logo

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
    • Thư ngỏ
    • Khái quát về Trung tâm
    • Nhân lực Trung tâm
      • Thành viên Trung tâm
      • Cộng tác viên
    • Giới thiệu Khoa Văn hóa học
      • Khái quát về Khoa
      • Nhân lực của Khoa
  • Tin tức
    • Tin nhà (Trung tâm)
    • Tin ngành
    • Tin liên quan
  • Đào tạo - Huấn luyện
    • Các chương trình
    • Tổ chức và Hiệu quả
    • Đào tạo ở Khoa VHH
      • Chương trình đào tạo
      • Kết quả đào tạo
  • Nghiên cứu
    • Lý luận văn hóa học
      • LLVHH: Những vấn đề chung
      • VHH: Phương pháp nghiên cứu
      • VHH: Các trường phái - trào lưu
      • Loại hình và phổ quát văn hóa
      • Các bình diện của văn hóa
      • Văn hóa học so sánh
      • Vũ trụ quan phương Đông
      • Văn hóa và phát triển
      • VHH và các khoa học giáp ranh
    • Văn hóa Việt Nam
      • VHVN: Những vấn đề chung
      • Văn hóa cổ-trung đại ở Viêt Nam
      • Văn hóa các dân tộc thiểu số
      • Văn hóa Nam Bộ
      • Văn hóa nhận thức
      • Văn hóa tổ chức đời sống tập thể
      • Văn hóa tổ chức đời sống cá nhân
      • Văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên
      • Văn hóa ứng xử với môi trường xã hội
    • Văn hóa thế giới
      • VH Phương Đông: Những vấn đề chung
      • VH Phương Tây: Những vấn đề chung
      • Quan hệ văn hóa Đông - Tây
      • Văn hóa Trung Hoa và Đông Bắc Á
      • Văn hóa Đông Nam Á
      • Văn hóa Nam Á và Tây Nam Á
      • Văn hóa châu Âu
      • Văn hóa châu Mỹ
      • Văn hóa châu Phi và châu Úc
    • Văn hóa học ứng dụng
      • VHƯD: Những vấn đề chung
      • VHH nghệ thuật
      • Văn hóa đại chúng
      • Văn hóa giao tiếp
      • Văn hóa du lịch
      • Văn hóa đô thị
      • Văn hóa kinh tế
      • Văn hóa quản trị
      • Văn hóa giáo dục - khoa học
    • Tài liệu phổ cập VHH
      • Văn hóa Việt Nam
      • Văn hóa thế giới
      • VHH ứng dụng
    • Tài liệu tiếng nước ngoài
      • Theory of Culturology
      • Vietnamese Culture
      • Applied Culturology
      • Other Cultures
      • 中文
      • Pусский язык
    • Thư Viện Số (Sách - Ảnh - Video)
      • Tủ sách Văn hoá học
      • Thư viện ảnh
      • Thư viện video
    • Các nhà văn hóa học nổi tiếng
  • Tiện ích
    • Dịch vụ Văn hóa học
    • Dịch vụ ngoài VHH
    • Trợ giúp vi tính
    • Từ điển Văn hóa học
    • Thư viện TT và Khoa
    • Tổng mục lục website
    • Tủ sách VHH Sài Gòn
    • Giải đáp thắc mắc
  • Thư giãn VHH
    • Văn chương Việt Nam
    • Văn chương nước ngoài
    • Nghệ thuật Việt Nam
    • Nghệ thuật thế giới
    • Hình ảnh vui
    • Video vui
  • Diễn đàn
  • Liên hệ
  • Trang chủ
  • Nghiên cứu
  • Văn hóa thế giới
  • Văn hóa Trung Hoa và Đông Bắc Á
Wednesday, 09 February 2011 15:15

Trần Phú Huệ Quang (trích dịch). Tháng giêng

Người post bài:  TT VHH

 

 

THÁNG GIÊNG

Huỳnh Cảnh Xuân

Trần Phú Huệ Quang (trích dịch)

Tục ngữ có câu: “Ác tháng năm, thiện tháng giêng”, ý nói tháng năm là tháng xấu, có khí không lành, gả cưới, sinh con, cất nhà đều không thích hợp; tháng giêng là tháng tốt, tràn đầy không khí kiết tường, thích hợp cho mọi việc. Mồng một đến mồng năm tháng giêng, khánh chúc hòa khí, ăn tết chúc tết náo nhiệt, điều cấm kỵ cũng nhiều; mồng sáu đến mười lăm, mười lăm đến cuối tháng, hầu như ngày nào cũng là ngày tết, hoạt động mừng lễ cũng phong phú đa dạng, khiến người ta phải hoa mắt. Theo tập tục truyền thống, mãi đến qua hết tháng giêng, sang tháng hai ăn tết mới xem như là kết thúc.

 

 

1. Tiểu niên triêu – “phá ngũ”

Bắt đầu từ mồng một tháng giêng đến trước ngày khai trương đầu năm, mỗi ngày các hoạt động tế thần linh, cúng tổ tiên, chúc tết, mừng tuổi, … đều diễn ra một cách sôi nổi, ngoài ra mỗi ngày còn có các hoạt động mang đặc sắc từng địa phương.

Mồng hai tháng giêng, những gia đình có người vừa mới mất phải cúng tế người thân qua đời, gọi là “thủ tiết” (lễ cúng đầu tiên). Trong Vinh Hà huyện chí của Sơn Tây có ghi tục: “ngày mồng hai, những gia đình vừa mới có tang, người thân đốt giấy tiền, gia đình nhà gái đặc biệt cúng giấy thỏi treo trước cửa, bà con trong xóm cũng đều cúng giấy thỏi, gọi là “thủ tiết”. Giang nam cũng có phong tục này, một số nơi ở Tô Châu trước giờ ngọ ngày này, gia đình vừa có tang cắm cây cờ giấy trước cửa, người trong xóm đều cúng thỏi giấy, gọi là “quá nhị tiết”, ngày đó ngừng hẳn các hoạt động chúc tết. Vùng Nam Kinh gọi ngày này là “sinh nhật nàng gạo”, người ta nấu cơm để cầu cát tường.

Mồng ba tháng giêng, vùng Chiếc Giang lại gọi là “tiểu niên triêu”. Trong Thanh gia lục – tiểu niên triêu của Cố Lộc đời Thanh có viết: “ngày mồng ba gọi là ‘tiểu niên triêu’, không quét nhà, không nhóm lửa, không vẩy nước”. Ngày này những nhà có giếng bên cạnh sáng sớm phải lấy nhang thắp, cúng thức ăn chay ở thành giếng, đồng thời gỡ bỏ giấy đỏ dán ở thành giếng lúc giao thừa, gọi là “khai tỉnh”. Ở một số nơi mồng ba còn phải làm sạch mộ tổ tiên, trong Trung Hoa toàn quốc phong tục chí ghi ở Sơn Đông, Hà Nam có “mồng ba tháng giêng tế tổ tiên, quét dọn mộ tổ tiên”. Còn có một số nơi con rễ phải chúc tết nhạc phụ, gọi là “tẩu sơ tam”; hoặc gia đình nhà gái đón con gái và con rễ về dự tiệc, gọi là “tam cô tam”. Lại tương truyền mồng ba là ngày sinh của ngũ cốc, tục tin rằng ngày này không nên ăn cơm gạo, nếu không sẽ làm gạo bị thương. Lại có tục rằng mồng ba tháng giêng là ngày sinh của ruộng, cho nên gọi là “điền bổn mệnh”.

