Quá trình hình thành và phát triển thể thơ phần nào phản ánh môi trường vun đắp cho quá trình đó, vì môi trường sống chứa các điều kiện tự nhiên và xã hội ảnh hưởng đến sức sáng tạo của con người. Bài viết tìm hiểu thể thơ Trung Quốc ở khía cạnh vùng phân bố (khu vực manh nha ra đời và phát triển), để bước đầu thấy được tính chất của môi trường hoạt động văn nghệ trên hai miền Nam Bắc Trung Quốc.
1. Thể thơ nảy mầm ở miền Bắc
Thơ ca thời nguyên thủy chủ yếu là hình thức nhị ngôn (hai chữ), ngoài ra câu ba, bốn, năm chữ đều có, sau đó, thơ thể tứ ngôn được xác lập. Thơ thể tứ ngôn hoàn chỉnh hầu như tập trung trong bộ thơ ca sưu tập sớm nhất đó là Thi kinh 诗经, nên còn gọi là “thể tứ ngôn Thi Kinh”.
Bộ tổng tập thơ ca sớm nhất này còn lại đến nay là 305 bài, ngoài ra còn có 6 bài sênh ca có thanh mà không có lời. Thời gian thu thập khoảng 500 năm, từ đầu Tây Chu đến giữa Xuân Thu. Tương truyền thời Chu, Thái sử mỗi năm vào tháng giêng đi khắp nơi thu thập thơ. Về tên gọi, Thi Kinh thời Tiên Tần gọi là “Thi” hay “Thi tam bách”, Nho gia đời Hán tôn làm kinh điển, gọi là Thi kinh.
Về khu vực của Thi kinh, bối cảnh thời đại của Thi kinh là lấy Chu làm trung tâm, vùng thu thập Thi kinh cũng là những vùng di chuyển của dân tộc Chu. Dân tộc Chu định cư về hướng vùng Tất thủy, Vị Thủy, sau di chuyển đến Mân (ba địa danh này nay đều thuộc Thiểm Tây). Sau khi Văn Vương thay nhà Thương, địa vực dần được mở rộng, đến thời Bình Vương, dời đô đến Lạc Dương. Trong Quốc Phong (một phần trong Thi Kinh) đề cập đến mười lăm nước, trừ Chu Nam và Triệu Nam (nằm về phía nam Hoàng Hà, cũng chưa tới Dương Tử) ra, mười ba nước kia là: Bội, Dung, Vệ, Vương, Trịnh, Tề, Ngụy, Đường, Tần, Trần, Cối, Tào, Mân đều ở vùng sông Hoàng Hà[1] [4:24]. Đủ để thấy rằng Thi kinh là sản phẩm của vùng từ Hoàng Hà lên bắc, được xem là đại diện cho văn hóa Trung Nguyên đương thời.
Cùng với sự phát triển của ngôn ngữ, trên cơ sở hình thành bốn thanh của Hán ngữ, Thẩm Ước đề xướng vận dụng nghiên cứu âm vận tứ thanh vào sáng tác thơ ca, thanh luật thơ ca được chú ý hơn và ngày càng được quy chuẩn chặt chẽ hơn. Từ đó, “cận thể thi” hay “luật thi” ra đời vào thời Sơ Đường. Hai nhân vật được xem là mở đường cho “luật thi” đó là Thẩm Thuyên Kỳ và Tống Chi Vấn. Thơ ca của họ được cho là đánh dấu sự định hình của thơ luật ngũ ngôn và thất ngôn đời Sơ Đường. Thẩm Thuyên Kỳ người Tương Châu, nay thuộc Hà Nam, Tống Chi Vấn người Phần Châu, nay thuộc Sơn Tây, cũng có sách nói ông là người Quắc Châu (nay thuộc Hà Nam). Hai tác giả này cũng một thời ảnh hưởng lớn trên thi đàn miền Bắc Trung Quốc, được biết đến với tư cách là một trường phái mang tên Thẩm Tống. Như vậy, “luật thi” được thành thục với công lao của hai thi nhân miền Bắc Trung Quốc.
