logo

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
    • Thư ngỏ
    • Khái quát về Trung tâm
    • Nhân lực Trung tâm
      • Thành viên Trung tâm
      • Cộng tác viên
    • Giới thiệu Khoa Văn hóa học
      • Khái quát về Khoa
      • Nhân lực của Khoa
  • Tin tức
    • Tin nhà (Trung tâm)
    • Tin ngành
    • Tin liên quan
  • Đào tạo - Huấn luyện
    • Các chương trình
    • Tổ chức và Hiệu quả
    • Đào tạo ở Khoa VHH
      • Chương trình đào tạo
      • Kết quả đào tạo
  • Nghiên cứu
    • Lý luận văn hóa học
      • LLVHH: Những vấn đề chung
      • VHH: Phương pháp nghiên cứu
      • VHH: Các trường phái - trào lưu
      • Loại hình và phổ quát văn hóa
      • Các bình diện của văn hóa
      • Văn hóa học so sánh
      • Vũ trụ quan phương Đông
      • Văn hóa và phát triển
      • VHH và các khoa học giáp ranh
    • Văn hóa Việt Nam
      • VHVN: Những vấn đề chung
      • Văn hóa cổ-trung đại ở Viêt Nam
      • Văn hóa các dân tộc thiểu số
      • Văn hóa Nam Bộ
      • Văn hóa nhận thức
      • Văn hóa tổ chức đời sống tập thể
      • Văn hóa tổ chức đời sống cá nhân
      • Văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên
      • Văn hóa ứng xử với môi trường xã hội
    • Văn hóa thế giới
      • VH Phương Đông: Những vấn đề chung
      • VH Phương Tây: Những vấn đề chung
      • Quan hệ văn hóa Đông - Tây
      • Văn hóa Trung Hoa và Đông Bắc Á
      • Văn hóa Đông Nam Á
      • Văn hóa Nam Á và Tây Nam Á
      • Văn hóa châu Âu
      • Văn hóa châu Mỹ
      • Văn hóa châu Phi và châu Úc
    • Văn hóa học ứng dụng
      • VHƯD: Những vấn đề chung
      • VHH nghệ thuật
      • Văn hóa đại chúng
      • Văn hóa giao tiếp
      • Văn hóa du lịch
      • Văn hóa đô thị
      • Văn hóa kinh tế
      • Văn hóa quản trị
      • Văn hóa giáo dục - khoa học
    • Tài liệu phổ cập VHH
      • Văn hóa Việt Nam
      • Văn hóa thế giới
      • VHH ứng dụng
    • Tài liệu tiếng nước ngoài
      • Theory of Culturology
      • Vietnamese Culture
      • Applied Culturology
      • Other Cultures
      • 中文
      • Pусский язык
    • Thư Viện Số (Sách - Ảnh - Video)
      • Tủ sách Văn hoá học
      • Thư viện ảnh
      • Thư viện video
    • Các nhà văn hóa học nổi tiếng
  • Tiện ích
    • Dịch vụ Văn hóa học
    • Dịch vụ ngoài VHH
    • Trợ giúp vi tính
    • Từ điển Văn hóa học
    • Thư viện TT và Khoa
    • Tổng mục lục website
    • Tủ sách VHH Sài Gòn
    • Giải đáp thắc mắc
  • Thư giãn VHH
    • Văn chương Việt Nam
    • Văn chương nước ngoài
    • Nghệ thuật Việt Nam
    • Nghệ thuật thế giới
    • Hình ảnh vui
    • Video vui
  • Diễn đàn
  • Liên hệ
  • Trang chủ
  • Nghiên cứu
  • Văn hóa thế giới
  • Văn hóa Trung Hoa và Đông Bắc Á
Thursday, 21 April 2011 12:56

Trần Ngọc Thêm. Quốc hiệu và tên gọi Korea qua các thời đại

Người post bài:  Trần Ngọc Thêm

 

QUỐC HIỆU VÀ TÊN GỌI KOREA QUA CÁC THỜI ĐẠI

 

Trần Ngọc Thêm

T/c Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 12 (118), 2010, tr. 43-49

 

Bản đồ bán đảo Hàn thời Tam Hàn

 


T

rải qua các thời đại, xứ sở Korea đã có nhiều quốc hiệu và tên gọi khác nhau. Có tên do dân tộc hay chính quyền tự đặt, có tên do dân tộc/cá nhân nước ngoài đặt cho. Trải qua thời gian, hình thức ngữ âm/chính tả và nghĩa của những tên này đã bị mờ nhạt, hoặc biến dạng, có khi lại còn bị gán cho những nghĩa mới, xa lạ, tạo nên nhiều nhầm lẫn, ngộ nhận. Tìm hiểu một dân tộc cùng nền văn hoá của dân tộc và quốc gia ấy không thể bỏ qua việc nghiên cứu các quốc hiệu và ý nghĩa của chúng qua các thời đại*[1].

 

1. Quốc hiệu “Joseon” (Triều Tiên) và những tên gọi liên quan

Tên gọi quốc gia đầu tiên trên bán đảo Korea là “Joseon” (조선) như quốc hiệu của một quốc gia tương truyền là do vị vua huyền thoại Dan-Gun sáng lập vào năm 2333 trước công nguyên. Nơi định đô của Joseon là ở giữa lưu vực sông Liao (Liêu) và sông Daedong (Đại Đồng), đây là nơi mà ngày nay người ta khai quật được nhiều vật dụng bằng đồng nhất.