Mồng bốn tháng giêng tương đối yên tĩnh, đại khái là vì phải chuẩn bị những việc cần thiết cho ngày khai trương đầu năm. Tuy nhiên vẫn có một số nơi có những hoạt động đặc biệt. Tương truyền một số nơi ở Chiếc Giang ngày mồng bốn ông Táo xét hộ khẩu, mọi thành viên trong nhà đều không được ra khỏi nhà.

Mồng năm tháng giêng là một ngày rất quan trọng sau những ngày tết, bởi vì qua ngày này một số những cấm kỵ ngày tết được phá bỏ, cho nên gọi là “phá ngũ”. Hoạt động chủ yếu của “phá ngũ” là “tống bần cùng” và “đón thần Tài”.

“Tống bần cùng”, cách gọi không giống nhau ở các địa phương, như còn gọi là “tống ngũ cùng”, “tống cùng thổ”, “tống cùng họa”, v.v.. Thực ra “cái nghèo” được tống đi chính là rác rưởi tồn động từ ngày Nguyên đán, người ta để mãi không vứt đi cho đến ngày này, cho rằng làm như vậy có thể giữ được tiền của, đổ rác đi tức là mất tài khí. Đến ngày “phá ngũ” những rác rưởi được tượng trưng cho tài phú này lại biến thành “cái nghèo”, “cái bần cùng”, trở thành tượng trưng cho “cái nghèo”, nhà nhà đều rộ lên đem đổ rác, tượng trưng cho tống khứ cái khí bần hàn. Có nhà lúc “tống cái nghèo” thắp vài nén hương, cúi lại, đồng thời miệng lâm râm câu cát lợi: “nghèo quỷ đi, phúc tinh đến”.

Ở khắp các nơi trong cả nước đều “tống bần cùng” vào ngày này, cách làm cụ thể thì có khác nhau. Thiểm Tây vào sáng sớm ngày mồng năm treo pháo vào cây tre, từ trong nhà đốt dài ra ngoài đến cửa lớn; hoặc cắt người giấy ném ra ngoài cửa lớn, cho rằng hai cách làm như vậy có thể tống cái bần cùng đi.

“Tống bần cùng” ở Hà Bắc có phần khác, Trương Bắc huyện chí ghi:

Ngày mồng năm tháng giêng tục gọi là “phá ngũ”. Các gia đình cắt giấy thành hình người phụ nữ, trên người mang túi giấy, đổ hết rác rưởi trong nhà vào túi giấy đem ra ngoài cửa đốt pháo, đốt nó, tục gọi là “tống cái nghèo mồng năm”.

Mã Ấp huyện chí ghi: Mồng năm, tục gọi là phá ngũ, lấy giấy màu cắt thành quần áo, có hình giống như con gái, canh năm vứt nó ra đầu đường, gọi là “tống cái nghèo con dâu ra khỏi nhà”.

Trong Đại Đồng phủ chí Sơn Tây ghi: Ngày mồng năm cắt giấy màu thành hình người, con nít ôm chơi ở con đường lớn, gọi là “tống bần cùng”; nếu có người cướp đi gọi là “đắc phúc”.

Trong Thọ Dương huyện chí An Huy ghi: Ngày mồng năm, sáng sớm dậy múc nước đổ vào vò, gọi là “điền cùng”. Cắt giấy làm phụ nữ nghèo vứt đi, gọi là “tống bần cùng”.

Tục “tống bần cùng” tương đối cổ xưa, trong Kinh sở tuế thời ký của Tống Lẫm có ghi “ngày cuối, tống cái nghèo khổ”. Về nguồn gốc của phong tục này, nên dẫn sách Kim cốc viên ký, thời cổ đại con trai của họ Cao Dương nọ, lớn lên người rất gầy, thích mặc áo rách, thích ăn cháo. Người ta may cho anh áo mới, anh ta liền xé rách, dùng lửa đốt cho có lỗ rồi mới mặc, những người trong cung gọi anh là “Cùng Tử” (anh nhà nghèo). Ngày cuối tháng giêng Cùng Tử chết ở ngõ phố. Về sau, ngày cuối tháng người ta cúng Cùng Tử, từ đó hình thành phong tục tống bần cùng. Tập tục tống cái bần cùng thời Tống Lẫm là làm cơm gạo thô ăn, vứt quần áo cũ rách, đồng thời cúng tế cái quỷ bần cùng đó ở ngõ phố – nơi Cùng Tử chết. Hàn Dũ – nhà văn học đời Đường đã từng viết bài “tế cùng văn”, chứng tỏ rằng đời Đường phong tục tống bần cùng đã thịnh hành. Thời nay, phong tục tống bần cùng ngày mồng năm tháng giêng tương đối phổ biến, tống bần cùng ngày cuối tháng giêng đã không còn thấy nữa.

“Phá ngũ” rất quan trọng đối với những gia đình buôn bán, một mặt là vì qua ngày phá ngũ họ phải khai trương buôn bán lại, mặt khác là vì ngày này phải “đón thần Tài”, rước thần Tài vào nhà mình, khấn cầu năm mới buôn bán thịnh vượng, tiền của dồi dào.

Tài phú là cơ sở vật chất làm cho cuộc sống con người được hạnh phúc, mỹ mãn. Nhân dân Trung Quốc trong quá trình phát triển lịch sử lâu đời, đã sáng tạo ra hàng loạt thần Tài, thần Tài văn có Tỷ Can, Phạm Lãi (Đào Chu Công), thần Tài võ có Triệu Huyền Đàn (Triệu Công nguyên soái), Quan Công; Tứ Phúc Thiên Quan trong tín ngưỡng dân gian, bên cạnh lại có Lợi Thị Tiên Quan, cũng là một ông thần Tài. Ngoài ra, dân gian còn sùng bái Ngũ Lộ thần Tài, tức là Triệu Công nguyên soái, Chiêu Bảo, Nạp Trân, Chiêu Tài, Lợi Thị Ngũ Thần. Có nhiều vị thần Tài như vậy, nhưng người ta không phân biệt phải đón vị thần Tài nào, chỉ là vào sáng sớm ngày phá ngũ đó đốt pháo thì gọi là “đón thần Tài”. Ở Thượng Hải – thành phố lớn nhất Trung Quốc, pháo nổ đón thần Tài ngày phá ngũ thật khiếp sợ, không kém gì đêm giao thừa và ngày Nguyên đán. Có những thị dân không dán câu đối tết, không treo tranh tết, không tế thần linh, không cúng tổ tiên, duy chỉ có lòng thành tin tưởng thần Tài, cúng lạy không ngớt. Giao thừa đã cúng tế, phá ngũ vẫn không được sơ sài; không chỉ có đốt pháo đón thần Tài, thậm chí có gia đình còn đặt ông thần Tài mạ vàng ở vị trí sáng sủa dễ thấy, khấn lạy bốn mùa.

Thời xưa ở Bắc Kinh sáng sớm mồng hai tháng giêng, nhà ở hay thương hiệu đều phải cúng thần Tài. Bắc Kinh thờ thần “Tam tài”, ngồi đầu là Quan Thánh Đế, hai vị còn lại là thừa tướng Tỷ Can và Triệu Huyền Đàn nguyên soái. Ngày phá ngũ cũng có tập tục cúng thần Tài, song được đổi sang cách gọi khác, gọi là “tiễn thần”. Nói rằng đêm giao thừa rước thần Tài về rồi, ngày phá ngũ tiễn thần Tài lên trời, đồng thời làm lễ khai trương. Thường Nhân Xuân trong Phong tục của Bắc Kinh xưa có nói:

Sau khi tiễn thần, pháo nổ rền vang, bọn người làm thuê dồn hết sức mạnh lắc cái bàn tính, dùng đòn cân gõ vào bàn cân, âm thanh vang lên cả nhà, gọi là “xèng xèng tang tang, đại kiết đại lợi”. Lúc này có bọn hành khất đến hát “hỷ ca”, ông chủ ít cũng phải thưởng cho họ vài đồng “hỷ tiền”. Trong không khí chúc nguyện náo nhiệt như vậy, cửa hiệu mở ván cửa ra, xuất hiện câu đối đỏ “Khai thị đại cát, vạn sự hanh thông” đã được dán sẵn, bắt đầu chính thức khai trương.

