Khi kể lại và phân tích các sự kiện trên, các sử gia đã chủ yếu dựa vào một sườn diễn giải lấy Moskva làm trung tâm. Đa số các nhà sử học lấy Moskva – đặc biệt là Đại hội 20 của Đảng Cộng sản Liên Xô – làm trung tâm của thay đổi chính trị trong khi đặt các nước cộng sản khác ở đường biên. Những nhà nước ở ngoại vi này ban đầu có phản ứng bị sốc và lúng túng trước Moskva, nhưng rồi nhiều nước đã nhanh chóng sử dụng cơ hội để khẳng định tư tưởng cải tổ của họ, tư tưởng mà bình thường sẽ khó mà biện hộ được. Cái sườn diễn giải lấy Moskva làm trung tâm này nhìn chung phản ánh sự thật lịch sử vì ảnh hưởng và vai trò lãnh đạo của Liên Xô trong cộng đồng cộng sản thời kì ấy và còn vì thứ tự thời gian căn bản của các sự kiện. Nhưng khi áp dụng một khung diễn giải bao quát cho lịch sử, ta cần cảnh giác trước những nhược điểm của nó. Nhược điểm chính của các diễn giải lấy Moskva làm trung tâm là khuynh hướng bỏ qua và đánh giá thấp những điểm gốc tạo nên thay đổi chính trị ngoài những điểm gốc ở Moskva cùng những liên hệ và sự tương tác không nhất thiết tập trung ở Moskva. Trong một số trường hợp, điều này đưa đến sự giản lược hoá một hoàn cảnh lịch sử phức tạp và diễn giải sai lầm những liên hệ và sự tương tác giữa các nước cộng sản.
Bài viết này xem xét tiến trình phê phán Stalin, hay còn hiểu là giải phóng, từ góc nhìn dựa vào sự liên hệ với Trung Quốc tại Đông Âu và Việt Nam – một góc nhìn đã hoặc bị đánh giá thấp hoặc bị bỏ qua trong những phân tích lấy Moskva làm chính [2] . Thuật ngữ “sự liên hệ với Trung Quốc” có ý nghĩa là một ảnh hưởng trực tiếp của Trung Quốc hoặc những diễn biến song song giữa các nước này và Trung Quốc. Bài viết này giới thiệu và liên hệ hai trường hợp. Trường hợp thứ nhất là ảnh hưởng của Trung Quốc tại một số nước Đông Âu, và thậm chỉ cả ở Liên Xô, từ 1955 đến 1958. Thứ hai là sự thách thức chính quyền của các trí thức Việt Nam và phản ứng của chính quyền, cả hai cho thấy những sự tương tự thú vị giữa hai quốc gia. Sự liên hệ với Trung Quốc ở cả trường hợp Đông Âu và Việt Nam cho thấy rõ là có một nguồn gốc khác góp phần vào quá trình hạ bệ Stalin và thậm chí gợi ý về một khung thời gian mở rộng của các biến cố ngay từ đầu năm 1955 (tức là trước “Báo cáo mật” của Khrushchev) đến tận cuối 1958 (một năm sau khi Liên Xô dập tắt cuộc nổi dậy ở Hungary), và như thế giúp làm giàu thêm hiểu biết của chúng ta về cuộc khủng hoảng cộng sản toàn cầu nhờ các nguồn rộng hơn và khung thời gian dài hơn.