Tên Joseon được tiếp tục duy trì trong quốc hiệu “Wiman Joseon” (위만조선)  do một đại thần của nước Yên tên là Wiman (衛滿, Wei Man = Vệ Mãn) lập ra. Sau khi Nhà Tần sụp đổ (khoảng năm 194 trước công nguyên),  Vệ Mãn kéo theo hơn 1.000 người chạy loạn đến Joseon, lúc đầu theo phò vua Chun (준), rồi sau đã lợi dụng chiếm ngôi.

“Joseon” là một từ cổ thuần Hàn, rất có thể là bắt nguồn từ tộc danh “Suksin / Siksin / Chiksin” của những cư dân săn bắn sống ở phía đông Mãn Châu Lý [Pratt K. & Rutt R. 1999: 232, 449]. Do người Korea không có văn tự nên tên “Joseon” chỉ bắt đầu được lưu giữ lại trong những ghi chép của người Trung Quốc vào tk. V sau CN [Pratt K. & Rutt R. 1999: 232]. Vì vậy ngày nay người ta không xác định được chính xác cả âm lẫn nghĩa của nó.

Về âm, căn cứ vào những quy luật biến đổi ngữ âm, các nhà ngôn ngữ học đã khôi phục cách phát âm gần đúng của từ này vào thời xưa là /*trjaw-senx/. Người Hoa Hạ khi tiếp xúc với người Hàn đã ghi lại tên này. Nhưng chữ Hán là một thứ chữ tượng hình, mỗi âm tiết được ghi bằng một chữ, nên không thể nào phiên âm tên nước ngoài theo cách ghép chữ cái được. Bởi vậy, họ phải tìm những chữ có cách phát âm gần giống để biểu thị từng âm tiết một. Chính là theo cách ấy, tên nước “Joseon” trên bán đảo Hàn đã được người Hoa Hạ ghi lại bằng hai chữ 朝鮮 (âm Hán-Việt là “Triều Tiên”), đọc theo phương ngữ đông-bắc của tiếng Hán hiện nay là /chao-xian/, đã thể hiện được khá chính xác cách phát âm gốc.

Song mặt khác, tiếng Hán lại là thứ tiếng đơn âm (giống tiếng Việt), trong đó mỗi chữ (tiếng) đều có nghĩa. Thành ra khi phiên âm tiếng nước ngoài, nếu khéo chọn thì sẽ được một chuỗi âm tiết vừa gần giống với tên cần phiên âm về cách đọc, lại vừa tạo nên một nghĩa tổng thể nào đó. Bác Hồ từng phiên âm tên của tướng Mỹ Oét-mo-len thành “Vét Mỡ Lợn”. Người Trung Quốc đã phiên âm tên đồ uống “Coca Cola” thành ‘kě kŏu kě lè’ (可口可樂). Tuy cách phát âm không giống “Coca Cola” được bao nhiêu, nhưng tạo ra được nghĩa thú vị: “Khả khẩu khả lạc” là “vừa dễ uống (ngon miệng) lại vừa (khiến ta) vui sướng!”.

Tong trường hợp chao-xian朝鮮 (Triều Tiên), chữ 朝 (triều), ngoài nghĩa ‘trị vì’, ‘hướng về’ (như trong các từ ghép “triều đại”, “triều kiến”), còn có nghĩa là ‘buổi sáng’ (như trong từ ghép “triều nhật” = mặt trời buổi sáng). Về chữ 鮮 (tiên), sách “Thuyết văn” cho biết khởi đầu nghĩa là “tên cá đến từ nước Lạc” nên ban đầu có nghĩa là “cá sống”, sau mới mở rộng thành “mới mẻ” [Lý Lạc Nghị & Jim Waters 1997: 745]. Gộp lại, cách phiên âm /*trjaw-senx/ của người Trung Quốc thành “Triều Tiên” đã tạo ra nghĩa “triều đại mới”, hoặc xứ sở có “buổi sáng mát mẻ”.

Cách dịch ra tiếng phương Tây thành “Land of Morning Calm” (Mảnh đất Ban mai Yên tĩnh, Đất nước Bình minh Yên tĩnh) có lẽ xuất phát từ Claude Charles Dallet, một nhà truyền giáo người Pháp[2], trong cuốn Sérénité du Matin viết năm 1874, rồi sau đó được tổ chức American Percival Lowell dùng chính thức ở Triều Tiên vào năm 1885 [Pratt K. & Rutt R. 1999: 232]. Như vậy, cách giải nghĩa này chỉ có thể xem như một hình tượng văn chương giàu chất trữ tình, chứ không thể coi là một cách giải nghĩa khoa học nghiêm chỉnh như rất nhiều sách vở, luận văn, luận án lâu nay đã viện dẫn [Trịnh Huy Hóa 2001: 12; Hwang Gwi-Yeon & Trịnh Cẩm Lan 2002: 336, 339] [3].