Phá ngũ là ngày “phá”, ở một số nơi như vùng Đông Bắc cho rằng mọi việc đều không tốt lành. Ngày này sinh con nhất định sẽ làm hại cha nó. Do vậy mà có tục “niết phá ngũ”, tức là vào ngày này gói nhiều sủi cảo, có thể bù cho chữ “phá” trong “phá ngũ”, hóa hung thành kiết. Đây cũng chính là nguyên nhân tại sao ngày phá ngũ nhất định phải ăn sủi cảo.

2. Đeo thắng ngày Con người

Mồng bảy tháng giêng còn gọi là “nhân nhật”, “nhân tiết” (ngày con Người). Đời Đường gọi là “nhân thắng tiết”. Theo phong tục tín ngưỡng truyền thống vào ngày này con người giáng sinh xuống trần thế, vào ngày này phải dùng bảy loại rau nấu canh , dùng vải màu cắt thành hình người, hoặc khắc chạm giấy thếp vàng giống hình người, dán ở bình phong, màn giường, hoặc đội lên đầu; lại còn tạo ra các loại “hoa thắng” tặng lẫn nhau để cầu phúc tránh họa. “Nhân nhật” phải tôn trọng mỗi con người, đến quan phủ cũng không được xử quyết tội phạm vào ngày này.

Về nguồn gốc của “nhân nhật”, dựa theo sự giải thích của Đạo gia, trời đất ngày mồng một tháng giêng sinh gà trước, mồng hai sinh chó, từ mồng ba đến mồng sáu sinh các con vật khác như lợn dê bò ngựa, đến mồng bảy mới sinh con người. Sau khi sinh con người thì tôn trọng con người nhất.

Thật ra, sự xuất hiện của “nhân nhật” là do các hoạt động bói toán thời cổ đại mà thành. Theo “Chiêm thư” danh Đông Phương Sóc đời Hán có ghi: “tám ngày tết, ngày một gà, ngày hai chó, ngày ba lợn, ngày bốn dê, ngày năm bò, ngày sáu ngựa, ngày bảy Người, ngày tám ngũ cốc. Ngày nắng ắt điềm lành, ngày âm u ắt có họa”. Loại bói toán này đến thời cận đại vẫn còn. Hồ Bắc ăn tết, các cụ nông dân xem thời tiết nắng tốt hay âm u trong mười ngày từ mồng một đến mồng mười để bói sự vật trong năm. Có câu ngạn ngữ về bói toán này: một gà, hai chó, ba lợn, bốn dê, năm bò, sáu ngựa, bảy người, tám cốc, chín vừng, mười đậu. Ngày nào trời âm u đến không thấy mặt trời tức trong năm vật đó bị tổn hại.

Do bói toán hình thành nên tín ngưỡng, người ta cho rằng ngày của vật nào là ngày sinh của vật đó, là ngày đặc biệt kính lễ đối với vật đó. Ví dụ như mồng một là ngày sinh của gà thì không ăn thịt gà, phải cẩn thận cho gà ăn, mồng bốn là ngày sinh của dê thì không ăn thịt dê, phải cho dê ăn no.

Con người là trưởng của vạn vật, cho nên ngày của con Người càng đặc biệt xem trọng các hoạt động trọng người tôn kính người hơn. Kinh sở tuế thời ký viết:

Mồng bảy tháng giêng là ngày của con người, lấy bảy loại rau nấu thành canh, hoặc chạm vàng thành hình người, hoặc dán ở tấm bình phong, hoặc đội lên đầu. Lại còn tạo “hoa thắng” để tặng cho nhau.

Cái gọi là “cắt giấy màu thành người”, “thếp vàng thành người”, đó chính là “nhân thắng”; cái gọi là “tạo hoa thắng để tặng nhau”, “hoa thắng” (华胜) tức là “hoa thắng” (花胜). “Thắng” (胜) là đồ trang sức của phụ nữ cổ đại đeo trên đầu, có ý nghĩa là đẹp đẽ, nổi bật. Tây Vương Mẫu trong thần thoại cổ đại Trung Quốc có đeo loại trang sức này, trong “Sơn hải kinh – Tây Sơn kinh” nói Tây Vương Mẫu “tóc bồng đội thắng”. Thắng có nhiều loại, ngày của con Người chủ yếu dùng nhân thắng hoặc hoa thắng. Nhân thắng nói chung là cắt giấy thành hình người; hoa thắng là cắt thành hình hoa, chim, gần giống với kết hoa ngày nay. Phụ nữ quý tộc Trung Quốc cổ đại không chỉ đeo thắng vào ngày của con Người, ngày thường cũng dùng loại trang sức cao nhã. Phụ nữ những gia đình thường dân chỉ đến ngày của con Người mới làm nhân thắng, hoa thắng để đeo và tặng người khác.

Đời Đường, vào “nhân nhật” phụ nữ phải cắt giấy màu làm nhân thắng, cho nên còn gọi là “nhân thắng tiết” (ngày lễ nhân thắng). Lúc đó có nhiều nhà thơ còn lưu lại những bài thơ tả ngày lễ nhân thắng.

Thời cận đại, tục “nhân nhật đeo thắng” vẫn còn, trong Giang Nam chí thư viết rằng: “nhân nhật phụ nữ cắt giấy màu thành hình người, hoặc để tặng lẫn nhau, hoặc làm đồ trang sức”. Tuy nhiên ngày nay tập tục xa xưa này đã không còn nữa, nó mất đi cùng với rất nhiều phong tục khác qua dòng chảy của lịch sử.

Qua ngày lễ con Người, ngày mồng tám tháng giêng phải “tế tinh”, còn gọi là “tiếp tinh”. Tương truyền ngày này là ngày các vì sao trên trời hạ giới, mọi người đều phải thắp hương lễ bái, chùa phải lập đàn tế tinh, nhận bố thí. Tuỳ theo thí chủ bố thí nhiều ít mà tặng trở lại hoặc để lại dùng chay. Có những nơi khi “tiếp tinh” không quên khẩn cầu năm mới dồi dào.

Mồng chín tháng giêng là ngày sinh của Ngọc hoàng đại đế. Xưa kia dân gian tin rằng Ngọc đế là hoàng đế thiên đình, chí cao vô thượng, chủ tể trên trời và muôn sự trần gian. Ở Hồ Châu Chiếc Giang vào ngày này, mọi người đều phải thắp hương bái lạy mừng sinh nhật Ngọc hoàng. Phía nam Phúc Kiến trước đêm sinh nhật Thiên công một ngày đã chuẩn bị pháo sẵn, giờ tý vừa qua là đốt ngay, cúng trái cây, đầu lợn, bánh v.v.. Giang Tô ngày mồng chín nhà nhà đều đốt pháo, thắp hương, kính thiên, kính địa, có người còn tụng kinh.

Mồng mười tháng giêng tập tục tín ngưỡng càng nhiều, lễ càng long trọng. Tương truyền “mồng mười” 初十 chushi (trùng âm với “xuất thạch” 出石 chushi) là ngày sinh của đá, người ta phải đến trước một hòn đá to thắp hương cúng bái. Ngày xưa có cách nói “thập (thạch) bất động”, tất cả các đồ dùng bằng đá như cối đều không được dùng đến. Tục này ở Hà Nam đến nay còn giữ lại: các cụ sáng sớm thức dậy, đến bên hòn đá to đốt pháo, cầu khấn. Trên thực tế đây là tàn dư của tín ngưỡng nguyên thủy “vạn vật hữu linh” còn lưu giữ đến cuộc sống hiện đại.