Trường hợp Đông Âu
Đối với đa số các sử gia, ảnh hưởng quan trọng của Trung Quốc tại Đông Âu sau cái chết của Stalin bắt đầu với vai trò của nước này trong việc giải quyết khủng hoảng chính trị ở đó vào tháng 10 và 11 năm 1956 [3] . Nói ngắn gọn, khi Moskva quyết định dùng vũ lực dập tắt cuộc nổi dậy của công nhân Ba Lan vào giữa tháng 10-1956, Bắc Kinh đã phản đối quyết định này với lý do là vấn đề Ba Lan xảy ra không phải vì âm mưu chống chủ nghĩa xã hội của phương Tây mà chủ yếu là do “chủ nghĩa sôvanh nước lớn” (ám chỉ sự kiêu ngạo và can thiệp của Moskva vào công việc nội bộ của các nước). Ngược lại, khi Moskva còn nhùng nhằng giữa việc dùng vũ lực hay để yên trước cuộc khủng hoảng Hungary vào cuối tháng 10, Bắc Kinh đã thúc giục Moskva gửi quân vào Budapest. Theo một số nguồn tư liệu Trung Quốc được công bố vào cuối thập niên 1990, từ ngày 19 đến 31 tháng Mười 1956, thời điểm khi cuộc khủng hoảng Ba Lan – Hungary lên đến cao trào, liên lạc và thảo luận giữa Moskva và Bắc Kinh cũng liên tục và dồn dập đến bất thường.
Ngày 19-10, sau khi Đảng Cộng sản Ba Lan chọn Wladislaw Gomulka, người mà Kremlin xem là có thái độ đáng ngờ với Moskva, làm lãnh đạo mới, thì Pavel Yudin, đại sứ Liên Xô tại Trung Quốc, đã thông báo cho Bắc Kinh về tình hình gay go ở Warszawa, ám chỉ khả năng quân đội Liên Xô sẽ can thiệp ở Ba Lan. Mao Trạch Đông tức khắc mở cuộc họp Bộ Chính trị mở rộng và quyết định không đồng ý với sự can thiệp quân sự do Moskva dẫn dắt. Ngày hôm sau, Mao gặp Yudin và yêu cầu ông thông báo cho Moskva về quyết định của Đảng Cộng sản Trung Quốc ngay tức thì và “đúng từng chữ”. Ngày 21-10, Mao lại triệu đại sứ Liên Xô đến, một lần nữa bày tỏ lo ngại, và cũng cho biết sự không hài lòng trước việc Khrushchev công kích Stalin, điều mà phía Trung Quốc cho là đã tạo nên khủng hoảng. Cùng lúc đó, tình hình ở Hungary trở nên căng thẳng hơn và Moskva không còn nghĩ rằng kênh đại sứ là đủ hiệu lực. Vì thế, theo yêu cầu của Moskva, một phái đoàn Trung Quốc do Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình dẫn đầu đã đến Moskva ngày 23-10 và ở lại đó đến 31-10, khi mà xe tăng Nga tiến vào Budapest. Trong thời gian ở lại, phái đoàn Trung Quốc được thông báo về diễn biến ở Hungary và mỗi ngày đều nhận được sự tham vấn từ Khrushchev và các lãnh đạo khác của Liên Xô. Các thành viên trong đoàn thậm chí đã tham dự các cuộc họp khẩn của đoàn chủ tịch Đảng Cộng sản Liên Xô ngày 24 và 26-10.
Những khoảnh khắc quan trọng nhất xảy ra vào ngày 29 và 30-10. Vào chiều 29-10, Khrushchev và các lãnh đạo Liên Xô khác gặp phía Trung Quốc tại nơi phái đoàn ở và cho biết cả Ba Lan và Hungary đang yêu cầu Moskva rút quân khỏi hai nước. Mặc dù vẫn đòi Moskva thay đổi thái độ “sôvanh nước lớn” đối với các nước cộng sản khác, nhưng ông Lưu Thiếu Kỳ nói trong hoàn cảnh hiện tại, tốt hơn là quân đội Liên Xô hãy ở lại và đối đầu với những phần tử phản cách mạng. Trong lúc đang nói chuyện, phái đoàn Trung Quốc nhận được điện thoại của Mao, người có đề nghị khác với Lưu. Mao nói đã đến lúc Moskva phải rút quân ra khỏi cả hai nước và để họ được độc lập. Lưu chấp nhận ý kiến của Mao và chuyển lại thông điệp cho Khrushchev. Nhưng ngày hôm sau, phái đoán Trung Quốc nhận được báo cáo tình hình từ phía ban lãnh đạo Liên Xô. Báo cáo được viết bởi Anastas Mikoyan, phó thủ tướng thứ nhất và là người liên lạc khéo léo giữa Moskva và các nước cộng sản khác, người đã được gửi đến Hungary trước khi phái đoàn Trung Quốc đến Moskva.