Tên gọi “Joseon” xuất hiện trở lại lần thứ hai[4] trong lịch sử Korea vào cuối thế kỷ XIV. Năm 1392, sau khi tướng Yi Seong-ye (Lý Thành Quế) tiến hành đảo chính thành công và lập nên triều Yi (Lý), ông đã quyết định lấy lại tên gọi cổ nhất là “Joseon” làm quốc hiệu. Để phân biệt với Joseon của triều Lý, các sử gia đã gọi quốc gia “Joseon” đầu tiên là “Joseon cổ” (고조선, Ko-Joseon); cách gọi với mục đích phân biệt này hiện đã trở thành phổ biến đến mức nhiều người (kể cả người Korea) thành tâm nghĩ rằng “Ko-Joseon” là tên thực của quốc gia cổ đại này.

Tên gọi “Joseon” triều Lý tiếp tục tồn tại cùng với vương triều suốt năm thế kỷ cho đến tháng 10-1897, khi vua Gojong (Cao Tông) đổi tên nước thành “Daehan Jeguk” (대한제국, Đại Hàn Đế Quốc), trọng tâm ở chữ “한-Hàn ” là tên chỉ dân tộc, xuất hiện từ đầu công nguyên ở thời Samhan (삼한, Tam Hàn). Tất nhiên là quốc hiệu đầy tự hào này không thể tiếp tục tồn tại trong thời Nhật thuộc.

Từ năm 1910, thực dân Nhật Bản đã dùng lại tên “Joseon” để gọi vùng đất thuộc địa này, đọc theo cách phát âm Nhật là “Chosen”. Sau năm 1945, chính quyền của những người cộng sản ở phía Bắc đã tiếp tục sử dụng tên gọi “Joseon” (đọc theo cách phát âm miền bắc là “Josun”): thoạt đầu là “Ủy ban Nhân dân Lâm thời Triều Tiên” năm 1946, rồi “Ủy Ban Nhân Dân Triều Tiên” năm 1947, và cuối cùng là “Nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Triều Tiên” (조선 민주주의 인민 공화국, Triều Tiên Dân chủ Chủ nghĩa Nhân dân Cộng hòa Quốc) năm 1948.

Như vậy, “Joseon” là tên gọi được dùng nhiều lần nhất với tổng thời gian dài nhất trong lịch sử bán đảo Korea.

 

2. Quốc hiệu “Goryeo” (Cao Ly) và những tên gọi liên quan

Tuy tên gọi “Joseon” được dùng với thời gian dài nhất trong lịch sử Korea, nhưng lại không phải là tên được biết rộng rãi nhất ở phương Tây. Tên đại diện cho bán đảo Hàn ở phương Tây là “Goryeo”.

Tên này bắt nguồn từ tên nước Goguryeo /고구려 (高句麗), tương truyền do Chu-Mong /주몽 (朱蒙- Chu Mông) và các tùy tùng của ông chạy từ nước Buyeo (Phù Dư) về phía đông nam thành lập vào năm 37 trước công nguyên trên cơ sở liên kết năm bộ lạc ở bắc bán đảo và Mãn Châu. Goguryeo thuộc vùng đất Yemaek /예맥 (濊貊 - Uế Mạch), nằm trong khoảng từ giữa sông Amnok (Yalu, 鴨綠 = Áp Lục) đến lưu vực sông Tungchia (Đồng Giai).

Tên “Goguryeo” là một từ cổ thuần Hàn, có nghĩa là “thành (trên) núi”, hay “kinh đô” [Марков В.М. 1999: 12; Pratt K. & Rutt R. 1999: 232]. Người Hán đã phiên âm tên này thành高句麗 (âm Hán-Việt có tới ba cách đọc khác nhau là: “Cao Câu Ly”, “Cao Cú Ly”, “Cao Cú Lệ”).

Đến năm 918, khi Thái Tổ Wangkeon (Vương Kiến) tái thống nhất đất nước, lập ra  vương quốc Hậu Goguryeo và lên làm vua, ông đã cho rút gọn tên nước ‘Goguryeo’ thành Goryeo (고려). Tên này trở thành phổ biến ở Trung Quốc dưới dạng phiên âm 高麗 Gaoli (âm Hán-Việt là ‘Cao Ly’) và ở Nhật Bản dưới dạng “Korai”.

Chính là thông qua Trung Quốc và Nhật Bản, những người đi biển phương Tây bắt đầu biết đến quốc hiệu này của người Korea. Nó xuất hiện ở phương Tây lần đầu tiên dưới dạng “Caule” trong báo cáo của William Rubruck về chuyến đi của ông đến Mông Cổ năm 1253 (ở chương 29). Trong những câu chuyện của nhà du lịch Marco Polo về cuộc kháng chiến chống quân Mông Cổ của người dân vùng Viễn Đông, tên này trở thành “Cauli”.

Đến cuối thế kỷ XIV, khi vương triều Joseon thay thế cho vương triều Goryeo trên Bán đảo Hàn, thì tên gọi của vương triều Goryeo trước đó tiếp tục được nhiều người phương Tây biết đến. Các nhà hàng hải Bồ Đào Nha đã mang về Châu Âu tên gọi “Coria”. Trên bản đồ của Fleming Peter Placius vẽ năm 1593 xuất hiện địa danh “Corai”; còn trên bản đồ của Jan Huygen van Linschoten vẽ năm 1596 ta gặp “Corea”.