Tương truyền ngày này chuột gả chồng, người ta có thói quen đêm đó đốt đèn sáng đêm để thắp sáng cho bọn chuột vừa mới cưới gả; làm nhiều món ăn cho chuột, dâng cho chúng hưởng thụ ngày vui song hỷ. Người ta đối xử tốt với chuột để chúng không phá hoại lương thực, không cắn rách quần áo.

Trương Bắc huyện chí tỉnh Hà Bắc có ghi: Ngày mồng mười tháng giêng gọi là “thập chí”. Ngày này là ngày chuột cưới con dâu về. Các gia đình làm bánh hoặc nấu cơm rải khắp các nơi để cho chuột ăn, thấp hương chúc mừng, để tránh chuột phá hoại.

Cũng có nơi lấy các ngày mười hai, mười bảy, hai mươi bốn làm ngày chuột gả chồng, các nơi đều tổ chức một ngày lễ đặc biệt cho chuột, điều này phản ánh sự ảnh hưởng to lớn của chuột đối với đời sống con người.

3. Tết nguyên tiêu

Tết nguyên tiêu là một cao trào trong hoạt động chúc mừng năm mới, bởi vì suốt đêm người ta đốt đèn kết hoa thưởng thức vui vẻ cho nên còn gọi là “tết đèn”. Tết nguyên tiêu ngày mười lăm tháng giêng là thời điểm náo nhiệt nhất trong năm, từ thành phố cho đến thôn quê đèn đuốc sáng trưng, màu sắc sặc sỡ. Nam nữ lão ấu áo quần tươm tất, vui chơi hết mình, thưởng thức hoa đăng, dạo chơi ngắm cảnh. Có người nói rằng tết nguyên tiêu là một cái tết “cuồng hoan” của người Trung Quốc.

Tết nguyên tiêu có lịch sử lâu đời. “Nguyên” có nghĩa là bắt đầu, khởi đầu của một năm gọi là “nguyên nguyệt” (tháng đầu tiên), “tiêu” có nghĩa là đêm. “Nguyên tiêu” có ý nghĩa là đêm trăng tròn đầu tiên trong một năm. Tương truyền thời đầu Tây Hán, Lã Hầu chuyên chế, họ Lữ tác loạn, Hán Văn đế dưới sự giúp đỡ của đại thần Chu Bột dẹp yên phiến loạn lên ngôi. Ngày đó đúng vào ngày mười lăm tháng giêng. Về sau, mỗi khi đến tối mười lăm tháng giêng, Hán Văn đế xuất cung du ngoạn, vui cùng nhân dân, đồng thời định ngày này là ngày tết nguyên tiêu.

Việc lấy sự kiện lịch sử làm sự giải thích nguồn gốc của ngày lễ làm cho người ta thích thú, tuy nhiên đã bỏ qua nguồn gốc văn hóa lịch sử sâu xa của sự sản sinh ngày lễ.

Bề dày văn hóa đã có một quá trình phát triển hơn ngàn năm. Trước tiên, khởi nguồn từ Đạo giáo, văn hóa Đạo giáo có cách nói “tam nguyên” thần, cho rằng Thượng Nguyên Thiên Cung, Trung Nguyên Địa Cung, Hạ Nguyên Thuỷ Cung lần lượt sinh ra vào các ngày mười lăm tháng giêng, mười lăm tháng bảy và mười lăm tháng mười, do vậy mà ba ngày này lần lượt là thượng nguyên, trung nguyên, hạ nguyên. Vào những ngày “tam nguyên” này đều phải cử hành hoạt động cúng tế. Trong đó Thượng nguyên còn gọi là “tết thượng nguyên” – một cách gọi khác của tết nguyên tiêu. Dựa theo cách giải thích này, tết nguyên tiêu có nguồn gốc từ hoạt động cúng tế Thượng Nguyên Thiên Cung.

Không chỉ như thế, văn hóa Đạo giáo và tết nguyên tiêu còn có một mối quan hệ. Sử ký – lạc thư có ghi: “Hán gia thường tháng giêng lên từ đường Thái Nhất cam tuyền, từ lúc chiều tối đến sáng thì kết thúc”.

Thái Nhất (太一) còn gọi là Thái Nhất (泰一), Thái Ất (泰乙), thời Chiến Quốc là một vị thần minh hiển hách, địa vị trên Tam hoàng Ngũ đế.  “Sử ký – Phong đàn thư” viết: “thiên thần quý Thái Nhất, phò tá Thái Nhất gọi là Ngũ đế.” Hán Vũ Đế lập Thọ cung thần quân. Thọ cung thần quân quý nhất Thái Nhất, phò tá thuộc về đại cấm, tư mệnh”. Hán Vũ đế thờ cúng Thái Nhất rất long trọng, thời gian cúng tế ông đúng vào thượng nguyên, bắt đầu lúc hoàng hôn, đến sáng ngày hôm sau mới kết thúc, nghi lễ cúng tế này không nghi ngờ gì là hoạt động thúc đẩy sự hình thành tết nguyên tiêu.

Thứ đến, sự xuất hiện tập tục treo đèn ngắm đèn của tết nguyên tiêu còn có liên quan đến Phật giáo. Minh đế Đông Hán đề cao Phật giáo, phổ biến kinh Phật, vào đêm Thượng nguyên làm “nhiên đăng biểu Phật” ở cung đình và sân chùa, lệnh cho nhà nhà từ quý tộc cho đến thứ dân đều phải treo đèn, sau này lâu dần thành tục, treo đèn trở thành thịnh hành vào tết Nguyên tiêu.

Ở Trung Quốc, tết Nguyên tiêu không giống với các ngày lễ dân gian khác ở chỗ, nó không chỉ là sự sáng tạo của dân gian, cũng không chỉ là phát sinh từ Đạo giáo hay Phật giáo, mà lúc ban đầu nó có liên quan mật thiết với hoạt động đế vương trong cung đình. Qua sự khởi xướng của các nhà thống trị các triều đại đã thúc đẩy hoạt động mừng tết Nguyên tiêu càng ngày càng náo nhiệt hơn, cuối cùng đưa đến mức độ vui chơi tột cùng trên toàn quốc.

Đời Hán, kinh đô ngày thường thực hành lệnh cấm đêm, cấm người ta đi lại vào ban đêm, duy chỉ có đêm mười lăm tháng giêng là được phép đi lại thoải mái để cho muôn dân vui tết.

Đời Nam Bắc Triều hoạt động mừng tết nguyên tiêu còn náo nhiệt hơn đời Hán, Lương Giản Văn đế đã từng viết “Liệt đăng phú”, miêu tả cảnh đốt đèn nguyên tiêu: “Nam du cụ mãn, lưỡng tất tranh nhiên. Tô chinh an tức, lạp xuất long xuyên”.

Đầu triều Tuỳ có một vị đại thần tâu lên Tùy Văn đế cấm hoạt động mừng tết Nguyên tiêu, nguyên nhân là vì hoạt động vui tết Nguyên tiêu long trọng náo nhiệt sẽ làm tổn hao tài lực, nam nữ kết bạn sẽ làm tổn hại đến giáo hóa. Văn Đế thấy quốc lực có hạn, cũng suy nghĩ về vấn đề giáo hóa mà hạ chiếu cấm hoạt động mừng tết Nguyên tiêu, những viên quan không thực hiện triệt để lệnh cấm bị bãi chức. Tuy nhiên con trai của Văn Đế là Tuỳ Dạng Đế – một vị bạo chúa nổi tiếng trong lịch sử – lại khởi xướng lại mừng tết Nguyên tiêu, và còn phô trương treo đèn tổ chức các hoạt động vui chơi ngày tết.