Sau từ là khúc. “Khúc” vốn có nghĩa là nhạc khúc, từ của lĩnh vực âm nhạc. Thời Kim, Nguyên, nhạc khúc các dân tộc du mục (Nữ Chân, Mông Cổ) mạnh mẽ, phóng khoáng, gây hứng thú đối với tộc Hán miền Bắc, và được vùng Hoàng Hà tiếp nhận ngay, nhanh chóng hòa cùng các lý khúc dân gian vùng Hoàng Hà, rồi được phối thơ tạo nên loại thơ ca mới, trong lịch sử văn học Trung Quốc gọi là “khúc”. Từ “khúc” ở đây như là một từ chuyên trong lĩnh vực thơ ca chỉ một thể loại. Ra đời vào thời Nguyên, nên còn được gọi là “Nguyên khúc” và ra đời ở miền Bắc Trung Quốc, dùng âm nhạc miền Bắc phối thơ nên còn được gọi là “Bắc khúc”. Ngoài ra còn được gọi là “thi dư” vì ra đời sau Đường thi, và “từ dư” vì ra đời sau từ.
Những ca khúc thường được nhắc đến cùng nơi sinh sống của chúng như vùng Đông Bình (nay thuộc Sơn Đông) hát Mộc Lan hoa mạn, vùng Đại Danh (nay thuộc Hà Bắc) hát Mạc ngư tử, vùng Nam Kinh (Khai Phong) hát Sinh tra tử, vùng Thiểm Tây hát Dương quan tam điệp, v.v, càng chứng minh khúc thời gian đầu ra đời và lưu truyền ở các nơi khác nhau thuộc miền Bắc Trung Quốc. Thời gian sau, khúc hấp thu thành tựu của từ. Chử Bân Kiệt dẫn lời của Vương Thế Trinh nhận xét sự ra đời của từ và khúc, cùng các thể loại khác như sau “Sau khi ba trăm bài (Thi kinh) đi vào dĩ vãng thì có tao phú xuất hiện, tao phú khó phối nhạc nên có cổ Nhạc phủ xuất hiện, cổ Nhạc phủ không nhập thế nên có Đường tuyệt cú thay thế, tuyệt cú thiếu uyển chuyển nên có từ ra đời, từ không làm sướng tai người miền Bắc nên có Bắc khúc ra đời, Bắc khúc không lọt được tai người miền Nam nên có Nam khúc ra đời” [1:313].
2. Thể thơ nảy mầm ở miền Nam
Ở đất Sở miền Nam xuất hiện một thể thơ, đó là Sở từ 楚辞. Sở từ tuy ra đời vào thời Chiến Quốc, nhưng tên gọi Sở từ xuất hiện sau đó, sớm nhất là vào đời Hán. Thời Hán Thành đế, Lưu Hướng chỉnh lý văn hiến cổ, đem những tác phẩm của Khuất Nguyên, Tống Ngọc và những tác phẩm của người đời Hán viết bắt chước loại thể tài này, tập hợp lại thành tập gọi là Sở từ, từ đó tác phẩm Sở từ và tên gọi của nó được lưu truyền đến nay [1:53]. Như vậy, Sở từ gồm tác phẩm của rất nhiều người sáng tác trong giai đoạn từ trước Hán đến Hán, trong đó có giá trị nhất là các tác phẩm của Khuất Nguyên và Tống Ngọc. Những tác phẩm của Khuất Nguyên, sau là Tống Ngọc về các mặt kết cấu, ngôn ngữ, hình thức câu, phong cách, v.v. đều có đặc điểm riêng khác với thể thơ trước đây, trở thành mô phạm điển hình, với ý nghĩa đó, Sở từ mang tư cách là một thể thơ trong lịch sử thơ ca Trung Quốc. Những tác phẩm mà Chử Bân Kiệt đề cập ở trên gọi là “tác phẩm thể Sở từ”.
Thời Xuân Thu Chiến Quốc, Sở là một nước lớn ở miền Nam, chiếm cả vùng lưu vực Hoài Hà và Dương Tử. Nước Sở bảo lưu được truyền thống văn hóa riêng, các phương diện tôn giáo, phong tục, thơ ca, nhạc vũ đều phát triển và mang đặc sắc riêng của một dân tộc phương Nam.
