logo

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
    • Thư ngỏ
    • Khái quát về Trung tâm
    • Nhân lực Trung tâm
      • Thành viên Trung tâm
      • Cộng tác viên
    • Giới thiệu Khoa Văn hóa học
      • Khái quát về Khoa
      • Nhân lực của Khoa
  • Tin tức
    • Tin nhà (Trung tâm)
    • Tin ngành
    • Tin liên quan
  • Đào tạo - Huấn luyện
    • Các chương trình
    • Tổ chức và Hiệu quả
    • Đào tạo ở Khoa VHH
      • Chương trình đào tạo
      • Kết quả đào tạo
  • Nghiên cứu
    • Lý luận văn hóa học
      • LLVHH: Những vấn đề chung
      • VHH: Phương pháp nghiên cứu
      • VHH: Các trường phái - trào lưu
      • Loại hình và phổ quát văn hóa
      • Các bình diện của văn hóa
      • Văn hóa học so sánh
      • Vũ trụ quan phương Đông
      • Văn hóa và phát triển
      • VHH và các khoa học giáp ranh
    • Văn hóa Việt Nam
      • VHVN: Những vấn đề chung
      • Văn hóa cổ-trung đại ở Viêt Nam
      • Văn hóa các dân tộc thiểu số
      • Văn hóa Nam Bộ
      • Văn hóa nhận thức
      • Văn hóa tổ chức đời sống tập thể
      • Văn hóa tổ chức đời sống cá nhân
      • Văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên
      • Văn hóa ứng xử với môi trường xã hội
    • Văn hóa thế giới
      • VH Phương Đông: Những vấn đề chung
      • VH Phương Tây: Những vấn đề chung
      • Quan hệ văn hóa Đông - Tây
      • Văn hóa Trung Hoa và Đông Bắc Á
      • Văn hóa Đông Nam Á
      • Văn hóa Nam Á và Tây Nam Á
      • Văn hóa châu Âu
      • Văn hóa châu Mỹ
      • Văn hóa châu Phi và châu Úc
    • Văn hóa học ứng dụng
      • VHƯD: Những vấn đề chung
      • VHH nghệ thuật
      • Văn hóa đại chúng
      • Văn hóa giao tiếp
      • Văn hóa du lịch
      • Văn hóa đô thị
      • Văn hóa kinh tế
      • Văn hóa quản trị
      • Văn hóa giáo dục - khoa học
    • Tài liệu phổ cập VHH
      • Văn hóa Việt Nam
      • Văn hóa thế giới
      • VHH ứng dụng
    • Tài liệu tiếng nước ngoài
      • Theory of Culturology
      • Vietnamese Culture
      • Applied Culturology
      • Other Cultures
      • 中文
      • Pусский язык
    • Thư Viện Số (Sách - Ảnh - Video)
      • Tủ sách Văn hoá học
      • Thư viện ảnh
      • Thư viện video
    • Các nhà văn hóa học nổi tiếng
  • Tiện ích
    • Dịch vụ Văn hóa học
    • Dịch vụ ngoài VHH
    • Trợ giúp vi tính
    • Từ điển Văn hóa học
    • Thư viện TT và Khoa
    • Tổng mục lục website
    • Tủ sách VHH Sài Gòn
    • Giải đáp thắc mắc
  • Thư giãn VHH
    • Văn chương Việt Nam
    • Văn chương nước ngoài
    • Nghệ thuật Việt Nam
    • Nghệ thuật thế giới
    • Hình ảnh vui
    • Video vui
  • Diễn đàn
  • Liên hệ
  • Trang chủ
  • Nghiên cứu
  • Văn hóa thế giới
  • Văn hóa Trung Hoa và Đông Bắc Á
Sunday, 02 August 2009 11:04

Trần Phú Huệ Quang. Vài nét về dân ca Trung Quốc

Người post bài:  TT VHH

 

 

VÀI NÉT VỀ DÂN CA TRUNG QUỐC

 

Trần Phú Huệ Quang (tổng hợp)

 

Trong tính thống nhất và tính đặc thù, văn hóa dân gian là một bộ phận của văn hóa nói chung, đồng thời được nghiên cứu với tư cách là một đối tượng chỉnh thể. Một số đặc điểm của văn hóa dân gian được ghi nhận là mang tính truyền thống, cổ xưa, được lưu truyền bằng phương thức truyền miệng, và thuộc về đông đảo quần chúng nhân dân – những con người chân chính sáng tạo ra lịch sử. Trên thế giới các nhà khoa học dùng thuật ngữ Folklore để chỉ môn khoa học này.

Dân ca là những bài ca truyền miệng trong dân gian, bài viết tiếp cận văn hóa dân gian Trung Quốc từ khía cạnh “dân ca” – giới thiệu đôi nét về dân ca Trung Quốc dựa vào một số tài liệu từ Internet.

 

 

 

I. Quỹ tích phát triển của dân ca Trung Quốc

Dân ca là những bài ca của nhân dân lao động. Nhân dân lao động Trung Quốc thời xã hội phong kiến và bán phong kiến bán thực dân là tầng lớp bị khinh rẻ, những lời ca của họ cũng mang âm hưởng ấy. Thậm chí ở các triều đại Nguyên, Minh, Thanh dân ca nhiều lần bị triều đình cấm hát. Lịch sử của dân ca ít có sách vở ghi lại. Khảo sát văn vật được khai quật, thấy các nhạc khí cổ đại tương đối nhiều, nhưng các hình ảnh hoạt động ca hát rất ít. Cái quý nhất còn lưu giữ là một chiếc bình gốm có hình ca vũ được khai quật ở Thanh Hải, nó miêu tả hoạt động ca vũ sùng bái vật tổ của xã hội mẫu hệ sáu nghìn năm trước. Ở thời nguyên thủy ca và múa là kết hợp với nhau. Cho đến ngày nay có rất nhiều dân tộc thiểu số còn duy trì truyền thống cổ xưa là không phân biệt ca và múa. Trong Hoài Nam Tử đã từng nói đến người cổ đại khi nâng vác khúc gỗ đã hát điệu dô hò lao động, có thể thấy rằng từ rất sớm dân ca và lao động có quan hệ mật thiết với nhau. Quan sát các dân tộc anh em, như các hình họa ca múa trên tranh Âm Sơn Nham, “Bàn vương ca” của tộc Dao, “Cổ ca” của tộc Miêu, “Tát Mãn điệu” của tộc Mãn, v.v., cũng có thể thấy dân ca nguyên thủy và hoạt động tôn giáo nguyên thủy có liên quan với nhau.

Âm hưởng thực tế của dân ca cổ đại đã không thể nào tái hiện được, chúng chỉ còn lại ca từ, trong một số sách văn học cổ đại có thể tìm được một số. Khúc phổ thì không còn, do dân ca luôn là những lời hát truyền miệng, tức là có ghi lại phổ pháp thì người dân lao động cũng không dùng đến. Mãi đến cuối thế kỷ XIX mới có nhà dân tục học dùng phổ “công xích” (tên gọi chung các âm trong nhạc cổ Trung Quốc) ghi lại vài bài dân ca. Thu thập, ghi chép, chỉnh lý, xuất bản dân ca một cách có kế hoạch và toàn diện mới được thực hiện vào giai đoạn ngày nay. Nhìn từ lịch sử, dân ca vốn có nhiều tên gọi khác nhau, như tiểu khúc /小曲, lý khúc /俚曲 (lý: dân gian, quê mùa), tiểu lệnh, tục khúc, thời từ. Thời đại Minh, Thanh thường lấy Sơn ca phiếm chỉ các loại dân ca.