Vào thế kỷ XVII, tên “Corea” dần dần trở thành phổ biến ở phương Tây. Cách viết “Korea” (với chữ cái đầu là K) xuất hiện vào đầu năm 1738 và sau đó đã được chấp nhận rộng rãi vào thế kỷ XIX. Trong khi đó, cách viết “Corea” (với chữ cái đầu là C) vẫn còn tiếp tục được dùng đến tận năm 1940 [Pratt K. & Rutt R. 1999: 232]. Riêng người Pháp ngày nay vẫn giữ tên này ở dạng “Corée”[5].

Cũng giống như “Triều Tiên” trở thành ‘Đất nước của Bình minh Yên tĩnh’, một số người phương Tây giàu óc tưởng tượng đã căn cứ vào ý nghĩa của hai chữ 高麗 (Cao Ly) trong tiếng Hán mà giải nghĩa “Korea” thành ‘Cao và Sáng’ [Trịnh Huy Hóa 2001: 12]. Có lẽ chữ “ly 麗” ở đây đã được đồng nhất với chữ “ly離” là tên một quẻ trong bát quái hậu thiên. “Ly 離” trong bát quái hậu thiên có nghĩa là ‘phương Nam’, ‘nắng nóng’, ‘ánh sáng’.

Đây là một diễn giải hết sức tuỳ tiện, vì chữ “ly” 麗 trong “Cao Ly” chỉ có nghĩa là ‘đẹp’, và vị trí Korea trong địa văn hóa của bát quái thì ở phía đông bắc, hoàn toàn không liên quan gì đến phương Nam nắng, sáng cả! Do vậy, cách giải nghĩa này cũng chỉ có thể dùng như một hình tượng văn chương thơ mộng chứ không thể xem là một cách giải nghĩa khoa học nghiêm chỉnh được.

 

3. Quốc hiệu “Hankuk” (Hàn Quốc)

Tên gọi “Daehan Jeguk” (Đại Hàn Đế Quốc) do vua Gojong (Cao Tông) đặt ra năm 1897 tuy rằng với tư cách là một quốc hiệu chính thức chỉ tồn tại được trong một thời gian ngắn (23 năm, từ 1897 đến 1910), nhưng đối với những người dân mất nước thì tên gọi Daehan (Đại Hàn) này rất thích hợp để thể hiện lòng yêu nước và tinh thần dân tộc của mình. Bởi vậy mà chính phủ lưu vong thành lập ở Thượng Hải tháng 4-1919 đã lấy tên là “Daehan Minguk Imsi Cheongbu” (Đại Hàn Dân quốc Lâm thời Chính phủ). Sau khi thành lập, các thành viên của chính phủ lưu vong này đã tìm kiếm sự ủng hộ của thế giới và các quốc gia phương Tây, trong đó có Mỹ. Năm 1945, họ trở về tham gia lãnh đạo phía Nam. Và, để kế tục truyền thống của mình, năm 1948 các nhà lãnh đạo phía Nam đã lấy tên nước là “Daehan Minguk” (대한민국, Đại Hàn Dân quốc), gọi tắt là “Hanguk” (한국, Hàn Quốc).

 

4. Tên gọi “Dongi” (Đông Di)

Ngoài các quốc hiệu chính thức, còn có khá nhiều tên gọi tồn tại như những “biệt hiệu” do người Hàn tự đặt hoặc do các dân tộc khác đặt ra để gọi bán đảo này.

Phổ biến nhất trong số này là tên gọi do người Hán đặt ra để gọi bán đảo Hàn là “Đông Di” (东夷, Dongyi), tiếng Hàn là 동이 (Dongi). Theo giáo sư Kim Ki-su thì Dongyi (Đông Di) với Donghu (Đông hầu), Tunghou và Tungus đều là những biến thể của cùng một tên gọi và đều xuất phát từ tiếng Hán [Kim Ki-su 1974: 20-21]. Tên gọi này ban đầu không có ý khinh miệt. Chỉ có từ thời Tần-Hán về sau, khi Hoa Hạ đã trở nên lớn mạnh cả về diện tích, dân số và văn hóa, nhờ tích hợp được diện tích, dân số và văn hóa của các dân tộc phía Đông và phía Nam, họ mới bắt đầu tỏ ra khinh miệt “tứ di”. Và từ đó các tên như “Đông Di” (để gọi xứ của người Hàn), “Nam Man” (để gọi xứ của người Việt) mới trở nên có nghĩa miệt thị.


Bảng 1: Các tên gọi phổ biến

 

Stt

Tên gọi

Thời kỳ tồn tại

Chủ thể sáng tạo

Nguồn gốc
tên gọi

Biến thể
âm và nghĩa

1.                    

조선 / Joseon

Trước CN

Người Hàn

 

Ko-Joseon

2.                    

조선 / Joseon

Triều Lý

Người Hàn

Joseon cổ

朝鮮, Triều Tiên, ‘Land of Morning Calm’

3.                    

고려 / Goryeo

Tk 10-13

Người Hàn

고구려/ Goguryeo

高麗, Cao Ly, Korea, Corée, ‘Cao và Sáng’

4.                    

한국 /
Hàn Quốc

Từ 1897 và 1948

Người Hàn

Daehan Jeguk và Daehan Minguk

 

5.                    