Trong “Tùy thư – Âm nhạc chí” có ghi: Tháng giêng mỗi năm vạn quốc lai triều, ở lại đến ngày mười lăm, từ cổng ngoài vào trong cổng thành, kéo dài tám dặm, giống như rạp xiết. Trăm quan dựng lều chen nhau trên đường, từ chiều tối đến sáng, cùng nhau chung hưởng. Đến ngày cuối tháng mới kết thúc. Ca nhi vũ nữ mặc áo cẩm muôn màu. Ca vũ đa số do nữ nhi phục vụ, vang lên âm thanh những vòng trang sức, kết hoa liền nhau, gần ba vạn người.

Tùy Dạng đế còn nhiều lần dạo chợ đèn nguyên tiêu. “Tuỳ thư – Dạng đế ký” nói rằng: “tháng giêng mùa xuân năm thứ sáu, cuộc biểu diễn lớn ở đầu đường, vũ nữ trong thiên hạ tụ về biểu diễn những vũ đạo lạ mắt, đến cuối tháng mới chấm dứt. Vua đi xem.” Tuỳ Dạng đế còn viết bài thơ “Ngày mười lăm tháng giêng lên lầu nam xem đêm đèn ở con đường lớn”:

Pháp luân thiên thượng chuyển,

Phạn thanh thiên thượng lai.

Đăng thụ thiên quang chiếu,

Hoa diệm thất kĩ khai.

Nguyệt ảnh nghi lưu thủy,

Xuân phong hàm dạ mai.

Phiên động hoàng kim địa,

Chung phát lưu li đài.

Lúc đó, những đại thần, những nhà thơ khác cũng đều có những tác phẩm ca ngợi cảnh thịnh vượng tết Nguyên tiêu.

Triều Đường là thời đại xã hội an định, kinh tế phát triển phồn vinh nhất trong lịch sử Trung Quốc, hoạt động khánh chúc tết Nguyên tiêu với quy mô càng lớn, trọng đại hơn so với thời Tùy Dạng đế. Đường Minh Hoàng phong lưu hào phóng, lúc thịnh trị đã hạ chỉ đốt đèn vui chơi ba ngày mười bốn mười lăm mười sáu tháng giêng để chúc mừng quốc thái dân an. Nhà thơ đời Đường Tô Vị Đạo có bài thơ nổi tiếng miêu tả nhân dân cuồng nhiệt vui tết Nguyên tiêu “Chính nguyệt thập ngũ dạ”:

Hỏa thụ ngân hoa hợp,

Tinh kiều thép tỏa khai.

Ám trần tùy mã khứ,

Minh nguyệt trục nhân lai.

Du kĩ giai giá quí,

Hành ca tận lạc mai.

Kim ngô dạ bất cấm,

Ngọc lộ mạc tương thôi.

Đêm mười lăm tháng giêng, treo cao đèn màu, cổng thành thành đô mở lớn, nhân dân hân hoan vào thành thưởng thức hoa đăng, xem ca vũ, lệnh cấm đêm không còn, khách vui chơi cũng quên thời gian sớm tối, tận hưởng lạc thú.

Đến đời Tống, tết hoa đăng từ ba ngày kéo dài đến năm ngày, từ mười ba tháng giêng thi đèn kéo dài đến mười tám tháng giêng mới thu đèn lại. Không chỉ thời gian tết kéo dài, mà hoàng đế cũng tham dự nhiều hoạt động mừng tết. Hoàng đế Tống triều phất cờ hiệu “dữ dân đồng lạc” (vui cùng nhân dân), cực kỳ xa hoa. Tống Huy Tông lên lầu Tuyên Đức xem đèn, ban thưởng cho cung nữ dưới lầu ngưỡng nhìn trộm thánh nhan mỗi người một ly ngự tửu. Bề trên tốt, dưới ắt tôn sùng vậy. Đời Tống cảnh treo đèn tết Nguyên tiêu còn thịnh hơn đời Đường, “Đông kinh mộng hoa lục” ghi: đêm tết, Biện Kinh hoa đăng bảo cự, trăng thanh hoa đẹp, sương mù lớp lớp, ánh nến xa gần, có nơi hoa đăng ánh màu sáng trưng, mãi đến trời sáng. Thời Nam Tống thành Tô Châu tết đèn nguyên tiêu rất phồn hoa, nhà thơ Phạm Thành Đại trong “Đăng thị hành” miêu tả như sau: “Tô Châu từ xưa đến nay là vùng đất phồn hoa, rất yêu thích cảnh hoa đăng nguyên tiêu; sau tháng chạp trước xuân trời nắng tốt, đã có chợ làm đèn ở đầu đường.

Đến đời Minh định đô Kim Lăng, Chu Nguyên Chương quy định tết nguyên tiêu từ tối mồng tám tháng giêng bắt đầu treo đèn, kéo dài đến mười bảy tháng giêng mới hạ đèn, thời gian mười đêm, là lễ đốt đèn dài nhất trong lịch sử Trung Quốc. Đời Minh quang cảnh lễ đèn náo  nhiệt không khác gì các triều đại trước, chỉ là chế tạo đèn càng tinh xảo hơn, càng muôn hình muôn vẻ hơn.

Đời Thanh, Mãn Châu làm chủ Trung nguyên, tết Nguyên tiêu thu ngắn còn bốn ngày, tuy nhiên người ta vẫn còn rất nhiệt tình đối với ngày lễ này. “Đế kinh tuế thời ký thắng” viết: “thành thị treo đèn bốn đêm từ mười ba đến mười sáu, đêm không cấm”. Tuy nhiên, những năm cuối triều Thanh xã hội biến động, trong loạn ngoài giặc không an, thành thị suy vi, nhân dân khốn khổ, quy mô treo đèn ở đô thị dần dần thu nhỏ. Nhưng hoạt động vui chơi đốt đèn ở thành thị lẫn nông thôn đều không bị đứt đoạn, qua Dân quốc và đến ngày hôm nay, “nguyên tiêu đăng hỏa” vẫn là đại danh từ của sự náo nhiệt.

Đối tượng chủ yếu của vui chơi tết nguyên tiêu là hoa đăng, còn gọi là “đèn màu”, “lồng đèn”. Hoa đăng là sản phẩm nghệ thuật tinh tế mỹ thuật của nhân dân cổ đại Trung Quốc sáng tạo. Đời Tây hán đã có đèn màu, đến sau đời Đường khởi lên sự sáng tạo mới của thợ thủ công tài năng được truyền trăm ngàn năm, nghệ thuật đèn màu phát triển muôn hình muôn vẻ khác nhau. Về kiểu dáng có quá đăng đới tuệ, tọa đăng mỹ quan, bích đăng tú lệ, đề đăng tinh xảo, tẩu mã đăng lung linh v.v.. Về mặt tạo hình có đèn sơn thủy, nhân vật, đèn chim, cá, hoa, trúc v.v.. Thường thấy nhất có dương giác đăng, lão hổ đăng, kim ngư đăng, tú cầu đăng, trường sinh đăng, bách hoa đăng, cữu quang đăng, trường minh đăng, thanh ngọc đăng, hà hoa đăng, cữu liên đăng, bạch thái đăng, còn có long đăng, vân đăng, cung đăng v.v. đặc sắc của các dân tộc, muôn hình vạn trạng, rực rỡ sắc màu. Có loại đèn tạo thành hình người, những nhân vật lịch sử, nhân vật hí kịch, nhân vật thần thoại sống động như thật đứng phía mặt trước, như “Mộc Lan tòng quân”, “thiên nữ tán hoa”, “bát tiên quá hải”, “Quan Công dạ khán xuân thu”, “Lý Bạch túy tửu”, “Võ Tòng đả hổ”, v.v.. Thời Minh Thanh nhiều nơi ở Bắc Kinh, Nam Kinh ban ngày “đăng thị khẩu” nhóm chợ, tối đến trương đèn, người ta tụ họp ngắm hoa đăng, tấp nập không dứt. Trong buổi hoa đăng tranh kỳ đấu sắc, sắc xảo nhất là tẩu mã đăng.