Kinh thi là bộ dân ca sớm nhất của Trung Quốc, tập hợp dân ca của mười lăm nước chư hầu ở lưu vực Hoàng Hà phương Bắc lưu hành khoảng năm trăm năm từ thời Tây Chu đến giữa thời Xuân Thu (thế kỷ XI tr. CN – thế kỷ VI tr. CN). Đặc điểm rõ nét nhất của nó là vận dụng thủ pháp nghệ thuật chủ nghĩa hiện thực, phản ánh một cách chân thực cuộc sống xã hội đương thời, mâu thuẫn giai cấp, và cuộc sống của nhân dân lao động. Hình thức và ngôn ngữ được gọt giũa, dễ dàng nhận ra nó đã được tuyển chọn và gia công chỉnh lý. Đến thế kỷ IV tr. CN, xuất hiện tập dân ca “Sở từ” thuộc lưu vực sông Trường Giang, đây là tập ca từ được nhà thơ vĩ đại Khuất Nguyên gia công chỉnh lý trên cơ sở “vu ca” cổ đại vùng trung du sông Trường Giang. Đặc điểm nổi bật của nó là có nhiều truyện thần thoại, truyền thuyết cổ đại, giàu sức tưởng tượng, nó bắt đầu sử dụng thủ pháp biểu hiện chủ nghĩa lãng mạn, và phát triển dân ca thể loại bốn chữ của Kinh thi thành loại câu tự do, thể ca “tao” chân vần đa biến, vả lại còn có sắc thái địa phương. Đến dân ca thời kỳ Hán Ngụy Lục Triều (năm 206 tr.CN – năm 420 tr. CN), đại bộ phận được lưu giữ trong nhạc phủ, dân ca “nhạc phủ” Hán thực tế là sự tổng hợp dân ca các địa phương trung hạ du Hoàng Hà, hạ du Trường Giang, lưu vực Hoài Hà. Lúc này đã có khúc ca về câu chuyện, như các khúc ca chuyện Khổng tước lạc nam phi, Bổn lam tòng quân. Nội dung đa số phản ánh nổi khốn cùng của nhân dân do chiến tranh mang lại, và những bi kịch gia đình dưới lễ giáo phong kiến. Những câu chuyện như vậy lưu truyền từ đầu công nguyên đến nay, lưu truyền rộng rãi trong nhân dân, hầu như mọi nhà đều biết. Không những có dân ca hình thức diễn xướng, mà còn trở thành tên vở kịch của hý khúc, có thể thấy được sự ảnh hưởng sâu sắc của nó. Đặc điểm nổi bật của dân ca nhạc phủ là không những câu chữ đã được chỉnh lý, mà về âm nhạc cũng được nhạc gia nổi tiếng thời Hán là Lý Diên Niên gia công, nhạc khí tơ trúc bán tấu, gọi là tương và ca.

Từ dân ca Kinh thi đến dân ca nhạc phủ, có thể nói là thời kỳ sớm của dân ca Trung Quốc, nội dung phong phú, sức biểu hiện mạnh mẽ, tương đối hoàn mỹ, cho thấy trước đó dân ca còn có thời kỳ nguyên thủy tương đối dài. Thời nguyên thủy âm nhạc không chuyên nghiệp, đến xã hội nô lệ, chủ nô có nhạc nô chuyên phục vụ âm nhạc cho họ, mới bắt đầu có phân hóa. Sự phân tách chính thức giữa hai phạm trù âm nhạc chuyên nghiệp và âm nhạc dân gian thì phải đến xã hội phong kiến, có những người chuyên diễn tấu diễn xướng trong tế tự, nghi lễ, yến tiệc, vui chơi, v.v. của đế vương, quý tộc, đặc biệt có những người ghi lại phổ pháp và chuyên tạo ca khúc, mới dần dần hình thành sự phân chia “văn – dã” rõ nét. Ở Trung Quốc từ đời Hán đã dần dần có sự phân chia âm nhạc dân gian và chuyên nghiệp, từ sau đời Hán cũng rất ít có tập dân ca do giới quan lại tổ chức biên soạn. Âm điệu dân ca thời kỳ đầu có giống như âm điệu tồn tại ngày nay hay không, điều này rất khó xác định, nhưng những bài hát lưu truyền ngày nay như bài ca chèo thuyền rồng kỷ niệm Khuất Nguyên tỉnh Hồ Bắc (bao gồm “khởi tưởng”, “du giang”, “cánh độ”), hát thuyền xưa ở lưu vực Trường Giang và lưu vực Hoàng Hà (gồm “dao lỗ hiệu”, “lạp khiên hiệu”, v.v.) e rằng âm điệu của chúng đều có lịch sử trên nghìn năm. Có lẽ cũng là âm điệu được truyền lại từ nghìn xưa.

Từ đời Hán đến Tùy Đường có một giai đoạn gọi là Nam Bắc triều (420 – 589 CN), đây là thời kỳ dung hợp lớn các dân tộc Trung Quốc trong lịch sử, dân ca được phân thành hai bộ phận rõ ràng đó là dân ca Nam triều (dân ca phương Nam) và dân ca Bắc triều (dân ca phương Bắc). Thời kỳ này đặc điểm nổi bật của dân ca là có sự giao lưu và dung hợp văn hóa âm nhạc các dân tộc. Bất kể là sự thô kệch và hào phóng của dân ca phương Bắc hay tươi mới trong lành sôi động của dân ca phương Nam, thì đều mang sắc thái phong cách dân tộc đơn nhất. Các phong cách khác nhau của dân ca Bắc Nam vẫn còn ảnh hưởng sâu sắc trong dân ca Bắc Nam tồn tại ngày nay.

Đời Đường, đời Tống là thời kỳ văn hóa phong kiến hưng thịnh, đặc biệt là thời thịnh Đường, biên giới của nghệ thuật ca múa dân tộc đã xâm nhập vào Trung Nguyên, có ảnh hưởng lớn đến âm nhạc Trung Nguyên, hiển nhiên giao lưu văn hóa trong ngoài có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển âm nhạc. Âm nhạc chuyên nghiệp đời Đường có thành tựu rất cao. Thuyết xướng và hý khúc Đường, Tống dần dần hình thành. Về dân ca đời Đường có thể tìm thấy một số trong ca khúc được lưu giữ ở Đôn Hoàng, như loại “ngũ canh chuyển”. Một loại khác là “trúc chi ca” được lưu truyền đương thời, là loại sơn ca trữ tình ngâm hát tự do khởi lên từ vùng Ba Du trung thượng nguyên Trường Giang. Các thi nhân nổi tiếng đời Đường như Lưu Vũ Tích, Bạch Cư Dị đều tiếp thu loại dân ca này, “trúc chi ca” được một số văn nhân sáng tác. Đến ngày nay trong ca khúc ở phía tây Hồ Bắc, phía đông Tứ Xuyên còn tìm thấy vết tích hình thức kết cấu của “trúc chi ca”. “Khúc từ” đời Tống rất thịnh hành, lúc đó nó là hình thức diễn xướng mới xuất hiện từ trong dân gian. Đời Nguyên có nghe đến “tiểu lệnh”. “Tiểu lệnh” là một loại dân ca, hiện nay dân ca vùng Tây Bắc còn loại dân ca gọi là “lệnh”. Tiểu lệnh đời Nguyên còn lưu lại rất ít, nhà thống trị đời Nguyên xem dân ca dân gian có nội dung bất mãn và châm biếm thế sự là nạn hồng thủy, mãnh thú, nên ngăn cấm truyền hát.