Sở từ tức là ca từ của đất Sở. Nó được nảy nở trên văn hóa đất Sở. Nó chịu ảnh hưởng trực tiếp của văn học dân gian đất Sở, đó là Sở Thanh và Sở ca. Thanh 声 là khúc điệu, ca 歌là hát truyền miệng, từ 辞 là dùng văn tự viết ra. Thời Xuân Thu, dân ca và âm nhạc nước Sở được gọi là “Nam phong” và “Nam âm”. Mãi đến giao thời giữa Sở và Hán, và cả đến đời Hán, Sở ca vẫn còn lưu hành. Trong Sử ký – Hạng Võ bản kỷ có viết “đêm nghe quân Hán bốn bề đều hát Sở ca” (Tư Mã Thiên (Hán): Sử ký – Hạng Võ bản kỷ). Thanh điệu của ca khúc đất Sở như thế nào ngày nay khó mà biết được, “trong một số sách vở thời Tiên Tần để lại, lời của các bài Sở ca có sự khác biệt lớn so với dân ca vùng Trung Nguyên về cả hình thức và nhạc điệu” [1:56]. Sở từ còn chịu ảnh hưởng bởi “vu ca”. Đó là những ca khúc tế tự lưu hành trong dân gian. Trong tác phẩm Khuất Nguyên hiện còn, Cửu ca được viết trên cơ sở nhạc tế thần dân gian, Chiêu hồn cũng sáng tác dựa trên cách viết của lời chiêu hồn dân gian. Tóm lại, Sở từ là sản phẩm đại diện cho văn hoá miền Nam.
Văn thể phát triển mạnh suốt hơn 400 năm đời Hán là phú 赋, nên thường được gọi là Hán phú. Có giả thiết cho rằng, phú bắt nguồn từ Thi kinh, vì trong Thi kinh có ba cách viết là phú, tỉ và hứng. Tuy nhiên rất nhiều người đã bác bỏ giả thiết này, cho rằng có thể đó chỉ là trùng tên thôi. Trong Thi kinh thì phú là phương pháp sáng tác, còn phú với tư cách là một thể loại thơ thì hoàn toàn khác. Hơn nữa, Chử Bân Kiệt cho rằng “dùng phú tỉ hứng để nói thơ là kiến giải bắt đầu từ người đời Hán, phú với tư cách là văn thể đã ra đời từ cuối thời Chiến Quốc” [1:69]. Lại có một số tư liệu cho rằng, tác phẩm lấy tên phú sớm nhất là Tuân phú 荀赋 của Tuân Huống thời Chiến Quốc. Theo chúng tôi, điều này cũng chưa hẳn đã đúng, không phải cứ hễ thấy tên bài thơ nào có chữ “phú” thì cho rằng đó là bài phú xuất hiện sớm nhất. Chử Bân Kiệt khi viết về thể phú tuy nêu ra điều này, nhưng ông đánh giá tác phẩm của Tuân Huống “có khoảng cách rất xa với Hán phú đời sau”.
Điều mà các quyển lịch sử thơ ca Trung Quốc đều công nhận là phú phát triển từ miền Nam Trung Quốc, chịu ảnh hưởng mạnh của Sở Từ. Phú trải qua ba giai đoạn: Tao thể phú, tản thể đại phú và trữ tình tiểu phú. “Tao” chính là Ly tao, có thể thấy phú giai đoạn đó còn mang nặng dáng vấp của Sở Từ. Có lúc còn dùng chung một từ là “từ phú”, cho thấy có khi không phân biệt giữa Sở từ và phú. Các sách thường coi người sáng lập ra phú là Tống Ngọc, đồng thời còn nhắc đến một số người khác như Tuân Khanh, Cảnh Sai, Đường Lặc, Giả Nghị. Họ đều là những nhà làm “từ” giỏi người nước Sở. Trung Quốc văn học sử nhiều lần khẳng định “Từ thể tao do Khuất Nguyên sáng tạo ra, Tống Ngọc đã biến hóa, sáng tác ra thể phú”, “Từ phú nguyên là một hình thức văn học của nước Sở ở phương Nam thời Chiến Quốc” [3:125,135]. Nhà văn ưu tú của Tao thể phú là Giả Nghị, tác phẩm tiêu biểu là Điếu Khuất Nguyên phú, Bằng điểu phú, nó phản ánh bước chuyển biến từ Sở từ sang phú [5:72]. Tư Mã Thiên cũng nói sau khi Khuất Nguyên chết, Sở có Tống Ngọc, Đường Lặc, Cảnh Sai, đều giỏi từ mà làm phú (Tư Mã Thiên (Hán): Sử ký – Khuất Nguyên liệt truyện). Chử Bân Kiệt nghiên cứu văn thể Trung Quốc cũng đúc kết: Những năm cuối Chiến Quốc, người phát triển văn học thể phú, mở đường cho Hán phú là Tống Ngọc người nước Sở. Ông là đệ tử của Khuất Nguyên, lại là nhà Sở từ xuất sắc, kế thừa nghệ thuật thơ ca của Khuất Nguyên, khi sáng tác thể phú tất nhiên phát huy nghệ thuật của Sở từ, hấp thu chất dinh dưỡng của Sở từ [1:72]. Tống Ngọc đem cái tài của nhà Sở từ mà làm phú, có thể thấy rằng, từ trong nghệ thuật thơ ca của nước Sở miền Nam mở ra con đường sáng tác một thể loại mới - phú. Mảnh đất văn hóa miền Nam tiếp tục vun bón cho thơ ca phát triển.