Tẩu mã đăng đã được chế tạo từ thời Nam Bắc triều, “Kinh sở tuế thời ký” nói đến thiết kế kỳ diệu “đăng dĩ hỏa vận” của nó. Do thiết kế đèn tự động xoay chuyển, con ngựa được vẽ trên bề mặt giống như đang chạy không ngừng, nên gọi là “tẩu mã đăng”. Kỳ diệu của tự động xoay chuyển ở chỗ cái bánh xe giấy phía trên ngọn nến, do đốt đèn lên, nhiệt độ không khí tăng làm cho không khí trong lồng đèn không ngừng đối lưu, tạo nên luồng gió nóng làm xoay chuyển bánh xe gió, cái chụp đèn mà được nối với trục bánh đà chuyển động, tròn tròn không ngừng. Tiến sĩ Liyueqin – nhà khoa học Anh – trong quyển “Trung Quốc khoa học kỹ thuật sử” nổi tiếng của ông nói rằng tẩu mã đăng là một phát minh quan trọng của nhân dân cổ đại Trung Quốc.

Tết Nguyên tiêu chơi đèn còn có một trò tao nhã – chơi đố đèn. Gọi là đố đèn tức là dán câu đố trên đèn, để người ngắm đèn đoán, người đoán trúng để lại mảnh giấy nhận quà thưởng. Đây là sự kết hợp tuyệt diệu giữa câu đố và tết hoa đăng cổ đại Trung Quốc.

Đến đời Tống câu đố và chơi đèn tết Nguyên tiêu kết hợp lẫn nhau, làm phong phú hoạt động vui chơi ngày lễ. Ở những thành phố phồn hoa như Kinh Sư, Tô Châu, Dương Châu mỗi khi đến Nguyên tiêu làm lồng đèn Thượng nguyên, văn nhân nhã sĩ tụ về ngắm đèn đoán câu đối, gọi là “đả đăng hổ” (bắn hổ cực kỳ khó, câu đối trên đèn cũng khó như bắn hổ vậy, cho nên mới có tên như thế). Những người đoán trúng nhận được giải thưởng là các vật dụng văn nhã như bút mực, chiếc quạt trắng, v.v..

Câu đố đèn – hình thức giải trí nho nhã này còn rất được các tiểu thư khuê các yêu thích, các khuê tú gia đình có học thức thường lấy trò đoán câu đố đèn làm trò giải trí tao nhã, vui chơi không mệt mỏi. Tác phẩm văn học cổ điển nổi tiếng của Trung Quốc “Hồng lâu mộng” đã nhiều lần miêu tả cảnh các tiểu thơ, thiếu phụ đoán câu đố.

Tết nguyên tiêu không chỉ có hoạt động vui chơi giải trí mà còn có hoạt động thờ cúng. “Tẩu bách bệnh” là những phụ nữ đi khắp nơi vào đêm nguyên tiêu, đi đến đầu đường cuối xóm thậm chí là đi ra ngoài xóm, tục tin rằng đi như vậy có thể giải trừ  trăm bệnh. “Cấm Tử Cô” là phụ nữ xem bói về mùa vụ trong năm và lành dữ trong gia đình. Tử Cô là Xí thần, mỗi khi đến tết nguyên tiêu họ lấy chổi cỏ bó thành hình người, đến bên chuồng ngựa tế phân ngựa và hát bài ca phân ngựa thơm, sau đó hỏi mùa vụ tằm tang trong năm tốt xấu, Tử Cô có thể gật đầu trả lời, lấy đó mà biết được việc muốn bói. Các cô gái chưa lập gia đình có thể hỏi vị phu quân tương lai, những người đã có gia đình hỏi về việc sinh con trai hay gái. Các hoạt động cúng tế này hiện nay đã không còn nữa, do vậy mà tết Nguyên tiêu ngày nay đã biến thành một ngày lễ vui chơi hoàn toàn.

Tết Nguyên tiêu náo nhiệt vô cùng, người ta vui chơi hoang lạc, trong lịch sử còn để lại hàng loạt những câu chuyện vui tai, những lời thơ đẹp.

Câu thành ngữ “chỉ cho quan châu đốt lửa, không cho thường dân đốt đèn” sinh ra từ bối cảnh vui tết Nguyên tiêu. Tương truyền đời Tống có người tên là Điền Đăng làm quan châu, ngang ngược tàn bạo chuyên quyền, tự cho là không ai bằng mình, để cho bà con tránh cái tên húy “Đăng” (登 deng) của ông, đã cấm không cho bà con nói từ “đăng” (灯 deng). “Điểm đăng” (点灯 diandeng đốt đèn) gần âm với “Điền Đăng”, cho nên cũng không cho nói, bà con không được nói “điểm đăng” (đốt đèn) mà phải nói là “phóng hỏa” (đốt lửa). Tết Nguyên tiêu đến, Điền Đăng ban cáo thị: “Bổn châu y lệ, phóng hỏa tam nhật”. Lúc đó người ta châm biếm ông là “phóng hỏa châu quan”, và xuất hiện lời bất bình “chỉ cho quan châu đốt lửa, không cho bá tánh đốt đèn”.

Phúc Châu đời Tống có một ông quan châu họ Thái, để tạo cảnh thái bình giả tạo, tết Nguyên tiêu đến ông ra một lệnh người dân Phúc Châu mỗi hộ phải treo đèn bảy ngọn. Người dân nghèo khổ đến dầu để ăn còn không có, chớ đừng nói chi là đèn bảy ngọn, cho nên đến một ngọn cũng không có. Có một người học thức tên là Trần Liệt, ông ta làm một cái hoa đăng cao một trượng, trên đèn viết một bài thơ:

Phú gia nhất trản đăng,

Thái thương nhất lạp túc;

Cùng gia nhất trản đăng,

Phụ tử tương đối khấp.

Phong lưu thái thủ tri bất tri,

Thùy hận sênh ca vô diệu khúc!

(Dịch nghĩa: Nhà giàu một ngọn đèn, kho lớn một hạt thóc; nhà nghèo một ngọn đèn, cha con cùng nhau khóc. Thái thủ phong lưu biết hay chăng, ai hận sênh ca không có khúc nhạc hay!)

Ông quan họ Thái này còn có chút sáng suốt, biết sai nên sửa, thu lại lệnh, trăm họ cũng thoát khỏi cảnh khốn đốn.

Hoàng đế Tống triều mỗi khi đến tết Nguyên tiêu “vui cùng nhân dân”, tương tự cũng tạo ra một số câu chuyện vui. Tống Huy Tông đến đêm Nguyên tiêu thì phải tự thân lên lầu Tuyên Đức, và ban cho cung nữ dưới lầu ngước lên ngắm long nhan mỗi người một ly ngự tửu. Có một lần, có một người cung nữ lúc vui chơi đã cắp ly rượu vàng, bị thị vệ bắt giữ. Huy Tông hỏi việc gì, trong cái khó ló cái khôn, người đó trong lúc nguy cấp đã nghĩ ra một cách, liền ngâm bài “Giá cô thiên”.

Huy Tông nghe lấy làm vui thích, không truy cứu tội ăn cắp ly nữa, ngược lại còn lấy ly vàng ban cho cô ta.