Đời Minh, đời Thanh là giai đoạn cuối của xã hội phong kiến, kinh tế tư bản chủ nghĩa mới đã bắt đầu có mầm mống, tầng lớp thị dân ở các thành trấn vừa và nhỏ bắt đầu nổi lên, mâu thuẫn giai cấp và mâu thuẫn dân tộc hết sức gay gắt. Trong bối cảnh lịch sử này tư tưởng lớp thứ dân sôi nổi lạ thường, dân ca đặc biệt hưng thịnh, số lượng nhiều, tính quần chúng mãnh liệt trước đây chưa từng có. Lúc này đã có những nghệ nhân bán chuyên nghiệp diễn xướng tiểu khúc dân ca. Đến những năm cuối đời Thanh (sau năm 1848) Trung Quốc đi vào xã hội nửa phong kiến nửa thực dân. Chủ đề chống phong kiến chống xâm lược là đặc điểm thời đại của dân ca cận đại. Thời kỳ này xuất hiện nhiều tập dân ca do các nhà văn thu thập biên tập, như Khách gia sơn ca của Hoàng Tuân Hiến, Ngô ca của Phùng Mộng Long, Việt âu của Lý Điều Nguyên, Bạch tuyết di âm của Hoa Quảng Sinh, v.v.. Những tập dân ca này phần lớn đều thuộc loại dân ca trữ tình dân gian. Trong đó không ít bài được truyền hát trong dân gian ngày nay. Đáng được kể đến là Liêu trai lý khúc của nhà văn học dân gian nổi tiếng đời Thanh - Bồ Tùng Linh, tuyển chọn hơn năm mươi loại dân ca lưu hành trong dân gian cuối thời Minh đầu thời Thanh. Trong đó có một số còn được nghệ nhân dân gian hát đến ngày nay, nên chúng ta còn nghe được những điệu khúc dân gian ba bốn trăm năm trước.

Từ thế kỷ XX về sau, trải qua cách mạng Tân Hợi năm 1911, phong trào văn hóa mới Ngũ tứ, dân ca đi vào giai đoạn mới, dân ca phản đế, phản phong kiến đạt đến cao trào. Đặc điểm của dân ca thời kỳ này là dân ca nội địa truyền bá sang vùng duyên hải phía đông, dân ca các dân tộc anh em ở biên cương cũng được truyền bá vào vùng Trung Nguyên, dân ca mới với đề tài phản ánh cuộc cách mạng nhân dân và đoàn kết chống ngoại xâm. Ngoài ra, dân ca có nội dung về tự do hôn nhân, nam nữ bình đẳng, v.v.. cũng có số lượng lớn. Trước sau Ngũ tứ, Bắc bình tục khúc tập của Lý Gia Thụy ra đời, đã có ghi lại khúc phổ của dân ca. Đáng được chú ý là phong trào học âm nhạc dân gian nổi lên từ sau năm 1942 có ý nghĩa vạch ra một thời đại, mở ra một trang mới cho lịch sử âm nhạc hiện đại.

Sau khi Trung Quốc mới thành lập (năm 1949), dân ca Trung Quốc bước vào thời kỳ mới, ra đời hàng loạt dân ca phản ánh cuộc sống mới của nhân dân, không những đề tài mới mẽ mà cách điệu âm nhạc cũng mang tinh thần chủ nghĩa lạc quan, sôi nổi, nhiệt tình, cởi mở, thanh thoát, đầy vẻ hướng thượng. Do kinh tế xã hội, phát triển văn hóa các dân tộc không đồng đều, thậm chí có một số dân tộc còn chưa có văn tự, dân ca vẫn là hình thức nghệ thuật chủ yếu của họ, cũng là một phần không thể thiếu trong cuộc sống hằng ngày, hơn nữa số dân ca được bảo lưu dưới hình thức kết hợp “thơ”, “ca” và “múa”. Làm phép so sánh, tộc Hán do hý khúc và thuyết xướng phát triển nhanh chóng, mạnh mẽ, hoạt động diễn xướng dân ca không sôi nổi như các dân tộc anh em, hát dân ca vùng duyên hải không nhiều bằng vùng nội địa. Đây cũng là một đặc trưng nổi bật của dân ca trong thời kỳ lịch sử mới.

II. Sự phân bố dân ca Trung Quốc

Căn cứ vào bối cảnh văn hóa dân tộc khác nhau và sắc thái phong cách dân ca khác nhau, dân ca Trung Quốc đại thể có thể phân thành sáu vùng sắc thái phong cách như sau:

1. Vùng dân ca văn hóa thảo nguyên phía bắc;

2. Vùng dân ca Tân Cương phía tây chịu ảnh hưởng văn hóa Ixlam;

3. Vùng dân ca tộc Tạng phía tây chịu ảnh hưởng văn hóa Phật giáo;

4. Vùng dân ca văn hóa nguyên thủy cổ xưa đa dân tộc cao nguyên Tây Nam;

5. Vùng dân ca văn hóa săn bắt Đông Bắc chịu ảnh hưởng của Tát Mãn giáo;

6. Vùng dân ca văn hóa bán nông bán mục đa dân tộc cao nguyên Tây Bắc;

7. Vùng dân ca tộc Hán Trung Nguyên và duyên hải Đông bộ có văn hóa truyền thống lâu đời.

Về vấn đề phân thành từng vùng, do dân tộc khác nhau, mỗi vùng có cách phân loại riêng theo truyền thống của nó, nên nó có sự khác biệt.

1. Vùng dân ca văn hóa thảo nguyên phía bắc

Vùng dân ca này chủ yếu thuộc khu tự trị Nội Mông Cổ hiện nay, dân ca tộc Mông Cổ làm đại diện. Tộc Mông Cổ vốn có “âm nhạc dân tộc”, ‘thi ca dân tộc”. Dân ca có thể chia làm hai loại là “trường điệu” và “đoản điệu”. Dân ca trường điệu chủ yếu lưu hành ở vùng du mục Đông bộ và bắc Âm Sơn, đặc điểm là chữ ít làn điệu dài, tính trang sức phong phú, âm điệu sống động, lảnh lót, du dương, tiết tấu tự do, thể hiện khí thế thảo nguyên mênh mông và tấm lòng rộng mở của dân du mục. Mục ca, Tư hương ca, Tán ca, v.v. đa số đều thuộc về trường điệu. Khúc ca nổi tiếng có Thảo nguyên mênh mông, Khúc ca du mục, v.v.. Đoản điệu chủ yếu lưu hành ở vùng bán nông nghiệp bán du mục phía tây và phía nam, đặc điểm của nó là kết cấu ngắn, tiết tấu có quy định. Rất nhiều tự sự ca, tình ca, hôn lễ ca, v.v. đều là “đoản điệu”. Dân ca “đoản điệu” nổi tiếng có Sâm các đắc mã, Tiểu hoàng mã, v.v.. Tính chất chung của dân ca văn hóa thảo nguyên là biểu hiện tình cảm và tính cách chất phác, thoải mái, nhiệt tình, hào phóng của mục dân thảo nguyên. Ngoài ra, ở tây Mông còn có loại “Mông Hán điệu” (Man Hán điệu), là sự hấp thu văn hóa âm nhạc lẫn nhau của hai dân tộc Mông và Hán. “Điệu leo núi” lưu hành ở vùng Hà Sáo cũng là loại dân ca tộc Mông, Hán đều thích.