Cũng vào đời Hán, cùng với sự ra đời và phát triển của phú, thơ Nhạc phủ 乐府bước vào thi đàn. Về tên gọi, từ “Nhạc phủ” vốn là tên của cơ quan chuyên trông coi về âm nhạc đời Hán, tương truyền cơ quan này do Hán Vũ đế lập ra, nhưng người đời Hán chỉ gọi những bài thơ do cơ quan này thu thập và diễn xướng là “thơ ca”, đến thời Đông Tấn, Lục triều mới bắt đầu gọi những bài thơ ca này là “thơ Nhạc phủ”.
Hai tác giả Tưởng Bá Tiềm và Tưởng Tổ Di trong quyển Thi viết như sau: Sau Sở từ, văn nghệ miền Nam hưng thịnh lên, Sở ca dần dần thông hành. Dịch thủy ca trong Sử ký, Cai Hạ ca của Hạng Võ, và Đại phong ca của Hán Cao Tổ đều là điệu Sở. Tên “Nhạc phủ” bắt đầu từ thời Hán Vũ Đế. Tuy nhiên, sự xuất hiện của nó phải tính từ Đại phong ca của Lưu Bang [4:68]. Như vậy, cơ quan Nhạc phủ được lập từ Hán Vũ đế, tên gọi “Thơ nhạc phủ” thì được dùng từ Đông Tấn, thế nhưng sự xuất hiện của thơ Nhạc phủ được tính từ Đại phong ca của Lưu Bang mang điệu Sở. Lưu Bang là người miền Nam, vốn là dân nước Sở, Đại phong ca được viết theo điệu Sở là điều dễ hiểu.
Bắt đầu từ khi lập ra cơ quan Nhạc phủ, công tác thu thập dân ca được thực hiện trên quy mô lớn. Khu vực mà cơ quan Nhạc phủ thu thập thơ ca dân gian là không giới hạn, gồm cả vùng lưu vực Hoàng Hà và Dương Tử. Tuy nhiên, tác phẩm còn lại đến nay rất ít, khó khảo sát được. Thời Ngụy Tấn công tác này suy yếu, sang thời Nam Bắc Triều thì hưng thịnh trở lại. Giai đoạn hưng thịnh này chủ yếu thuộc về miền Nam, vì thời này miền Bắc Trung Quốc phần lớn nằm dưới sự thống trị của chính quyền các tộc du mục, số lượng thu thập thơ ca không nhiều. Đặc biệt những bài Nhạc phủ thu thập ở miền Bắc còn có tên gọi riêng, đó là “Bắc ca”, có lẽ để phân biệt với phong cách Nhạc phủ miền Nam. Quách Mậu Thiến người đời Tống thu thập và phân loại thơ ca nhạc phủ Nam Bắc triều, cho ra công trình Nhạc phủ thi tập. Hai loại Thanh thương khúc từ và Lương cổ giác hoành xuy khúc trong Nhạc phủ thi tập chính là bảo lưu hai dòng nhạc phủ Nam Bắc Trung Quốc thời Nam Bắc triều. Với hơn 400 bài loại Thanh thương khúc từ, được chia thành ba phần Ngô thanh ca, Thần huyền khúc và Tây khúc ca. Ngô thanh ca là dân ca vùng Giang Nam đương thời; Thần huyền khúc là ca khúc tế thần dân gian vùng Giang Nam, tính chất giống như Cửu ca trong Sở Từ; Tây khúc ca còn gọi là Canh Sở tây thanh là dân ca vùng Giang Hán.