Do sự trói buộc của lễ giáo phong kiến, nam nữ thanh niên “thụ thụ bất thân”, ngày thường rất ít có cơ hội tiếp xúc; nhưng đến tết Nguyên tiêu nam nữ cùng nhau đi chơi, làm cho họ có cơ hội tự do gặp nhau, lòng mong muốn tự do tình ái có thể bùng lên như lửa. Có những cặp nam nữ thanh niên tình ý đã sâu sắc, trong lòng khó giải bày. Tống từ có miêu tả điều này:

Hỏa thụ ngân hoa xúc nguyệt hồng,

Yết thiên cổ  xuy náo xuân phong.

Tân hoan nhập thủ mang sầu lý,

Cựu sự kinh tâm ức mộng trung.

Đản nguyện tạm thành nhân khiển quyển

Bất phương thường nhiệm nguyệt mung lung.

Bài này miêu tả tâm tình phức tạp của đôi trai gái hò hẹn đêm tết nguyên tiêu, gọi là một tuyệt tác miêu tả tâm lý tình ái phức tạp ở thời cổ đại Trung Quốc.

Tuy nhiên, do sự trói buộc của lễ giáo phong kiến, địa vị của phụ nữ thấp kém, cuộc đời của họ không thể tự quyết định được, không ít những đôi trai gái yêu nhau mà không thành vợ thành chồng được. Trong “Sinh tra tử – nguyên tịch” Âu Dương Tu viết:

Đêm nguyên tiêu năm trước, phố hoa đèn sáng như ban ngày.

Trăng lên đến đầu ngọn liễu, người ta hẹn nhau sau hoàng hôn.

Đêm tết nguyên tiêu năm nay, trăng và đèn như xưa.

Không thấy người năm cũ, lệ đẫm tay áo xuân.

Bài này là tác phẩm nổi tiếng miêu tả cuộc tình bất hạnh của đôi trai gái yêu nhau. Họ phá vòng lễ giáo hẹn nhau vào đêm Nguyên tiêu. Đến năm sau người con trai đến chỗ hẹn năm xưa, nhưng cô gái thì biền biệt xa xôi, hẹn nhau sau một “hoàng hôn” duy nhất năm cũ đã thành ký ức đau khổ suốt đời.

Tết Nguyên tiêu còn là thời điểm chơi lồng đèn, múa sư tử, đi cà kheo, múa chèo thuyền náo nhiệt nhất, đường lớn hẻm nhỏ, đầu người nhấp nhô, thôn trấn thành thị, khua chiêng đánh trống. Người lớn vui mừng, trẻ con càng hưng phấn, Hà Bắc có bài đồng dao:

Gió đến rồi, mưa đến rồi,

Một đoàn người đánh trống đến rồi.

Trống gì, trống đại hoa,

Thùng thùng thùng, ăn mười lăm.

Giao thừa và Nguyên tiêu là cao trào số một của hoạt động mừng tết, người ta bận rộn việc cúng tế và chúc tết, đón cái đến tiễn cái đi, không khí ăn tết dần dần nhạt dần. Ngày tết Nguyên tiêu đến, phá vỡ sự yên tĩnh của mấy ngày liên tiếp, một lần nữa làm cho các hoạt động vui chơi khánh chúc của tết trở lại rộn ràng. Sau khi ăn tết Nguyên tiêu, việc tết dần dần nhạt đi, nhưng vẫn chưa kết thúc, các hoạt động như ngày tết vẫn diễn ra.

4. Sau hai tháng hai không còn tết

Nhìn chung sau tết Nguyên tiêu là đã kết thúc “ăn tết”, đa số các điều cấm kỵ trong thời gian ăn tết đã không còn, nông dân bắt đầu bắt tay vào việc đồng án. Vô Tích có câu tục ngữ: “qua nửa tháng giêng, mọi người tìm việc làm”, cũng là nói sau ngày mười lăm tháng giêng, người ta trở lại cuộc sống bình thường, bắt đầu lao động sản xuất. Thật ra, theo tập tục truyền thống cả tháng giêng đều là “ăn tết”, người quen bạn bè lần đầu tiên gặp nhau sau tết đều chúc tết muộn lẫn nhau. Qua tết Nguyên tiêu vẫn có thể đến nhà người thân tặng quà chúc tết, điều này cũng không ảnh hưởng gì.

Sau tết Nguyên tiêu một số hoạt động lễ vẫn mang ý nghĩa chúc phúc.

Ngày hai mươi tháng giêng là “thiên xuyên tiết” (lễ vá trời). Tương truyền thời cổ đại xa xưa hai vị thiên thần Cộng Công và Chúc Dung tranh nhau ngôi hoàng đế, Cộng Công bị đánh bại, ông xấu hổ mà giận dữ, làm gảy cột chống thiên, kết quả là trời xanh bị nghiêng, hồng thủy làm hại, lửa trời nướng người, thú vật ăn thịt người, tai nạn liên tục ập đến. Nữ Oa thủy tổ của loài người luyện đá ngũ sắc vá lại trời xanh, giải trừ tai nạn. Về sau người ta định ngày này là ngày “thiên xuyên tiết” hoặc “bổ thiên tiết” (lễ vá trời), làm bánh rán để trên mái nhà, mô phỏng Nữ Oa vá trời, kĩ niệm công lao Nữ Oa vá trời cứu dân. Đời Tống tập tục này rất thịnh hành, có bài thơ như sau:

Oa hoàng một hậu kỷ đa niên,

Phúc phục đông khiên nhiệm tự nhiên.

Chỉ hữu nhân gian nhàn phụ nữ,

Nhất mai tiên bính bổ thiên xuyên.

Ngày này còn là ngày “tiểu thiêm thương”. “Lão thiêm thương” là ngày hai mươi lăm tháng giêng. Hoạt động lễ “tiểu, lão thiêm thiên” (ngày lễ thêm thóc vào kho) cơ bản là một, lấy đất trong vườn vẽ thành cái cót lương thực, cho vào thóc gạo mang tính tượng trưng, và thắp nhang lễ bái nhà kho. Trong tháng giêng đã có rất nhiều hoạt động khẩn cầu mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, trong thời điểm tháng giêng sắp kết thúc lại làm hai lễ “tiểu, lão thiêm thương” chứng tỏ một nguyện vọng mãnh liệt của nhân dân đối với thu hoạch mùa màng ở xã hội nông nghiệp Trung Quốc.

Tục ngữ có câu: “qua ‘lão thiêm thương’, xấu hổ các kẻ thèm ăn, các cô các bà lười biếng”. Ý nghĩa là ăn tết đến hai mươi lăm tháng giêng là kết thúc, cao lương mỹ vị ngày tết đã ăn hết rồi, kẻ thèm ăn không còn chút dầu mà vét; phụ nữ lại phải bắt tay vào công việc nữ công, không thể mượn cớ ăn tết mà lười biếng. Thế nhưng, tục ngữ lại có câu: “còn có hai tháng hai cứu mạng”, đến hai tháng hai lại là ngày lễ, kẻ thèm ăn lại có cơ hội chén một bữa ngon lành; hai tháng hai là ngày “Long đài đầu”, cấm động kim chỉ, các cô các bà lười biếng cũng có một ngày nghỉ ngơi.