2. Vùng dân ca Tân Cương phía tây chịu ảnh hưởng của văn hóa Ixlam

Loại dân ca này ở vùng Tân Cương, đại biểu là dân ca tộc Duy Ngô Nhĩ (WeiWuEr) và tộc Ca – Dắc (Hasake), nó chịu ảnh hưởng của văn hóa truyền thống Ixlam đến từ Trung Á, có mối quan hệ nhất định đến văn hóa âm nhạc Arập. Tộc Duy Ngô Nhĩ là một dân tộc giỏi ca múa, nghệ thuật ca vũ của họ có “thập nhị mộc ca mẫu” /十二木卡姆 là nổi tiếng thế giới. Dân ca có bốn loại lớn là dân ca tình yêu, dân ca lao động, dân ca lịch sử và dân ca sinh hoạt tập tục. Dân ca Duy Ngô Nhĩ về âm điệu bao gồm ba hệ nhạc: nhạc Trung Quốc, Arập và Châu Âu, nó là loại dân ca Trung Quốc có nguồn gốc âm nhạc đa nguyên hóa. Có nhiều bài ca được kết hợp với vũ đạo, có cách điệu sống động, dí dỏm. Nổi tiếng trong ngoài nước có dân ca A La bổn hãn /阿拉本罕, Leo lên nữa vầng trăng, Leo thành dốc, Tặng tôi một đóa hoa hồng, v.v.. Tộc Ca-Dắc chủ yếu cư trú ở vùng Bắc Cương, sống du mục. Dân ca có thể phân thành ba loại: dân ca có từ khúc cố định (gồm bài ca du mục, bài ca săn bắt, tình ca, bài ca tôn giáo, v.v.); dân ca ngẫu hứng điền từ (gồm sơn ca, ngư ca, mễ ngữ ca, v.v.); tập tục ca (gồm hôn lễ ca, khấp giá ca, tống giá ca, v.v.). Trong đó số lượng tình ca là nhiều nhất, đa số đều thể hiện nổi thống khổ ly biệt hay hạnh phúc của tình nhân. Trong dân ca Ca-Dắc có hai hệ âm nhạc Trung Quốc và âm nhạc Châu Âu. Hệ âm nhạc Trung Quốc có hình thức cung /宫, vũ /羽 điệu là nhiều nhất. Nổi tiếng cả nước có Đợi tôi đến trời sáng, v.v..

3. Vùng dân ca tộc Tạng phía tây chịu ảnh hưởng văn hóa Phật giáo

Vùng dân ca này gồm khu tự trị Tây Tạng và khu tụ cư của bộ phận dân tộc Tạng ở Thanh Hải, Tứ Xuyên. Dân ca bao gồm 5 loại: sơn ca (mục ca), bài ca lao động, bài ca tình yêu, bài ca phong tục và tụng kinh điệu. Hoạt động diễn xướng dân ca đa số có liên quan đến các ngày lễ Phật giáo, trong dân ca có không ít bài được kết hợp với điệu múa, như các loại ca múa “nang mã” /囊玛, “đôi tạ” /堆谢, “quả tạ” /果谢, “Oa trang” /锅庄, v.v.. Âm nhạc thuộc hệ nhạc Trung Quốc, đặc điểm chung của dân ca là nhiệt tình, vui tươi, chân thành, cảm động lòng người, mang đậm sắc thái cao nguyên, tiết tấu mạnh mẽ. Bài dân ca nổi tiếng là Bắc Kinh đích Kim sơn thượng. Bắc Kinh đích Kim sơn thượng nguyên là bài ca tiễn /箭 (tức là bài ca săn bắt), thời kỳ đầu lưu truyền ở khu rừng phía đông nam Tây Tạng. Ngày nay trở thành dân ca mới lưu truyền trong cả nước.

4. Vùng dân ca văn hóa nguyên thủy cổ xưa đa dân tộc cao nguyên Tây Nam

Vùng dân ca này là vùng dân tộc thiểu số của vùng Vân Nam, Quý Châu, Quảng Tây. Hơn hai mươi dân tộc khác nhau tụ cư ở nơi này. Dân ca vùng này có đặc trưng văn hóa cổ xưa nhiều tầng, có công năng xã hội đặc biệt, dân ca đa số có hình thức diễn xướng kết hợp “thơ”, “ca”, “múa”, nội dung phức tạp, đa dạng, đồng thời còn tồn tại dân ca các giai đoạn lịch sử khác nhau. Do có nhiều dân tộc chưa có chữ viết, dân ca là công cụ quan trọng ghi lại lịch sử, trao đổi tri thức, và tiến hành các hoạt động giao tiếp xã hội, đã trở thành một bộ phận không thể thiếu trong cuộc sống hằng ngày. Các bài dân ca này đều phản ánh hiện tượng văn hóa đặc sắc, đa tầng. Dân ca mang tính đại biểu của vùng này là dân ca đa thanh bộ. Đa số dân tộc đều có dân ca nhị thanh bộ, tam thanh bộ. Dân ca được phân thành hai loại “đại ca” và “tiểu ca”. “Đại ca” của tộc Đồng, tộc Bố Y, tộc Choang là nổi tiếng nhất. “Đại ca” lại được phân thành ba loại nam thanh, nữ thanh, đồng thanh. “Đại ca” nam thanh nói chung tiết tấu rất mạnh, điệu khúc thanh thoát. “Đại ca” nữ thanh tiết tấu tương đối tự do, hoàn luật tinh tế, nhu hòa. “Tiểu ca” ngoài nhị thanh bộ ra còn có dân ca đơn thanh bộ. Nội dung chủ yếu là tình yêu, nhìn chung là được nam nữ thanh niên dùng hát khẽ trong nhà. Ngoài ra còn có cổ ca, cổ ca tộc Miêu có lịch sử lâu đời nhất. Nội dung tự thuật về sự hình thành trời đất, nguồn gốc con người. Điệu khúc mang tính ngâm tụng, người hát đa số là người già. “Đại ca” tộc Đồng niên đại 50 đã nổi tiếng cả nước, các bài dân ca khác như Quế hoa khai quý nhân lai”, A tế khiêu nguyệt ca, v.v., cũng là những khúc mang tính đại diện.

5. Vùng dân ca văn hóa săn bắt Đông Bắc chịu ảnh hưởng của Tát Mãn giáo

Vùng dân ca này chủ yếu gồm Đại, Tiểu Hưng An Lĩnh đông bắc, đại biểu có dân ca tộc Ngạc Luân Xuân (gồm tộc Ngạc ân Khắc, tộc Hách Triết, tộc Đạt Oát Nhĩ, tộc Mãn, v.v.). Tộc Ngạc Luân Xuân trước năm 1949 còn bảo lưu không ít vết tích xã hội nguyên thủy. Đây là dân tộc thích ca hát, trước đây sinh sống bằng săn bắt, mỗi khi săn bắt được nhiều mang về, hoặc ngày lễ dân tộc, đều có ca múa vui cuồng. Dân ca gồm ba loại: sơn ca, ca vũ khúc và Tát Mãn điệu. Sơn ca còn chia ra “trường điệu” và “đoản điệu”, “trường điệu” cao vang mạnh mẽ, tiết tấu tự do; “đoản điệu” điệu khúc bình hơn, tiết tấu có quy định. Tát Mãn khúc được hát khi thỉnh thần, múa thần, tế tổ, tang lễ, điệu khúc mang hình thức ngâm tụng. Dân ca tộc Ngạc Luân Xuân âm giai 5 thanh. Hình thức cung /宫 điệu, vũ /羽điệu nhiều nhất. Ngoài ra “tiểu xướng tộc Ngạc Luân Xuân” cũng nổi tiếng cả nước.