Báo cáo nói rằng từ hôm 29-10, sau khi quân đội Liên Xô rút khỏi Budapest và giải tán lực lượng an ninh Hungary, thủ đô và nhiều nơi khác của Hungary đã rơi vào hỗn loạn và các phần tử phản cách mạng đang tàn sát những người cộng sản. Phái đoàn Trung Quốc bị ngạc nhiên. Sau một ngày thảo luận, họ kết luận rằng tính chất của sự kiện ở Hungary khác với ở Ba Lan, vì thế quân đội Liên Xô cần quay lại thủ đô và đè bẹp bọn phản cách mạng. Sau đó vào buổi chiều, Lưu Thiếu Kỳ gọi cho Mao. Mao thay đổi quan điểm ban đầu rằng phía Nga cần rút quân, và nay đồng ý với kết luận của phái đoàn vì ngoài báo cáo của Lưu, Mao còn nhận được báo cáo hàng ngày từ Hungary của Hồ Đức Khánh, đại sứ Trung Quốc, và Hồ Quý Bang, phóng viên của Nhân dân Nhật báo ở Budapest. Nhưng Mao nói nếu phía Nga chờ lâu một chút để có thêm các phần tử phản cách mạng lộ diện thì sẽ tốt hơn – một chiến thuật đặc Mao mà sau này được dùng để phát hiện phe hữu khuynh ở Trung Quốc.
Sau khi gọi cho Mao, phía Trung Quốc yêu cầu có cuộc họp khẩn với người Nga. Tại cuộc họp, Lưu Thiếu Kỳ, phó chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, mạnh mẽ đề nghị Khrushchev không “bỏ cuộc” ở Hungary mà hãy nỗ lực hơn để cứu vãn tình thế, trong khi Đặng Tiểu Bình, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc, công khai thúc giục quân đội Nga quay lại thủ đô và nắm chính quyền. Nhưng Khrushchev ngần ngừ. Ông nói với phía Trung Quốc rằng vì tình hình đã thay đổi khá nhiều ở Hungary, nên sự trở lại của quân Nga sẽ đồng nghĩa với sự chiếm đóng đất nước và người Nga sẽ bị xem là kẻ chiếm đóng. Vì thế ban lãnh đạo Liên Xô, Khrushchev thông báo cho phía Trung Quốc, đã quyết định không đưa quân quay lại. Vì phía Nga đã quyết định như vậy, Trung Quốc không dấn thêm nữa. Thay vào đó, Lưu nói đùa với phía Nga rằng hôm qua chúng tôi thuyết phục các đồng chí rút quân nhưng các đồng chí không chịu; hôm nay các đồng chí đến đây và tìm cách thuyết phục chúng tôi đồng ý với quyết định rút quân. Mọi người có mặt ở buổi họp bật cười. Lưu lại nói phái đoàn Trung Quốc sẽ trở về Bắc Kinh chiều hôm sau. Nhưng vào chiều hôm sau, 31-10, phái đoàn Trung Quốc nhận được điện từ Kremlin ngay trước lúc họ ra sân bay. Các lãnh đạo Nga yêu cầu phía Trung Quốc đến phi trường sớm hơn một tiếng để dự cuộc họp khẩn. Tại phi trường, đoàn Trung Quốc gặp Khrushchev và các lãnh đạo khác của Nga. Khrushchev nói ban lãnh đạo Nga đã thay đổi ý kiến trong đêm và quyết định đưa quân quay lại Budapest. Tỏ rõ phấn khởi, Lưu Thiếu Kỳ nói Trung Quốc vui mừng rằng ban lãnh đạo Nga đã đứng ra bảo vệ chủ nghĩa xã hội. Thực tế, trước cuộc họp ở sân bay, quân đội Nga đã di chuyển quay lại thủ đô Hungary.[4]