동이 / Dongi

Từ trCN

Người Hán

东夷 / Đông Di

Donghu (Đông hầu), Tunghou, Tungus


 


5. Các tên gọi không phổ biến

Ngoài tên gọi “Đông Di”, còn có nhiều tên khác ít phổ biến hơn do người Hán, người Hàn và người phương Tây đặt ra để gọi bán đảo này.

“Quân Tử Chi Quốc” (tiếng Hán: 君子之國Junzi zhi guo; tiếng Hàn: 군자지국 Kunja-ji-guk) là một tên gọi xuất phát từ người Hán (được ghi trong Sơn Hải kinh là một cuốn sách cổ của Trung Hoa[6]), với ý nghĩa ca ngợi nơi đây là “đất nước của những người quân tử”.

Cũng trong Sơn Hải kinh, bán đảo Hàn còn được gọi là “靑丘Qingqiū” (Thanh Khâu, tiếng Hàn: 청구Cheonggu) nghĩa là “Gò xanh”. Sở dĩ  “Gò xanh” lại có thể chỉ bán đảo Korea là vì thứ nhất, Korea là vùng núi (đồi/gò), và thứ hai, theo ngũ hành thì màu xanh (靑 “thanh”) là màu biểu tượng của phương Đông.

Do vị trí của Korea là ở phía đông Trung Hoa nên vào  thời Lý lưu truyền một loạt tên gọi phản ánh đặc điểm này: Dongguk (동국 = 東國) ‘Đông Quốc’ (Nước ở phía Đông); Dongbang (동방 = 東邦) ‘Đông Bang’ (Bang (nước) ở phía Đông); Haedong (해동 = 海東) ‘Hải Đông’ (nước ở phía Đông của Biển); Dongto (동토 = 東土) ‘Đông Thổ’ (Đất ở phía Đông); Daedong (대동 = 大東) ‘Đại Đông’ (nước Đông Lớn). Việt Nam và Korea trong trường hợp này rất giống nhau: do vị trí ở phía nam của Trung Hoa nên Việt Nam cũng có các tên gọi tương ứng như: Nam Việt, Nam Quốc, Nam Bang, Đại Nam. Không ai bảo ai, tâm lý tự ti đã khiến cả Korea lẫn Việt Nam trong lịch sử đều khẳng định mình cũng là nước lớn (Đại Đông và Đại Nam) chẳng kém gì Trung Quốc!

Cũng với ý là nước ở phía đông, giới Nho sĩ người Hàn đã tạo ra một biểu tượng rất thú vị là “Kê Lâm”: Vì ở phía đông nên đón bình minh sớm, mà gà gáy là báo hiệu bình minh, vậy là có tên “Gyerim” (계림 = 鷄林, Kê Lâm) nghĩa là ‘Rừng Gà’!

Asadal /아사달 là một tên khác người Hàn dùng để gọi đất nước mình với nét nghĩa phía đông. “Asadal” là một từ cổ thuần Hàn. Vào thời xa xưa, “Asa” có nghĩa là “Achim” (buổi sáng), và “Dal” có nghĩa là “Kot” (nơi, chốn) [박 영 순 2002: 180]. Vậy thì Asadal nghĩa là ‘nơi của buổi sáng, nơi đón bình minh’ (giống như người Nhật gọi quê hương mình là ‘đất nước mặt trời mọc’ vậy).

 “Jindan” (진단 = 震檀, âm Hán-Việt là “Chấn Đàn”) cũng là một tên gọi bán đảo Korea. “Từ điển Tân Quốc ngữ Dong-a” của Lee Ki-Moon[7] giải nghĩa “Jindan” là “đất nước chúng ta”. Năm 1934 các nhà dân tộc học Korea có thành lập một tổ chức lấy tên là “Hội Chấn Đàn học” (Jindan hak-hoi, 진단학회). Vì sao hai chữ “Chấn Đàn” lại có thể có nghĩa là “đất nước Korea”? Tra cứu không thấy sách nào giải nghĩa về từ nguyên học của từ này, song theo chúng tôi, ‘Chấn’ đây chính là quẻ chấn trong Bát quái. Trong Bát quái tiên thiên, quẻ Chấn nằm ở phía đông bắc, nên nó ứng với vị trí của bán đảo Korea. Còn ‘đàn’ là cây thần chiên đàn, cây tổ trong huyền thoại lập quốc Dan-Gun (= Đàn Quân)[8]. Như vậy, có thể hiểu “Chấn Đàn” là ‘(xứ) cây Đàn tọa ở quẻ Chấn (phía Đông-Bắc)’. Từ “chấn” với nghĩa là quẻ chấn của Bát quái còn tạo ra tên Jinyeok  / 진역 (= 震域), âm Hán-Việt là “Chấn Vực” (“vực” = “khu vực”).

Cách tư duy lấy Trung Hoa làm chuẩn mực để so sánh còn sản sinh ra một tên gọi nữa là “Sohwa” (소화 = 小華, Tiểu Hoa): Người ta là “Hoa” thì mình cũng là “Hoa”. Chỉ có điều do diện tích to nhỏ khác nhau nên người ta là “Hoa lớn”, còn mình là “Hoa nhỏ” (“tiểu”) mà thôi!