6. Vùng dân ca văn hóa bán nông bán mục đa dân tộc cao nguyên Tây Bắc

Vùng dân ca này là vùng thượng du Hoàng Hà gồm Cam Túc, Thanh Hải, Ninh Hạ, là vùng tụ cư của các tộc Hán, Hồi, Thổ, Tán La, Bảo An, Đông Hương, Tạng, Dụ Cố, v.v., từ xưa đến nay thuộc phạm vi văn hóa bán nông nghiệp, bán du mục. Trong lịch sử đã từng là vùng đất “con đường tơ lụa” đi qua, văn hóa Đông Tây giao lưu rất sớm, sinh ra loại dân ca tám dân tộc đều có, gọi là “hoa”. Dân ca vùng này có thể phân thành “gia khúc” /家曲 và “dã khúc” /野曲. “Gia khúc” gồm các loại tửu khúc, yến tiệc khúc, tiểu từ, ương ca, v.v.; “dã khúc” là các loại sơn ca, mục ca gồm “hoa” trong đó. Dã khúc chỉ có thể hát bên ngoài nhà. “Hoa” mang tính đại biểu, điệu khúc cao vang dài, cách điệu thâm trầm uyển chuyển, khí chất thô, thuần chất. Bất cứ dân tộc nào cũng đều có thể diễn xướng bằng tiếng Hán, và các dân tộc có từ nền riêng. Khúc ca nổi tiếng có Thượng khứ cao sơn vọng bình xuyên.

7. Vùng dân ca tộc Hán ở Trung Nguyên và duyên hải đông bộ có văn hóa truyền thống lâu đời.

Vùng dân ca tộc Hán là vùng lớn nhất trong các vùng, từ phương Bắc lạnh giá đến phương Nam á nhiệt đới, từ cao nguyên Tây Bắc, cao nguyên Tây Nam đến bình nguyên duyên hải đông bộ, điều kiện địa lý, phong tục tập quán, sinh hoạt, phương thức sản xuất phong phú đa dạng. Ngôn ngữ tuy là Hán ngữ, nhưng phương ngôn rất khác nhau. Sự khác biệt giữa đông, tây, nam, bắc là rất lớn, đặc điểm phong cách của dân ca cũng biểu hiện đa dạng. Mặt khác, tộc Hán ở vùng dân ca thảo nguyên phương bắc, vùng dân ca bán nông nghiệp bán du mục Tây Bắc và vùng dân ca đa dân tộc cao nguyên Tây Nam đều có nhân khẩu trên mười triệu người, do vậy cũng tồn tại hiện tượng trùng điệp vùng dân ca, do tình hình như trên, vùng dân ca tộc Hán có thể phân thành 10 tiểu vùng và một đặc khu.

(1). Tiểu vùng dân ca bình nguyên Đông Bắc bộ;

(2). Tiểu vùng dân ca cao nguyên Tây Bắc bộ;

(3). Tiểu vùng dân ca Giang Hoài;

(4). Tiểu vùng dân ca bình nguyên Giang Triết;

(5). Tiểu vùng dân ca Mân, Đài;

(6). Tiểu vùng dân ca Việt;

(7). Tiểu vùng dân ca bình nguyên Giang Hán;

(8). Tiểu vùng dân ca Tương;

(9). Tiểu vùng dân ca Cán;

(10). Tiểu vùng dân ca cao nguyên Tây Nam;

(11). Đặc khu dân ca Khách gia.

Chủng loại dân ca tộc Hán phong phú, dựa vào công năng xã hội khác nhau có thể phân thành 10 loại lớn: dô hò lao động, sơn ca, tiểu điệu, điền ca, ngư ca, trà ca, ương ca (bao gồm đăng ca), phong tục ca, nhi ca, dao nhi ca.

(1). Tiểu vùng dân ca bình nguyên Đông Bắc bộ là vùng hạ du sông Hoàng Hà gồm Sơn Đông, Hà Bắc, Hà Nam đông bắc Bắc bộ, phía bắc Tô Bắc, và ba tỉnh khu Liêu Ninh, Các Lâm, Hắc Long Giang, trên cơ bản là vùng bình nguyên duyên hải. Từ xưa đến nay vùng hạ du sông Hoàng Hà là vùng văn hóa phát triển. Dựa vào điểm khác biệt nhỏ về phong cách, vùng này lại được phân thành hai vùng nhỏ: vùng Sơn Đông, Hà Bắc, Tô Bắc và vùng Liêu, Các, Hắc. Tiểu vùng thứ hai thực tế là vùng di dân của tiểu vùng thứ nhất. Cho nên dân ca có phong cách gần nhau. Cả vùng dùng phương ngôn phía bắc Đông bộ. Dân ca nơi đây chủ yếu là tiểu điệu, kế đến là ương ca, dô hò, sơn ca rất ít. Dân ca có tính đại biểu là “tiểu bạch thái”, “họa phiến diện”, “Nghi Mông sơn tiểu điệu”, “tiểu khán hí”, v.v..

(2). Tiểu vùng dân ca cao nguyên Tây Bắc bộ gồm Sơn Tây, đại đô Thiểm Tây, phía tây bắc Hà Nam, vùng Hà Sáo Nội Mông và vùng tụ cư tộc Hán ở Cam, Thanh, Ninh. Phía đông lấy Thái Hành sơn làm giới tuyến và phân biệt với vùng dân ca Đông Bắc bộ, Âm sơn phía nam, Tần Lĩnh phía bắc, thuộc vùng trung thượng du sông Hoàng Hà. Trước đây giao thông khó khăn, âm nhạc dân gian ít giao lưu với bên ngoài, dùng phương ngôn phía bắc Tây Bắc bộ. Dân ca có sơn ca là đặc trưng nhất, bao gồm “tín thiên du”, “sơn khúc”, “bà sơn điệu”, ‘hoa”, kế đến là ương ca, tiểu điệu. Ca khúc nổi tiếng cả nước như Tẩu tây khẩu, Hãn sinh linh, Ngũ ca phóng dương, v.v..

(3). Tiểu vùng dân ca Giang Hoài gồm Tô Bắc, lưu vực sông Hoài, An Huy và vùng phía đông nam Hà Nam, phía tây lấy Đại Biệt sơn và vùng dân ca Hán Giang làm giới tuyến. Vùng này ở giữa lưu vực Hoàng Hà và Trường Giang, văn hóa âm nhạc có cả nhân tố nam – bắc, mang đặc trưng quá độ. Dùng phương ngôn phương bắc. Dân ca nổi bật là điền ca, tiểu điệu, kế đến là ương ca, sơn ca. Nổi tiếng có Phong dương hoa cổ, Vương tam tỷ hãn tập, Đã mạch ca, v.v..

(4). Tiểu vùng dân ca bình nguyên Giang Triết gồm Tô Nam, Thượng Hải, và đại bộ phận Triết Giang, thuộc hạ lưu sông Trường Giang, là đất của Ngô, Việt thời cổ đại. Văn hóa tương đối phát triển, đời sống nhân dân sung túc, vốn được gọi là “Giang Nam ngư mễ hương” (quê hương cá gạo Giang Nam), dùng phương ngôn Ngô. Dân ca chủ yếu là tiểu điệu, nổi tiếng có Tử trúc điệu, Vô Tích cảnh, Khấp thất thất, Đối điểu, v.v..