Sự do dự của Moskva khi giải quyết cuộc khủng hoảng Hungary, được phản ánh qua ghi chép của Trung Quốc, có thể được xác nhận bằng chính lời của Khrushchev: “Không biết đã bao nhiêu lần chúng tôi thay đổi ý kiến về việc rút khỏi Hungary hay ‘đè bẹp cuộc nổi loạn’” [5] . Khó xác định chính xác mức độ ảnh hưởng của Bắc Kinh đối với Moskva trong các quyết định, nhưng như ta thấy qua ghi chép trên của Trung Quốc, phía Trung Quốc quả thực đóng một phần vai trò trong tiến trình và phía Nga quả thực xem trọng thái độ của Trung Quốc. Ngày 3-11-1956, ba ngày sau khi xe tăng Nga tiến vào Budapest, Nhân dân Nhật báo của Trung Quốc là một trong các tờ báo cộng sản đầu tiên ca ngợi Liên Xô đè bẹp cuộc nổi dậy ở Hungary. Trung Quốc còn ủng hộ thay đổi chính trị ở Hungary bằng việc gửi Thủ tướng Chu Ân Lai đến Budapest giữa tháng Giêng 1957 khi tình hình còn bất ổn, và xe tăng Liên Xô đã phải canh gác chỗ ở của ông Chu, mặc dù ông chỉ ở lại đây một ngày.
Trong lịch sử ngoại giao Trung Quốc, ảnh hưởng của Trung Quốc trong khủng hoảng Ba Lan – Hungary đánh dấu lần đầu tiên Trung Quốc bày tỏ quyền lực của họ tại châu Âu, “một diễn biến mà Liên Xô sau này sẽ ân hận”, như lời của Joseph L. Nogee và Robert H. Donaldson [6] . Mặc dù các chi tiết về quan điểm cứng rắn của Trung Quốc trong khủng hoảng Hungary không được biết tới cho mãi đến cuối thập niên 1990, nhưng sự ủng hộ công khai trước việc đè bẹp cuộc nổi dậy ở Hungary – thể hiện qua sự có mặt của phái đoàn Trung Quốc ở Moskva vào thời điểm xảy ra, các tuyên bố chính thức nhanh chóng, và chuyến thăm của Chu Ân Lai đến Budapest – thường được xem là chỉ dấu về thái độ của Trung Quốc đối với cuộc khủng hoảng trong bốn thập niên kế tiếp.
Nhưng thái độ của Trung Quốc đối với khủng hoảng Hungary, dù có cứng rắn và ấn tượng đến đâu, thì cũng chỉ là một khía cạnh trong chính sách và ảnh hưởng của Trung Quốc trong giai đoạn hạ bệ Stalin hay còn gọi là giải phóng. Sự chỉ trích “chủ nghĩa sôvanh nước lớn” của Nga, quyết định bác bỏ sự can thiệp của Nga trong khủng hoảng Ba Lan, và ý kiến của Mao rằng quân đội Nga nên rút khỏi Ba Lan và Hungary trước khi tình hình trở nên xấu đi, cho thấy một thái độ phức tạp hơn của Trung Quốc. Nếu chúng ta mở rộng cái nhìn ra toàn bộ giai đoạn phê phán Stalin và xem xét lại một số dữ kiện ít được quan tâm trước và sau khủng hoảng Ba Lan – Hungary, chúng ta chắc chắn sẽ tìm thấy một Trung Quốc khác. Một Trung Quốc mà thái độ mang tính cởi mở (nếu xét từ góc nhìn thuần tuý Stalin và bất kể mưu tính đằng sau thái độ ấy là gì) cũng xuất hiện giữa những người cải cách hoặc chống Stalin ở Đông Âu ngay từ năm 1955 và kéo dài cho đến mùa hè 1957, hơn nửa năm sau khi cuộc nổi dậy Hungary bị dập tắt.