Tóm lại, có thể nói họ Lưu người miền Nam đặt nền móng cho sự ra đời của dòng thơ Nhạc phủ, dòng thơ có vai trò đánh dấu một giai đoạn phát triển mới của thơ ca Trung Quốc sau Thi, Từ, Phú. Tuy khu vực thu thập thơ ca là trên cả nước từ Bắc xuống Nam, nhưng để lại cho hậu thế mạnh nhất về số lượng và phong cách ảnh hưởng chính là ở khu vực miền Nam.
Ngoài các loại Thi kinh, Sở từ, phú, nhạc phủ đã đề cập ở trên, thơ trước đời Đường còn có “cổ thể thi” 古体诗, gồm hai loại thơ ngũ ngôn và thơ thất ngôn. Gọi là cổ thể thi là vì có sự xuất hiện của cận thể thi 近体诗đời Đường. Theo khảo sát những nghiên cứu lịch sử văn học của Chử Bân Kiệt, ý kiến cho rằng thơ ngũ ngôn, thất ngôn có nguồn gốc từ Thi kinh là không nhiều, và không được chấp nhận. Ngược lại, đa số các công trình nghiên cứu đều công nhận thơ ngũ ngôn, thất ngôn được phát triển từ Sở từ hoặc từ ca dao dân gian Nhạc phủ. Thi kinh chủ yếu là thơ thể tứ ngôn hoàn chỉnh. Sở từ đã phá vở thể tứ ngôn của Thi kinh, và trong Sở từ bắt đầu xuất hiện các câu ngũ ngôn, thất ngôn, v.v.. Các bài Đại phong ca của Hán cao tổ Lưu Ban, Thu phong từ của Vũ Đế, v.v., nếu bỏ chữ “hề” ra, đều là thơ thất ngôn. Ngoài ra, còn một số dấu hiệu khác như, một số bài thơ thất ngôn hoàn chỉnh được cho là xuất hiện sớm nhất như bài Tứ sầu thi, trong bài thường thấy có chữ “hề”. Chữ “hề” là một đặc trưng của phong cách thơ Sở từ miền Nam. Trong dân ca Nhạc phủ thời Tây Hán đã xuất hiện nhiều câu hình thức ngũ ngôn, đến thời Đông Hán hàng loạt thơ ngũ ngôn ra đời, hình thức hoàn chỉnh, nghệ thuật ngôn từ thành thục. Như vậy, sự đột phá của Sở từ cũng là giai đoạn đầu quá độ đến ngũ ngôn, thất ngôn. Sau đó, thơ Nhạc phủ với thể tạp ngôn là giai đoạn quá độ thứ hai.
Đến sự ra đời của các tác phẩm cuối Hán nổi tiếng được biết đến với tên gọi Cổ thi thập cửu thủ (mười chín bài cổ thi), thơ ngũ ngôn đã xác lập được vị trí vững chắc. Cuối Hán, Ngụy Tấn, Lục triều là thời kỳ hưng thịnh của thơ ngũ ngôn.
Trong quá trình phát triển của thơ thất ngôn từ Ngụy Tấn đến Nam Bắc triều, nhà thơ lớn được đánh giá là đóng góp vào điểm xuất phát của bước phát triển đó là Bào Chiếu với nhiều tác phẩm thất ngôn đạt thành tựu cao, mở rộng ảnh hưởng của thơ thất ngôn. Bào Chiếu cũng là đại biểu quan trọng của trường phái Nguyên gia thể miền Nam Trung Quốc.