Người Hàn có một loại hoa được xem là rất gắn bó và linh thiêng, một quốc hoa – đó là Mugunghwa - hoa vô cùng. Hoa vô cùng là một loại hoa thuộc họ dâm bụt, gần giống hoa dâm bụt của người Việt.  Đây là loài hoa có sức sống bền bỉ, mãnh liệt, nó nở một cách thầm lặng ở khắp nơi trên đất Korea, suốt từ đầu hè đến cuối thu. Bởi vậy, hoa này được người Korea xem là tượng trưng cho sự bền vững nên được gọi là “hoa vô-cùng”, “hoa vĩnh-cửu”.  Vào thời mình, vương quốc Silla đã tự xưng là Mugunghwa-guk /무궁화국 - “Nước Hoa-vô-cùng”.

Tên bằng chữ Hán của hoa vô cùng là木槿花 ‘mộc cẩn hoa’. Vì vậy. đầu tk. XX xuất hiện tên gọi Geunyeok /근역. Tên này xuất phát từ chữ Hán 槿域 ‘Cẩn Vực’, trong đó 域 (vực) là ‘khu vực’, còn “cẩn” (槿 = 근geun) là tên tắt của ‘mộc cẩn hoa’, tức “hoa vô cùng” của người Hàn. “Geunyeok”, hay “Cẩn Vực” có nghĩa là ‘Xứ Hoa vô cùng’.

Tên gọi “Vương quốc Ẩn sĩ” (Hermit Kingdom) do người phương Tây đặt ra để chỉ đất nước Korea xuất hiện lần đầu tiên trong tên một bài báo bằng tiếng Anh, đó là bài “Corea, last of the Hermit Nations” (Korea, đất nước cuối cùng của những Dân tộc Ẩn dật), in trên tờ “The Independent” (Độc lập) xuất bản ở New York tháng 5-1878 [Pratt K. & Rutt R. 1999: 232]. Sang tiếng Hàn, tên này được chuyển thành Swoeguk (쇄국 - 鎖國), âm Hán-Việt là “Toả Quốc” (“toả” = khép kín, đóng cửa, ss. phong toả) hoặc Tunguk (둔국 - 遁國), âm Hán-Việt là “Độn Quốc” (trong đó “độn” = chạy trốn, ss.: độn thổ). Cả hai tên đều có nghĩa là ‘quốc gia ẩn cư’.


Bảng 2: Các tên gọi không phổ biến

 

Stt

Tên gọi

Thời kỳ tồn tại

Chủ thể sáng tạo

Nguồn gốc
tên gọi

1.                    

군자지국
/ Kunja-ji-guk

Từ trCN

Người Hán

君子之國
/ Quân Tử Chi Quốc

2.                    

해동/ Haedong

Thời Lý

Người Hàn

海東/ Hải Đông

3.                    

동토 / Dongto

Thời Lý

Người Hàn

東土 / Đông Thổ

4.                    

동국 / Dongguk

Thời Lý

Người Hàn

東國 / Đông Quốc

5.                    

동방 / Dongbang

Thời Lý

Người Hàn

東邦 / Đông Bang

6.                    

대동 / Daedong

Thời Lý

Người Hàn

大東 /  Đại Đông

7.                    

계림 / Gyerim

Thời Lý

Người Hàn

鷄林 / Kê Lâm

8.                    

아사달 / Asadal

Không rõ

Người Hàn

(từ cổ thuần Hàn = ‘nơi của buổi sáng’)

9.                    

소화 / Sohwa  

Thời Lý

Người Hàn

小華 / Tiểu Hoa

10.                

진단 / Jindan

Thời Lý

Người Hàn

震檀, Chấn Đàn

11.                

진역 / Jinyeok

Thời Lý

Người Hàn

震域, Chấn Vực

12.                

무궁화국 /
Mugunghwa-guk

Thời Silla

Người Hàn

(từ thuần Hàn + Hán Hàn = ‘Nước hoa-vô-cùng’)

13.                

근역 / Geunyeok

Đầu tk. 20

Người Hàn

槿域, Cẩn Vực

14.                

쇄국 / Swoeguk,
둔국 / Tunguk

Từ tk.19

Phương Tây

 Hermit Kingdom / Vương quốc Ẩn sĩ

 

Kết luận

         Việc tìm hiểu các quốc hiệu và tên gọi của một đất nước không chỉ làm thỏa mãn trí tò mò và đáp ứng nhu cầu hiểu biết, mà còn góp phần giải đáp những câu hỏi của lịch sử và giúp ta hiểu hơn bản sắc văn hóa và tính cách của một dân tộc.

Với 19 quốc hiệu và tên gọi (phổ biến và không phổ biến) vừa nêu, chúng ta đã có 5 loại thông tin sau về đất nước và con người Korea:

a) Lịch sử liên tục của bán đảo Korea - từ thời vua Tan-Gun huyền thoại sáng lập vương quốc Joseon cổ (tương truyền là vào năm 2333 trước công nguyên), Goguryeo, Goryeo, Joseon triều Lý đến hai nước Korea hiện nay.

b) Địa lý Korea với vị trí đông và đông bắc, với núi non và biển cả – qua các tên: Hải Đông, Đông Thổ, Đông Quốc, Đông Bang, Kê Lâm, Thanh Khâu...

c) Quan hệ quốc tế phức tạp với Trung Hoa - qua các tên: Đông Di, Tiểu Hoa, Đại Đông...

d) Quan hệ quốc tế trong giai đoạn đầu tiếp xúc với phương Tây như một thế giới biệt lập và xa lạ – qua các tên: Tỏa Quốc, Độn Quốc.

e) Và cuối cùng, tính cách dân tộc và bản sắc văn hóa Korea - qua các tên: Chấn Đàn, Chấn Vực, Nước Hoa-Vô-Cùng, Thanh Khâu, Cẩn Vực, Vương quốc Ẩn sĩ[9].