Có bằng chứng rằng Trung Quốc bắt đầu thu hút chú ý từ một số nước Đông Âu trong thời gian khi, ngay sau cái chết của Stalin, ban lãnh đạo Liên Xô bắt đầu chứng tỏ họ sẵn lòng cho phép các thay đổi chính sách, có tên “Đường lối Mới”. Đường lối này do Georgi Malenkov, người kế vị gần nhất của Stalin mà sau đó bị Khrushchev thay thế, khởi xướng (ngay từ mùa xuân 1953, cùng sự hỗ trợ của Lavrentiy Beria, theo nghiên cứu của Geoffrey và Nigel Swain.) [7] Ở trong nước, Đường lối Mới bao gồm việc bớt nhấn mạnh đến công nghiệp nặng vốn được Stalin ưa thích, và thay vào đó, chú ý hơn đến nông nghiệp và công nghiệp nhẹ thông qua việc bớt kiểm soát giá thực phẩm và quần áo, và giảm bớt đàn áp chính trị. Trên trường quốc tế, Đường lối Mới bao gồm việc phục hồi cho Tito của Nam Tư – người đã bị Stalin trục xuất khỏi thế giới cộng sản năm 1948 – sau chuyến thăm bất ngờ của Khrushchev đến Belgrade tháng Năm 1955. So với cơn bão mà Đại hội 20 sau đó tạo nên, thì Đường lối Mới này có vẻ chỉ là cơn gió thoảng, nhưng quả thực nó “làm tan băng” mảnh đất đã bị đông cứng trong chính thể Stalin cứng nhắc. Các đảng Đông Âu đã phản ứng theo Moskva – phần nào được Kremlin khuyến khích – bằng việc đưa ra những thay đổi tương tự trong lĩnh vực đảng, kinh tế, xã hội.
Để có thêm tự chủ trước Moskva, một số nước Đông Âu quay sang Bắc Kinh tìm cảm hứng với cái cớ rằng Trung Quốc đang trong giai đoạn chuyển đổi chủ nghĩa xã hội (từ “Dân chủ Mới” sang chủ nghĩa xã hội) tương tự như Đông Âu, trong khi Liên Xô đã tiến vào giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội cao hơn. Ví dụ, ở Đông Đức, nước đầu tiên ở Đông Âu thực thi một số chính sách Đường lối Mới ngay từ 1953, Hội nghị lần thứ 25 của Đảng Xã hội Chủ nghĩa Thống nhất của Đông Đức thông qua nghị quyết ngày 1-11-1955, chuẩn thuận phương pháp của Trung Quốc trong vấn đề quốc hữu hoá các doanh nghiệp lớn của tư nhân còn lại bằng cách đề nghị bồi thường 50% cho những người chủ cũ [8] . Việc mua, thay vì tịch thu, phương tiện sản xuất và cho phép chủ cũ tham gia quản lý là chính sách của Mao nhằm làm cuộc chuyển đổi diễn ra êm thắm; nó rất khác với mô hình quốc hữu hoá chủ nghĩa xã hội của Liên Xô. Đông Đức quan tâm đến phương thức quốc hữu hoá ôn hoà hơn của Trung Quốc, và mối quan tâm này tiếp tục tăng trong năm 1956 và được phản ánh trong các bài báo, phúc trình trên báo và tạp chí của Đảng.