Hết tháng giêng, đến hai tháng hai, tết mới rời xa mọi người. Tục ngữ có câu: “năm dễ qua, tháng khó sống” . Nông dân bắt tay vào lao động sản xuất nông nghiệp, làm tốt công tác chuẩn bị xuân canh. Người buôn bán chạy đôn đáo, bận bận rộn rộn, bắt đầu lập kế hoạch kinh doanh năm mới. Tuy nhiên, trong xã hội truyền thống, sau hai tháng hai vẫn có người đi chúc tết, họ là những cặp vợ chồng mới đám cưới. Những cặp vợ chồng mới đi chúc tết gọi là “bái tân niên”, phải đặc biệt chu toàn, bà con thân thuộc hai bên nhà trai nhà gái đều phải đến chúc, không thể để sót nhà nào. “Bái tân niên” cũng là quá trình thân thêm với bà con, người trai quen thân thêm với bà con nhà gái, người nữ quen thân thêm với bà con nhà trai, để sau này còn qua lại. Nếu như hai bên nhà trai nhà gái đều là người một nhà, có tình cảm thân thiết, thì cả tháng giêng đi chúc tết không xuể hết, đến sau hai tháng hai vẫn còn phải đi. Thời xưa, phụ nữ đều chân nhỏ, đi rất chậm, cưỡi lừa hoặc ngồi xe (xe do bò kéo), đi lại cũng rất chậm chạp, “bái tân niên” thậm chí phải kéo dài đến mùa xuân ấm áp hoa nở. Thời kỳ Dân quốc tình hình này vẫn còn. Ngày nay những người lớn tuổi ở nông thôn còn nói: “bái tân niên ngày xưa có thể đến đậu hòa lan nở hoa”.

Nguồn: Người dịch

Tài liệu dịch:

 Huỳnh Cảnh Xuân 2001: Phong tục lễ tết Trung Quốc. – NXB: Thượng Hải từ thư [黄景春:《中国新年礼俗》,上海辞书出版社,2001年]

Lên trên

Cùng chủ đề

  • Odd Arne Westad. Nguồn gốc hành vi của Trung Quốc

  • Miles Maochun Yu. Văn hóa chiến lược Trung Quốc và tranh chấp Biển Đông

  • Derek Grossman & Logan Ma. Lịch sử lực lượng dân quân biển Trung Quốc và hàm ý cho tương lai

  • Lý Hồng Phong. Chiến lược trỗi dậy về văn hóa của Trung Quốc

  • Lee Hee Yong. Tại sao Tân Thiên Địa bị coi là tà giáo?

Thông báo

Tư vấn khoa học và kỹ năng nghiên cứu…

Tủ sách văn hoá học Sài Gòn

  • Thư viện ảnh
  • Thư viện video
  • Tủ sách VHH

Phóng sự ảnh: Toạ đàm khoa học: Xây dựng…

Hình ảnh văn hóa Tết xưa (sưu tầm)

Phóng sự ảnh: Lễ hội truyền thống VHH 2011

Phóng sự ảnh Lễ hội truyền thống VHH 2010

Thành phố Sankt-Peterburg, Nga

Bộ ảnh: Việt Nam quê hương tôi 2

Tranh Bùi Xuân Phái

Bộ tem tượng Phật chùa Tây Phương

Bộ ảnh: Đá cổ Sapa

Bộ ảnh: Phong cảnh thiên nhiên

Bộ ảnh: Việt Nam quê hương tôi

"Biển, đảo Việt Nam - Nguồn cội tự bao đời":…

Con dê trong văn hóa và văn hóa Việt Nam

Văn hóa Tết ở Tp.HCM (Chương trình truyền…

Văn hóa Tp. HCM: Một năm nhìn lại và động…

Phong tục Tết cổ truyền của người Nam Bộ

Bánh tét và Tết phương Nam

Con ngựa trong văn hóa và văn hóa Việt Nam

Điện Biên Phủ - Cuộc chiến giữa hổ và voi

Nhìn lại toàn cảnh thế giới từ 1911-2011…

Tọa độ chết - một bộ phim Xô-Việt xúc động…

Video: Lễ hội dân gian Việt Nam

Văn hoá Việt từ phong tục chúc Tết

Văn hoá Tết Việt qua video

Tết ông Táo từ góc nhìn văn hoá học

“Nếp nhà Hà Nội” trên “Nhịp cầu vàng”: tòa…

Văn hóa Thăng Long - Hà Nội qua video: từ…

Hướng về 1000 năm TL-HN: Xem phim “Tử Cấm…

Hướng về 1000 năm TL-HN: Người Thăng Long…

Phim "Chuyện tử tế" – tập 2 (?!) của “Hà…

Default Image

Hướng về 1000 năm TL-HN: "Chuyện tử tế" -…

Sách “Di sản Ấn Độ trong văn hóa Việt Nam”

Nguyễn Văn Bốn. Tín ngưỡng thờ Mẫu của người…

Sách: Quản lý và khai thác di sản văn hóa…

Hồ Sĩ Quý. Con người và phát triển con người

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 3

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 2

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 1

Hồ Sỹ Quý. Tiến bộ xã hội: một số vấn đề về…

Hồ Sỹ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á (Phụ…

Hồ Sỹ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á…

Hồ Sĩ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á…

Sách: Chuyên đề Văn hoá học

Sách: Một số vấn đề về hệ giá trị Việt Nam…

FitzGerald. Sự bành trướng của Trung Hoa…

Hữu Đạt. Đặc trưng ngôn ngữ và văn hoá giao…

Sống chụ son sao (Tiễn dặn người yêu)

Gs. Mai Ngọc Chừ. Số phận & Tâm linh

Trần Văn Cơ. Những khái niệm ngôn ngữ học…

Đoàn Văn Chúc. Văn hóa học (Phần 3 - hết)

Đoàn Văn Chúc. Văn hóa học (Phần 2)

Các nhà VHH nổi tiếng

Julian Haynes Steward

Wen Yi'duo (Văn Nhất Đa)

Leslie Alvin White

Huang Wen'shan (Hoàng Văn Sơn)

Radcliff-Brown, Alfred Reginald

Sapir, Edward

Margaret Mead

Thăm dò ý kiến

Bạn thích cuốn "Cơ sở văn hoá VN" của tác giả nào nhất?

Chu Xuân Diên - 4.8%
Lê Văn Chưởng - 0.9%
Trần Diễm Thuý - 1%
Trần Ngọc Thêm - 37.4%
Trần Quốc Vượng - 53%
The voting for this poll has ended on: 26 06, 2020

Tổng mục lục website

tong muc luc

Tủ sách VHH Sài Gòn

tu sach VHH SG

Thống kê truy cập

  • Đang online :
  • 87
  • Tổng :
  • 3 8 1 8 3 3 0 8
  • Đại học quốc gia TPHCM
  • Đại học KHXH&NV
  • Tran Ngoc Them
  • T.c Văn hóa-Nghệ thuật
  • Tc VHDG
  • Viện NCCN
  • Khoa Văn hóa học
  • Khoa Đông phương học
  • Phòng QLKH
  • Khoa Việt Nam học
  • Khoa Hàn Quốc học
  • BM Nhật Bản học
  • Khoa Văn học - Ngôn ngữ
  • Khoa triết học
  • Khoa Quan hệ quốc tế
  • Khoa Xã hội học
  • Bảo tàng Lịch sử - Văn hóa
  • viettems.com
  • myfaifo.com
Previous Next Play Pause

vanhoahoc.vn (các tên miền phụ: vanhoahoc.edu.vn ; vanhoahoc.net)
© Copyright 2007-2015. Bản quyền thuộc Trung tâm Văn hóa học Lý luận và Ứng dụng, Trường Đại học KHXH & NV - ĐHQG Tp. HCM
ĐT (028) 39104078; Email: ttvanhoahoc@hcmussh.edu.vn; ttvanhoahoc@gmail.com. Giấy phép: số 526/GP-BC, do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 27-11-2007
Ghi rõ nguồn vanhoahoc.vn khi phát hành lại các thông tin từ website này.

Website được phát triển bởi Nhà đăng ký tên miền chính thức Việt Nam trực thuộc Trung Tâm Internet VNNIC.

Văn hóa Trung Hoa và Đông Bắc Á