Manh nha từ đời Đường, phát triển vào đời Tống, từ 词 - một thể loại thơ mới -tiếp tục ra đời như một sự xoay vòng của chu kỳ phát triển, xoay vòng từ không luật đến luật và quay về không luật (gọi là “quay về”, ý nói thơ ca được gỡ bớt những trói buộc thái quá, chứ không phải quay về y như quá khứ). Từ có nhiều tên gọi. Thời Đường, Ngũ Đại, từ được gọi là khúc từ hay khúc tử từ; đời Tống được gọi là ca từ, tiểu ca từ, khúc, khúc tử, còn được gọi là cận thể Nhạc phủ, nhạc chương, trường đoản cú, thi dư. Dựa vào những tên gọi đó, có nhiều cách suy luận về sự xuất hiện của từ. Cho rằng từ sở dĩ có tên là “thi dư” là vì nó có nguồn gốc từ “cận thể thi” đời Đường. Có suy luận khác cho rằng từ có nguồn gốc từ thơ Nhạc phủ vì có tên “cận thể nhạc phủ”, gọi là cận thể Nhạc phủ là để phân biệt với Nhạc phủ đời trước (đời Hán Ngụy hoặc đời Nam bắc triều). Tuy nhiên, dựa vào đặc điểm thực tế của từ, cho rằng từ có nguồn gốc từ thơ cận thể đời Đường là không hợp lý, mà nói nó xuất phát từ Nhạc phủ thì hợp lý hơn. Thơ cận thể đời Đường quy luật chặt chẽ, từ thì được tháo gỡ bớt ràng buộc, lại còn có các câu dài ngắn khác nhau, nên mới gọi là “trường đoản cú”. Hơn nữa, từ cũng thuộc văn học âm nhạc, là thơ ca phối nhạc, gần giống với Nhạc phủ hơn. Trong Nhạc phủ Nam triều người ta cũng tìm thấy những bài ca thể từ gần giống như bài Giang Nam lộng.
Kết luận
Bức tranh thể loại thơ ca Trung Quốc trong lịch sử trải qua thể tứ ngôn Thi kinh, Sở từ, phú, nhạc phủ, cổ thể thi, cận thể thi, từ, khúc. Ngoài hai thể loại được xác định rõ khu vực sáng tác là thể tứ ngôn Thi kinh, Sở từ và khúc, các thể loại còn lại phát triển rộng rãi trên cả Trung Quốc. Tuy nhiên, dựa vào nguồn gốc xuất phát và phạm vi ảnh hưởng, hoàn toàn có thể nói rằng miền Nam Trung Quốc là mảnh đất “gây giống” cho hầu hết các thể loại thơ: Sở từ, phú, nhạc phủ, cổ thể thi (thơ ngũ ngôn, thơ thất ngôn), từ. Bức tranh thể loại thơ ca hai miền cho thấy miền Nam là mảnh đất phì nhiêu cho sự nẩy mầm những sáng tạo mới; miền Bắc là nơi định hình và đi vào quy củ.
Tài liệu tham khảo
- Chử Bân Kiệt 1990: Trung Quốc cổ đại văn thể khái luận. – Bắc Kinh: NXB Đại học Bắc Kinh, 514 tr. [褚斌杰 著:《中国古代文体概论》,北京,北京大学出版社,1990年]
- Dư Quan Anh, Tiền Chung Thư, Phạm Minh (cb) 1997: Lịch sử văn học Trung Quốc (tập 1) (Lê Huy Tiêu và nnk dịch) (tái bản lần thứ hai). – NXB Giáo dục, 700 tr.
- Dư Quan Anh, Tiền Chung Thư, Phạm Minh (cb) 1998: Lịch sử văn học Trung Quốc (tập 2) (Lê Huy Tiêu và nnk dịch) (tái bản lần thứ nhất). – NXB Giáo dục, 708 tr.
- Tưởng Bá Tiềm, Tưởng Tổ Di 1997: Thi. – Thượng Hải: NXB Thượng Hải Thư điếm, 227tr. [蒋伯潜,蒋祖怡 著:《诗》,上海书店出版社,1997年]
- Trần Đình Sử, Ông Văn Tùng (dịch) 2002a: Bách khoa toàn thư tuổi trẻ - Văn học nghệ thuật (phần 1). – HN: NXB Phụ nữ, 568 tr.
- Trần Đình Sử, Ông Văn Tùng (dịch) 2002b: Bách khoa toàn thư tuổi trẻ - Văn học nghệ thuật (phần 2). – HN: NXB Phụ nữ, 552 tr