(5). Tiểu vùng dân ca Mân, Đài gồm Phúc Kiến, Đài Loan và vùng Triều Sán tỉnh Quảng Đông. Phúc Kiến và Đài Loan từ trước đến nay có mối quan hệ cội nguồn về văn hóa, tộc Hán đất Đài Loan luôn dùng ngôn ngữ Mân Nam. Ngoài ra, hai nơi này còn có một số hý khúc địa phương, âm nhạc thuyết xướng, v.v. tương đồng. Dân ca nổi bật có sơn ca, vân điền thi, tiểu điệu, những bài nổi tiếng có Trà đồng ca, Thiên vu vu, v.v..

(6). Tiểu vùng dân ca Việt gồm đại đô Quảng Đông lưu vực Chu Giang, phía đông nam Quảng Tây và một bộ phận Hải Nam, phía bắc lấy Nam Lĩnh làm giới tuyến và tương cận với vùng dân ca Cán. Nơi đây thuộc vùng á nhiệt đới, Chu giang ngang qua đông tây, giao lưu văn hóa với hải ngoại tương đối sớm, dùng phương ngôn Việt. Trước đây ngư dân là tầng lớp xã hội quan trọng của vùng này. Dân ca nổi bật là ngư ca hoặc thủy ca, nổi tiếng có Lạc thủy thiên, Xuân ngưu điệu, Lý lý mỹ, v.v..

(7). Tiểu vùng dân ca bình nguyên Giang Hán gồm Hồ Bắc, tây nam Hồ Nam và bộ phận bắc Hồ Nam, là trung tâm văn hóa Sở thời cổ đại, dùng phương ngôn Tây Nam. Văn hóa cổ tương đối phát triển, nghệ thuật dân gian có nguồn gốc cổ xưa, đến nay nhiều lĩnh vực bảo lưu được sắc thái cổ. Dân ca nổi bật là điền ca, kế đến là đăng ca, tiểu điệu, phong tục ca, sơn ca. Nổi tiếng có Hoàng tứ tỷ, Hồng hồ ngư ca, v.v..

(8). Tiểu vùng dân ca Tương gồm Hồ Nam và vài huyện ở góc đông bắc Quảng Tây, thuộc bờ nam trung du sông Trường Giang, đây cũng là đất Sở thời cổ đại. Dân thượng Sở phong, địa tập Sở tục (theo phong tục nước Sở), nó có mối quan hệ nội tại chằng chịt với dân ca Giang Hán, song phương ngôn khác nhau, nơi đây dùng phương ngôn Tương. Dân ca nổi bật nhất có sơn ca, điền ca. Nổi tiếng nhất có Mã tang thôn nhi đã đăng đài, Nhất đường hà hoa nhất đường liên, Thượng tứ xuyên, v.v..

(9). Tiểu vùng dân ca Cán, phạm vi cơ bản là trung, bắc, đông Giang Tây, dùng phương ngôn Cán. Vùng này thuộc đất giữa Ngô và Sở thời cổ đại, văn hóa Ngô Sở có ảnh hưởng nhất định, có tính chất vùng quá độ của giao lưu văn hóa đông tây lưu vực sông Trường Giang, dân ca dung hợp mạnh mẽ, trà ca là đặc sắc nhất, sau đó là tiểu điệu, đăng ca. Nổi tiếng nhất có Đỗ quyên hoa khai, Tống lang đương hồng quân, Trích trà hạt, v.v..

(10). Tiểu vùng dân ca cao nguyên Tây Nam bao gồm Tứ Xuyên, Vân Nam, Quý Châu, Thiểm Nam và một bộ phận tây bắc Quảng Tây. Bắc lấy Tần Lĩnh làm giới tuyến, thường dùng phương ngôn Tây Nam. Dân ca tiêu biểu là sơn ca, sau đó là đăng ca. Ngoài ra dô hò thuyền phu Xuyên giang cũng đặc sắc. Nổi tiếng có các bài Tiểu hà thượng thủy, Hãn mã điệu, Ngã trú Quý Châu Quý Dương phủ, v.v..

(11). Đặc khu dân ca Khách Gia. Người Khách Gia phân bố tương đối rộng, cả nước có hơn 80 nghìn nhân khẩu, đặc khu chủ yếu là đông bắc Quảng Đông, tây nam Phúc Kiến và vùng giao giới ba tỉnh đông nam Giang Tây. Người Khách Gia tập trung ở đây tương đối nhiều, họ là những người di dân từ trung nguyên phương bắc đến do chiến loạn thời cổ đại, bảo lưu nhiều phong tục cổ xưa, dùng phương ngôn Khách Gia. Dân ca chủ yếu là sơn ca, được biết đến có các bài Đăng hồng ca, Phong xuy trúc diệp, v.v..

III. Phân loại dân ca Trung Quốc

Dân ca Trung Quốc có nhiều cách phân loại. Phân loại dựa vào hình thức thể tài, đại thể gồm 03 loại lớn: dô hò (gồm hò vận chuyển, hò chèo thuyền, v.v.), sơn ca (gồm sơn ca nói chung, sơn ca phóng mục, sơn ca điền ương, v.v.), tiểu điệu (gồm dao khúc, thời điệu, phong tục nghi thức ca khúc, vũ ca, v.v.). Một số học giả phân tỉ mỉ hơn gồm dô hò, sơn ca, mục ca, điền ương ca, thuyền ca, đồng dao, tiểu điệu, phong tục nghi thức ca, v.v.. Cách phân loại thể tài có lợi cho việc nhận biết và nghiên cứu các vấn đề về mối quan hệ giữa dân ca và đời sống nhân dân, công dụng xã hội của dân ca và phương pháp biểu hiện âm nhạc.

Phân loại dựa vào sắc thái phong cách dân tộc và khu vực. Trung Quốc có 56 dân tộc, do có sự khác biệt lớn về truyền thống lịch sử, đặc điểm ngôn ngữ, phong tục, v.v. giữa các dân tộc, làm cho sắc thái phong cách dân ca các dân tộc có khoảng cách rất lớn. Một số dân tộc có số dân tương đối lớn, cư trú trên khu vực rộng lớn như các tộc Hán, Mông Cổ, Tạng, Choang, Duy Ngô Nhĩ, v.v.. Còn có thể phân chia căn cứ vào đặc trưng âm nhạc của dân ca ở những địa phương khác nhau, như dân ca tộc Hán đại thể có thể phân thành 8 vùng sắc thái: Tây Bắc, Hoa Bắc, Đông Bắc, Tây Nam, Giang Triết, Mân Việt Đài, Tương Ngạc, Giang Hoài, trong đó 03 khu vực đầu thuộc về phương Bắc, khu vực thứ tư đến thứ sáu thuộc phương Nam, khu vực thứ bảy thứ tám thuộc vùng quá độ Nam Bắc. Cũng có trường hợp phân vùng Nam và vùng quá độ thành 04 khu vực Vân Quế Kiềm, Xuyên Tương Ngạc, Giang Triết, Mân Việt Đài. Cách phân không thống nhất, mỗi cách có căn cứ riêng.

Phương pháp phân loại theo sắc thái phong cách giúp cho việc nhận thức và nghiên cứu các vấn đề về sắc thái phong cách dân ca, mối quan hệ giữa âm nhạc và dân tục. Phân loại dựa vào nội dung đề tài giúp nhận thức và nghiên cứu các vấn đề về mối quan hệ giữa nội dung và hình thức dân ca. Ngoài ra, còn có cách phân loại căn cứ vào thời kỳ phát triển lịch sử, hoặc đưa ra một nhu cầu nghiên cứu chuyên đề nào đó và thực hiện cách phân loại đặc biệt.

