ số ở quán trọ) kể về một anh chàng nghèo đến ở trọ nhưng lại cố tỏ ra mình giàu có lắm. Thế là, nghe người chủ nhà dỗ ngon dỗ ngọt, anh ta đành phải mua một tấm vé số bằng một bu còn lại của mình nhưng vẫn huênh hoang nếu trúng giải nhất chắc chắn sẽ chia đôi một nghìn ryo (6) cho chủ nhà. Anh chàng nghèo không mê xổ số nhưng cũng không giấu nổi vẻ hồi hộp khi đến xem kết quả. Nơi này rộng rãi mà đông kín thị dân đang háo hức mong đợi. Cuối cùng điều không thể ngờ được là anh ta lại thấy mình trúng thật.
Như ta đã thấy, thị dân không hẳn đã hoàn toàn quay lưng lại với những thú giải trí của võ sĩ. Ngược lại, việc học đòi lối sống và văn hóa của đẳng cấp trên cũng là một trào lưu trong đời sống của những thị dân có tiền. Trong Rakugo, không hiếm những câu chuyện như kiểu Cha no yu (hay còn gọi là Shiroto sado, Trà đạo không chuyên) trong đó thể hiện một cách châm biếm sự thất bại của những thị dân có tiền trong việc học đòi những kiểu giải trí của giới võ sĩ.
Một thương nhân thời trẻ lúc nào cũng chỉ biết làm việc hết mình, đến khi về già mệt mỏi, rút lui khỏi công việc và muốn tìm một thú vui để giải trí. Cuối cùng, ông ta nghĩ đến học trà đạo nhưng lại ngại theo lớp của thầy nên quyết định lấy thằng nhỏ làm người giúp luyện tập. Sau đó, tuy vẫn không hiểu biết gì về các quy tắc, ông ta cũng mở một trà thất và mời mọi người đến thưởng thức. Bánh ăn cùng với trà thì mua còn trà thì do ông tự pha. Nhưng mọi người chẳng ai bảo ai chỉ chăm chăm ăn bánh. Thấy mọi người thích ăn bánh như thế nên lần sau, ông ta quyết định mua trà về còn bánh thì tự mình làm. Nhưng lần này, lừa lúc ông không để ý, mọi người thi nhau ném bánh qua cửa sổ sang một thửa ruộng nhỏ bên cạnh. Người nông dân đứng trên thửa ruộng phàn nàn: “Lại trà đạo nữa à ?!” Hóa ra, người nông dân đã chẳng còn lạ gì những chuyện như thế này nữa.
Bằng sự chân thực và hài hước, văn hóa giải trí quả là một góc biểu hiện sống động và độc đáo yếu tố thị dân trong nghệ thuật kể chuyện Rakugo.
Một chùm các câu chuyện Rakugo được Rakugoka kể lại bằng một diễn xuất điêu luyện, thông minh và hóm hỉnh, có thể trở thành một trường thiên hấp dẫn và sinh động về từng chi tiết đời sống văn hóa tinh thần của các tầng lớp thị dân ở Edo. Rakugo không miêu tả sự vật một cách cụ thể mà gợi lên cái không khí, cái thần thái của sự vật bằng ngôn ngữ, diễn xuất và cảm hứng của Rakugoka và được cảm nhận qua cách tiếp cận và thưởng thức của thị dân. Rakugoka có thể diễn liên tục hàng buổi trước đông đảo khán giả theo dõi khi hào hứng, khi trầm mặc cùng với người nghệ sĩ. Nghe và xem Rakugo tưởng như đang đứng trước một hoạt cảnh đồ sộ cả về không gian, thời gian và con người thời Edo. Bởi vậy, ngày nay, với quan điểm nghiên cứu toàn diện, có thể khẳng định Rakugo là một trong những nguồn sử liệu phong phú về cuộc sống thị dân, đặc biệt là bình dân ở Edo (7).
Với sự đặc sắc và vai trò phản ánh như vậy, Rakugo đang ngày càng cuốn hút khán giả, đặc biệt là giới trẻ, và dần trở thành đối tượng tìm hiểu, nghiên cứu sâu sắc trong và ngoài nước.
Nguồn: Tạp chí văn hóa nghệ thuật
CHÚ THÍCH
1. G. Sansom, Lược sử văn hóa Nhật Bản, tập 2, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1989, tr.238.
2. Makura có thể hiểu là Khúc nhập đề, là một trong ba bộ phận quan trọng làm nên cơ cấu của một câu chuyện Rakugo (makura, honbun - nội dung chính của câu chuyện, ochi - kết thúc bất ngờ, hài hước). Makura là một câu chuyện hài hước nhỏ có tính dẫn dắt tới nội dung chính của toàn truyện và thường đem đến những hình dung chân thực và sinh động về bối cảnh xã hội đương thời. Các thông tin chứa đựng ở makura nhiều khi còn vô cùng xác thực về thời gian, địa điểm…
3. Đối với cư dân Nhật Bản, đền chùa được coi là thánh địa của tâm linh. Asakusa với chùa Sensoji là một khu chùa nổi tiếng vào bậc nhất ở Edo thời bấy giờ. Nhưng việc ngay gần một nơi linh thiêng đến vậy lại hiện diện một khu giải trí trác táng có thể cho thấy một triết lý sống của giới thị dân: Niềm tin thiêng liêng đối với thánh thần vẫn có thể đồng hành với những nhu cầu, lạc thú tự nhiên, trần thế.
4. Nguyễn Văn Kim, Nhật Bản và châu á - những mỗi liên hệ lịch sử và chuyển biến kinh tế - xã hội, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2003, tr.439-440.
5. Trung tâm nghiên cứu văn hóa du lịch Nhật Bản, Văn hóa “xấu” của Edo nhìn từ Rakugo, Nxb Kawade, Tokyo, 2001, tr. 66.
6. Ryo là loại tiền vàng thường chỉ được dùng trong đẳng cấp võ sĩ. Với sự lớn mạnh về kinh tế của giới thương nhân, ryo đã dần trở thành loại tiền tệ phổ biến. 1 ryo tương đương với 4000 mon - 1 loại tiền thông dụng dành cho các tầng lớp bình dân. 1 bu tương đương với 1000 mon. Tuy nhiên, với giá trị sử dụng lớn so với bu, đặc biệt là với mon (nếu so sánh việc một bát mỳ của thị dân bình thường có giá 16 mon với món tiền thưởng trúng xổ số là 1000 ryo, có thể phần nào thấy sự chênh lệch trong mức sống của các tầng lớp thị dân lớn đến mức nào!) nên ryo hầu như chỉ được dùng trong giới thương nhân giàu có.
7. Trung tâm nghiên cứu văn hóa du lịch Nhật Bản, Văn hóa ăn uống của Edo nhìn từ Rakugo, Nxb Kawade, Tokyo, 2000, tr.210.