 

Tài liệu tham khảo

1. Hwang Gwi-Yeon & Trịnh Cẩm Lan (2002), Tra cứu văn hoá Hàn Quốc. Nxb.Đại học Quốc gia Hà Nội, 456 tr.

2. Trịnh Huy Hóa (Biên dịch) (2001), Đối thoại với các nền văn hóa: Triều Tiên, Nxb.Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh, 198 tr.

3. Pratt K. & Rutt R. (1999), Korea – A Historical and Cultural Dictionary. – Curzon, 568 p.

4. Kim Ki-Su (1974),  People. // In: Kim Ick-dal (publisher): Korea - Its People and Culture (with 56 contributors). – Seoul: Hakwon-sa, Ltd., 1974, pp. 18-27.

5. Марков В.М. (1999), Республика Корея: Традиции и современность в культуре второй половине ХХ века. – Владивосток, Изд. Дальневост. ун-та, 448 с. (Markov V.M. Hàn Quốc: truyền thống và hiện đại trong văn hoá nửa sau tk. XX, tiếng Nga).

6. 박 영 순 (2002), 한국어 교육을 위한 한국 문화론. - 한국 문화사, 403 p. (Bak Yeong-sun. Văn hóa Hàn Quốc luận về việc giáo dục tiếng Hàn. – Nxb. Văn hóa Hàn Quốc).

7. Lý Lạc Nghị & Jim Waters (1997), Tìm về cội nguồn chữ Hán. – H.: NXB Thế giới.

 



* Giáo sư, tiến sĩ khoa học, Khoa Văn hóa học, Trường ĐHKHXH và NV, ĐHQG-HCM.

[1] Phiên âm Latinh các từ Hàn trong bài thực hiện theo quy định phiên âm của Bộ giáo dục Hàn Quốc năm 2000.

[2] Claude Charles Dallet, sinh năm 1829, là tác giả cuốn Histoire de l’Eglise de Corée (1874) viết về lịch sử thâm nhập của đạo Thiên Chúa vào Korea. Ông mất do bệnh tật tại Sài Gòn năm 1887 [Pratt K. & Rutt R. 1999: 93].

[3] Trong tiếng Việt cũng xảy ra nhiều trường hợp tương tự. Chẳng hạn, sông Lam ở Nghệ An thường được giải thích là ‘sông Xanh’, nhưng thực ra “Lam” chỉ là một cách Hán-Việt hoá tên cổ của sông này là Rum nghĩa là ‘nước’ (ss. “nậm Rốm”).

[4] Tên “Wiman Joseon” chỉ là sự tiếp nối của “Joseon” cổ, không thể coi là một giai đoạn riêng.

[5] Như vậy cách viết Corea (với C) đã xuất hiện ở phương Tây trước cách viết Korea (với K). Thực tế này đã bác bỏ cách giải thích khá phổ biến cho rằng người Korea cố tình muốn viết tên nước mình bằng C để được đứng trước tên nước Nhật Bản (Japan – với J) trong các danh sách quốc tế.

[6] “Sơn Hải kinh” (山海經, t. Hàn 산해경, Sanhae-gyeong) là một cuốn sách Trung Hoa được viết vào đời Hán (nhưng thường được cho là viết sớm hơn rất nhiều), chứa đựng những miêu tả hoang đường về thế giới, bao gồm các kỳ quan, kỳ vật, kỳ nhân.

[7] Nhà xuất bản Dong-a, 1994, tr. 1920.

[8] Pratt K. và Rutt R. [1999: 232] cho rằng chữ “dan” ở đây có nghĩa giống như chữ “tan” trong “Turkestan” và những địa danh tương tự ở Trung Á (Tadzhikistan, Uzbekistan, v.v.).

[9] Xin cảm ơn GS.TS. Ahn Kyong-hwan (Đại học Chosun, Hàn Quốc) đã tham gia giúp chúng tôi hoàn thành bài viết này.

Lên trên

Cùng chủ đề

  • Odd Arne Westad. Nguồn gốc hành vi của Trung Quốc

  • Miles Maochun Yu. Văn hóa chiến lược Trung Quốc và tranh chấp Biển Đông

  • Derek Grossman & Logan Ma. Lịch sử lực lượng dân quân biển Trung Quốc và hàm ý cho tương lai

  • Lý Hồng Phong. Chiến lược trỗi dậy về văn hóa của Trung Quốc

  • Lee Hee Yong. Tại sao Tân Thiên Địa bị coi là tà giáo?