IV. Đặc điểm nghệ thuật của dân ca Trung Quốc

1. Sự kết hợp cao giữa thi và nhạc

Nhìn từ góc độ thơ, dân ca có đặc điểm gắn bó chặt chẽ với cuộc sống nhân dân, chủ đề rõ ràng, hình tượng sáng rõ, tình cảm chân thành. Ca từ của dân ca ngắn gọn, thông tục dễ hiểu, thuộc thể ca dao. Hình thức câu nói chung chỉnh tề, gieo vần, bằng trắc không nghiêm, câu bảy chữ là nhiều nhất, còn có hình thức câu khác. Về mặt kết cấu, nhiều nhất là thể hai câu và bốn câu. Tác giả dân ca thường dùng các thủ pháp tỷ dụ, tỷ hứng, so sánh, khoa trương, tự sự, v.v. trong những bài ca với số câu ngắn gọn này, khiến cho tư tưởng chủ thể được thể hiện rõ ràng nổi bật. Ví dụ như Khổ ma thái ví với số phận khổ của người thiếu nữ lấy chồng xa. Trong khúc ca Nông phu oán, Trường công điệu dùng lối so sánh phú bần. Chủ đề tình yêu thể hiện tình cảnh giao hòa, tính cách nhân vật rõ ràng, tình cảm tinh tế .

2. Biểu đạt thế giới nội tâm phong phú

Dân ca dùng kết cấu ngắn, ngôn ngữ âm nhạc cô đọng súc tích, dùng yếu tố âm nhạc biểu đạt tình cảm tư tưởng sâu sắc. Dân ca Thành tường thượng bão mã diễn đạt sâu sắc tình cảm nhớ quê hương của người phiêu bạt; Tẩu tây khẩu bày tỏ tình lưu luyến, thảm thiết vì sinh ly tử biệt trong nhân gian, “mục ca” phơi bày hình ảnh thảo nguyên mênh mông bát ngát, xanh tươi.

3. Có tính truyền miệng, tính tập thể, tính ngẫu hứng và tính biến dị

Dân ca là kết tinh trí tuệ của tập thể quần chúng. Trong quá trình truyền từ đời này sang đời khác, từ nơi này sang nơi khác, thời kỳ (hoặc thời gian) khác nhau, người hát khác nhau, ở địa phương khác nhau, thường theo yêu cầu cá nhân, lấy một bài dân ca sẵn có nào đó làm bản gốc, sau đó thêm từ một cách ngẫu hứng, thấy gì ca đó, nghĩ gì ca nấy, đây chính là tính ngẫu hứng trong dân ca và sáng tác dân ca. Đồng thời với soạn từ mang tính ngẫu hứng, điệu khúc dân ca tất nhiên cũng có biến dị, cho nên xuất hiện hiện tượng một bài dân ca có nhiều biến thể, như Mạnh Khương Nữ, Tiên hoa điệu, v.v. biến thể ở khắp giang nam bắc, cũng xuất hiện hiện tượng một vùng nào đó có vài điệu khúc điển hình và âm điệu đặc trưng.

V. Giá trị của dân ca

1. Dân ca có giá trị nghiên cứu nhân văn

Dân ca là một trong những thể tài quan trọng của nhạc dân tộc, nó trực tiếp phản ánh lịch sử, xã hội, lao động, phong thổ nhân tình, tình yêu hôn nhân, cuộc sống đời thường của một dân tộc. Là người bạn thân thiết trong cuộc sống nhân dân, là trợ thủ trong lao động, là vũ khí trong đấu tranh xã hội, là công cụ trong thể hiện tình cảm, truyền bá tri thức, vui chơi, cũng là tư liệu quý báu để hiểu về lịch sử, xã hội, dân phong dân tục của một dân tộc, có giá trị nghiên cứu nhân văn.

2. Dân ca là cơ sở của âm nhạc dân tộc

Trong lịch sử phát triển văn hóa âm nhạc Trung Quốc, dân ca được hình thành sớm nhất. Trong sự hình thành và phát triển của các thể tài nhạc truyền thống khác, dân ca tỏ ra có tác dụng tích cực, có rất nhiều loại ca vũ, khúc nghệ, hý khúc và nhạc dân tộc trực tiếp hoặc gián tiếp phát triển trên cơ sở dân ca, như ca vũ Hoa đăng, Hoa đăng hý, Hoa cổ hý ở các địa phương, đa số các loại trong cầm thư, tạp khúc. Dân ca cũng có ảnh hưởng tích cực đến nhạc văn nhân, nhạc cung đình, nhạc tôn giáo.

3. Dân ca có ảnh hưởng đến âm nhạc chuyên nghiệp

Trong lịch sử, dân ca đã từng bồi dưỡng các văn nhân, nhạc gia và nghệ nhân chuyên nghiệp, ngày nay vẫn là nguồn không thể thiếu đối với các nhà tạo khúc. Từ “Ngũ tứ” về sau, nhiều tác phẩm kinh điển của các nhạc gia ưu tú đều hấp thu dinh dưỡng từ dân ca. Ca kịch mang phong cách dân ca càng không thể tách rời khỏi dân ca: chủ đề Bạch Mao Nữ là lấy từ Tiểu bạch thái dân ca Hà Bắc, Thanh dương truyện, Kiểm mạch căn dân ca Sơn Tây. Băng sơn thượng đích lai khách của nhà sáng tác nhạc điện ảnh Lôi Chấn Bang đã vận dụng một cách thành công điệu khúc dân gian Cổ lệ biệt tháp của dân tộc Ta-gích.

VI. Mối quan hệ giữa dân ca và nhạc dân gian khác

Dân ca là bộ phận cấu thành quan trọng của nhạc dân gian dân tộc truyền thống Trung Quốc, cũng là cơ sở của các loại nhạc dân tộc khác (nhạc ca vũ dân gian, nhạc khúc nghệ, nhạc hý khúc, khí nhạc dân tộc).

Nhạc ca vũ dân gian đa số là từ dân ca, có không ít ca vũ ngày nay còn lưu truyền hình thức ca khúc dân gian như Phong dương hoa cổ ở An Huy, Qua tử nhân điệu ở Hồ Bắc (còn gọi là Long thuyền điệu), v.v.. Có những bài dân ca tuy được gia công sơ bộ, có đặc điểm vũ đạo nào đó hoặc tính tình tiết của nhạc khúc nghệ, nhưng vẫn có thể thấy được mối quan hệ chặt chẽ giữa nó và dân ca nguyên gốc, như Tẩu tây khẩu trong nhị nhân đài Mông Cổ, Sơn Tây, Song xuyên điệu trong hoa cổ hý Hồ Nam, v.v..

Loại khúc thể liên khúc trong nhạc khúc nghệ, như Đơn huyền khúc tử, Nam Dương cổ tử khúc, Tứ Xuyên thanh âm, … đều là những tiểu khúc thời điệu /时调 lưu hành ở phương bắc từ thời Tống Nguyên đến Minh Thanh. Ca khúc chủ đề Thiên Tân thời điệu, Dương Châu Thanh khúc, Hồ Nam tơ huyền đa số từ dân ca lưu hành trong dân gian được yêu thích ở các địa phương.

Khí nhạc dân tộc càng có mối quan hệ mật thiết với dân ca. Dân ca giúp cho bán tấu khí nhạc có sức biểu hiện phong phú, khí nhạc hấp thu yếu tố hoàn luật mà phát triển thêm. Có những khúc khí nhạc trực tiếp thừa kế điệu khúc của dân ca, như rất nhiều khúc trong “xuy ca” vùng Hà Bắc, Đông Bắc.