Thông báo

Tư vấn khoa học và kỹ năng nghiên cứu…

Tủ sách văn hoá học Sài Gòn

  • Thư viện ảnh
  • Thư viện video
  • Tủ sách VHH

Phóng sự ảnh: Toạ đàm khoa học: Xây dựng…

Hình ảnh văn hóa Tết xưa (sưu tầm)

Phóng sự ảnh: Lễ hội truyền thống VHH 2011

Phóng sự ảnh Lễ hội truyền thống VHH 2010

Thành phố Sankt-Peterburg, Nga

Bộ ảnh: Việt Nam quê hương tôi 2

Tranh Bùi Xuân Phái

Bộ tem tượng Phật chùa Tây Phương

Bộ ảnh: Đá cổ Sapa

Bộ ảnh: Phong cảnh thiên nhiên

Bộ ảnh: Việt Nam quê hương tôi

"Biển, đảo Việt Nam - Nguồn cội tự bao đời":…

Con dê trong văn hóa và văn hóa Việt Nam

Văn hóa Tết ở Tp.HCM (Chương trình truyền…

Văn hóa Tp. HCM: Một năm nhìn lại và động…

Phong tục Tết cổ truyền của người Nam Bộ

Bánh tét và Tết phương Nam

Con ngựa trong văn hóa và văn hóa Việt Nam

Điện Biên Phủ - Cuộc chiến giữa hổ và voi

Nhìn lại toàn cảnh thế giới từ 1911-2011…

Tọa độ chết - một bộ phim Xô-Việt xúc động…

Video: Lễ hội dân gian Việt Nam

Văn hoá Việt từ phong tục chúc Tết

Văn hoá Tết Việt qua video

Tết ông Táo từ góc nhìn văn hoá học

“Nếp nhà Hà Nội” trên “Nhịp cầu vàng”: tòa…

Văn hóa Thăng Long - Hà Nội qua video: từ…

Hướng về 1000 năm TL-HN: Xem phim “Tử Cấm…

Hướng về 1000 năm TL-HN: Người Thăng Long…

Phim "Chuyện tử tế" – tập 2 (?!) của “Hà…

Default Image

Hướng về 1000 năm TL-HN: "Chuyện tử tế" -…

Sách “Di sản Ấn Độ trong văn hóa Việt Nam”

Nguyễn Văn Bốn. Tín ngưỡng thờ Mẫu của người…

Sách: Quản lý và khai thác di sản văn hóa…

Hồ Sĩ Quý. Con người và phát triển con người

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 3

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 2

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 1

Hồ Sỹ Quý. Tiến bộ xã hội: một số vấn đề về…

Hồ Sỹ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á (Phụ…

Hồ Sỹ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á…

Hồ Sĩ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á…

Sách: Chuyên đề Văn hoá học

Sách: Một số vấn đề về hệ giá trị Việt Nam…

FitzGerald. Sự bành trướng của Trung Hoa…

Hữu Đạt. Đặc trưng ngôn ngữ và văn hoá giao…

Sống chụ son sao (Tiễn dặn người yêu)

Gs. Mai Ngọc Chừ. Số phận & Tâm linh

Trần Văn Cơ. Những khái niệm ngôn ngữ học…

Đoàn Văn Chúc. Văn hóa học (Phần 3 - hết)

Đoàn Văn Chúc. Văn hóa học (Phần 2)

Các nhà VHH nổi tiếng

Julian Haynes Steward

Wen Yi'duo (Văn Nhất Đa)

Leslie Alvin White

Huang Wen'shan (Hoàng Văn Sơn)

Radcliff-Brown, Alfred Reginald

Sapir, Edward

Margaret Mead

Thăm dò ý kiến

Bạn thích cuốn "Cơ sở văn hoá VN" của tác giả nào nhất?

Chu Xuân Diên - 4.8%
Lê Văn Chưởng - 0.9%
Trần Diễm Thuý - 1%
Trần Ngọc Thêm - 37.4%
Trần Quốc Vượng - 53%
The voting for this poll has ended on: 26 06, 2020

Tổng mục lục website

tong muc luc

Tủ sách VHH Sài Gòn

tu sach VHH SG

Thống kê truy cập

  • Đang online :
  • 65
  • Tổng :
  • 3 8 1 8 3 4 0 1
  • Đại học quốc gia TPHCM
  • Đại học KHXH&NV
  • Tran Ngoc Them
  • T.c Văn hóa-Nghệ thuật
  • Tc VHDG
  • Viện NCCN
  • Khoa Văn hóa học
  • Khoa Đông phương học
  • Phòng QLKH
  • Khoa Việt Nam học
  • Khoa Hàn Quốc học
  • BM Nhật Bản học
  • Khoa Văn học - Ngôn ngữ
  • Khoa triết học
  • Khoa Quan hệ quốc tế
  • Khoa Xã hội học
  • Bảo tàng Lịch sử - Văn hóa
  • viettems.com
  • myfaifo.com
Previous Next Play Pause

vanhoahoc.vn (các tên miền phụ: vanhoahoc.edu.vn ; vanhoahoc.net)
© Copyright 2007-2015. Bản quyền thuộc Trung tâm Văn hóa học Lý luận và Ứng dụng, Trường Đại học KHXH & NV - ĐHQG Tp. HCM
ĐT (028) 39104078; Email: ttvanhoahoc@hcmussh.edu.vn; ttvanhoahoc@gmail.com. Giấy phép: số 526/GP-BC, do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 27-11-2007
Ghi rõ nguồn vanhoahoc.vn khi phát hành lại các thông tin từ website này.

Website được phát triển bởi Nhà đăng ký tên miền chính thức Việt Nam trực thuộc Trung Tâm Internet VNNIC.

Văn hóa Trung Hoa và Đông Bắc Á