Ngược lại, các loại nhạc dân gian khác cũng có ảnh hưởng tích cực đến dân ca, như sau khi hý khúc, khúc nghệ hình thành, kỹ thuật biên khúc, diễn xướng của nó đạt được sự phát triển chuyên nghiệp hóa, kết cấu khúc, điệu, tiết có quy phạm hơn, điều này có tác dụng rất lớn đến việc mở rộng nội dung đề tài của dân ca, làm phong phú nghệ thuật thể hiện của dân ca, đề cao sức thể hiện của dân ca.

Tài liệu tham khảo

1.       http://www.china.com.cn/chinese/minge/435499.htm

2.       http://www.china.com.cn/chinese/minge/440635.htm

3.       http://www.china.com.cn/chinese/minge/440630.htm

4.       http://www.china.com.cn/chinese/minge/440623.htm

5.       http://www.china.com.cn/chinese/minge/440617.htm

6.       http://www.china.com.cn/chinese/minge/440611.htm

7.       http://www.china.com.cn/chinese/minge/439946.htm

8.       http://www.china.com.cn/chinese/minge/439939.htm

9.       http://www.china.com.cn/chinese/minge/439935.htm

Nguồn: người tổng hợp

Lên trên

Cùng chủ đề

  • Odd Arne Westad. Nguồn gốc hành vi của Trung Quốc

  • Miles Maochun Yu. Văn hóa chiến lược Trung Quốc và tranh chấp Biển Đông

  • Derek Grossman & Logan Ma. Lịch sử lực lượng dân quân biển Trung Quốc và hàm ý cho tương lai

  • Lý Hồng Phong. Chiến lược trỗi dậy về văn hóa của Trung Quốc

  • Lee Hee Yong. Tại sao Tân Thiên Địa bị coi là tà giáo?

Thông báo

Tư vấn khoa học và kỹ năng nghiên cứu…

Tủ sách văn hoá học Sài Gòn

  • Thư viện ảnh
  • Thư viện video
  • Tủ sách VHH

Phóng sự ảnh: Toạ đàm khoa học: Xây dựng…

Hình ảnh văn hóa Tết xưa (sưu tầm)

Phóng sự ảnh: Lễ hội truyền thống VHH 2011

Phóng sự ảnh Lễ hội truyền thống VHH 2010

Thành phố Sankt-Peterburg, Nga

Bộ ảnh: Việt Nam quê hương tôi 2

Tranh Bùi Xuân Phái

Bộ tem tượng Phật chùa Tây Phương

Bộ ảnh: Đá cổ Sapa

Bộ ảnh: Phong cảnh thiên nhiên

Bộ ảnh: Việt Nam quê hương tôi

"Biển, đảo Việt Nam - Nguồn cội tự bao đời":…

Con dê trong văn hóa và văn hóa Việt Nam

Văn hóa Tết ở Tp.HCM (Chương trình truyền…

Văn hóa Tp. HCM: Một năm nhìn lại và động…

Phong tục Tết cổ truyền của người Nam Bộ

Bánh tét và Tết phương Nam

Con ngựa trong văn hóa và văn hóa Việt Nam

Điện Biên Phủ - Cuộc chiến giữa hổ và voi

Nhìn lại toàn cảnh thế giới từ 1911-2011…

Tọa độ chết - một bộ phim Xô-Việt xúc động…

Video: Lễ hội dân gian Việt Nam

Văn hoá Việt từ phong tục chúc Tết

Văn hoá Tết Việt qua video

Tết ông Táo từ góc nhìn văn hoá học

“Nếp nhà Hà Nội” trên “Nhịp cầu vàng”: tòa…

Văn hóa Thăng Long - Hà Nội qua video: từ…

Hướng về 1000 năm TL-HN: Xem phim “Tử Cấm…

Hướng về 1000 năm TL-HN: Người Thăng Long…

Phim "Chuyện tử tế" – tập 2 (?!) của “Hà…

Default Image

Hướng về 1000 năm TL-HN: "Chuyện tử tế" -…

Sách “Di sản Ấn Độ trong văn hóa Việt Nam”

Nguyễn Văn Bốn. Tín ngưỡng thờ Mẫu của người…

Sách: Quản lý và khai thác di sản văn hóa…

Hồ Sĩ Quý. Con người và phát triển con người

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 3

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 2

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 1

Hồ Sỹ Quý. Tiến bộ xã hội: một số vấn đề về…

Hồ Sỹ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á (Phụ…

Hồ Sỹ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á…

Hồ Sĩ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á…

Sách: Chuyên đề Văn hoá học

Sách: Một số vấn đề về hệ giá trị Việt Nam…

FitzGerald. Sự bành trướng của Trung Hoa…

Hữu Đạt. Đặc trưng ngôn ngữ và văn hoá giao…

Sống chụ son sao (Tiễn dặn người yêu)

Gs. Mai Ngọc Chừ. Số phận & Tâm linh

Trần Văn Cơ. Những khái niệm ngôn ngữ học…

Đoàn Văn Chúc. Văn hóa học (Phần 3 - hết)

Đoàn Văn Chúc. Văn hóa học (Phần 2)

Các nhà VHH nổi tiếng

Julian Haynes Steward

Wen Yi'duo (Văn Nhất Đa)

Leslie Alvin White

Huang Wen'shan (Hoàng Văn Sơn)

Radcliff-Brown, Alfred Reginald

Sapir, Edward

Margaret Mead

Thăm dò ý kiến

Bạn thích cuốn "Cơ sở văn hoá VN" của tác giả nào nhất?

Chu Xuân Diên - 4.8%
Lê Văn Chưởng - 0.9%
Trần Diễm Thuý - 1%
Trần Ngọc Thêm - 37.4%
Trần Quốc Vượng - 53%
The voting for this poll has ended on: 26 06, 2020

Tổng mục lục website

tong muc luc

Tủ sách VHH Sài Gòn

tu sach VHH SG

Thống kê truy cập

  • Đang online :
  • 74
  • Tổng :
  • 3 8 1 8 3 1 6 1
  • Đại học quốc gia TPHCM
  • Đại học KHXH&NV
  • Tran Ngoc Them
  • T.c Văn hóa-Nghệ thuật
  • Tc VHDG
  • Viện NCCN
  • Khoa Văn hóa học
  • Khoa Đông phương học
  • Phòng QLKH
  • Khoa Việt Nam học
  • Khoa Hàn Quốc học
  • BM Nhật Bản học
  • Khoa Văn học - Ngôn ngữ
  • Khoa triết học
  • Khoa Quan hệ quốc tế
  • Khoa Xã hội học
  • Bảo tàng Lịch sử - Văn hóa
  • viettems.com
  • myfaifo.com
Previous Next Play Pause

vanhoahoc.vn (các tên miền phụ: vanhoahoc.edu.vn ; vanhoahoc.net)
© Copyright 2007-2015. Bản quyền thuộc Trung tâm Văn hóa học Lý luận và Ứng dụng, Trường Đại học KHXH & NV - ĐHQG Tp. HCM
ĐT (028) 39104078; Email: ttvanhoahoc@hcmussh.edu.vn; ttvanhoahoc@gmail.com. Giấy phép: số 526/GP-BC, do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 27-11-2007
Ghi rõ nguồn vanhoahoc.vn khi phát hành lại các thông tin từ website này.

Website được phát triển bởi Nhà đăng ký tên miền chính thức Việt Nam trực thuộc Trung Tâm Internet VNNIC.

Văn hóa Trung Hoa và Đông Bắc Á