Neue Zeit, một báo của Đảng, ngày 13-6-1956 đã in lại một bài nhan đề “Vì sao các nhà tư bản của chúng ta hoan nghênh chủ nghĩa xã hội”, do chủ tịch Hội Nông Thương Trung Quốc viết và đăng lần đầu trên People’s China, một tờ báo tuyên truyền đối ngoại, để trả lời cho câu hỏi của các chủ doanh nghiệp tư nhân ở Đông Đức. Trong ấn bản tháng Chín, tờ báo lý luậnEinheit có đăng bài báo Trung Quốc nhan đề “Giai đoạn mới của sự chuyển hoá công nghiệp và thương mại tư bản ở Trung Quốc.” Khi Walter Ulbricht, Tổng Bí thư của Đảng Xã hội Chủ nghĩa Thống nhất của Đông Đức, báo cáo cho Đảng về chuyến đi thăm Bắc Kinh dự Đại hội Tám của Đảng Cộng sản Trung Quốc tháng Chín 1956, ông nhấn mạnh đến liên minh giữa người cộng sản Trung Quốc với cái gọi là “tư sản dân tộc.” [9]
Ở Hungary, ảnh hưởng Trung Quốc được phản ánh trong ý thức hệ của những người cộng sản dân tộc mới nổi lên của Hungary, đặc biệt thể hiện qua việc Imre Nagy ngưỡng mộ “Năm nguyên tắc cùng chung sống” của Trung Quốc. Nagy, người được đưa lên làm Thủ tướng từ cuối 1953 đến 1955, đề đạt đường lối cải cách bao gồm việc giảm nhẹ nhịp độ công nghiệp hoá, cho phép nông dân rời bỏ nông trường tập thể và giảm bớt sự khắc nghiệt của công an. Vì lẽ này ông bị những người thân Stalin do Mátyás Rakosi dẫn đầu loại bỏ vào tháng Ba 1955. Nhưng sau khi bị buộc về hưu non, Nagy cảm nhận trận bão chính trị đang tới và viết một luận đề dài nhan đề “Bảo vệ Con đường Mới” vào cuối năm 1955 và đầu 1956. Bài này được in thành sách ở phương Tây với nhan đề Về chủ nghĩa cộng sản, trong đó bốn vấn đề lớn được đề cập: công nghiệp, nông nghiệp, đàn áp chính trị và chính sách ngoại giao.
Trong chương về chính sách ngoại giao, “Năm nguyên tắc cùng chung sống” của Trung Quốc trở thành nền tảng lý thuyết cho Nagy khi ông bảo vệ chủ quyền của Hungary và độc lập trước Liên Xô. “Năm nguyên tắc cùng chung sống” bao gồm tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền của nhau, không xâm lấn, không can thiệp chuyện nội bộ, bình đẳng và cùng có lợi, và chung sống hoà bình [10] . Trung Quốc lần đầu tiên nêu các nguyên tắc này trong một tuyên bố chung với Ấn Độ năm 1954. Rồi vào năm 1955, tại Hội nghị Bandung của các nước Á và Phi, Chu Ân Lai chính thức đề đạt chúng với các nước như nguyên tắc bang giao quốc tế đối lập với chủ nghĩa thực dân. Các tuyên bố chính thức của Trung Quốc liên quan năm nguyên tắc này thường thòng thêm một cụm từ hạn chế, “giữa các nước có hệ thống xã hội khác nhau”, nhằm giảm nhẹ lo ngại của các nước phi cộng sản châu Á về xuất khẩu cách mạng của Trung Quốc, nhưng không nói rõ liệu chúng có áp dụng cho “các nước có cùng chế độ xã hội” hay không.
Nhan đề của chương đối ngoại trong bài của Nagy là “Năm nguyên tắc cơ bản của quan hệ quốc tế và câu hỏi về chính sách đối ngoại của chúng ta”. Tác giả không chỉ dùng “Năm nguyên tắc” làm luận đề chính mà còn tuyên bố chúng phải “mở rộng cho quan hệ giữa các nước trong khối xã hội chủ nghĩa và dân chủ”. [11] Bài của Nagy được phổ biến trong những người cộng sản phản kháng, và vào mùa Xuân 1956, Nagy chuyển một bản cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng và một bản cho Yuri Vladimirovich Andropov, đại sứ Nga ở Budapest [12] . Quả là một trớ trêu bi thương khi chưa đầy một năm sau đó, mộng tưởng của Nagy về việc áp dụng “Năm nguyên tắc” cho quan hệ Hung – Nga và ảo tưởng về cảm tình của Trung Quốc với Hungary đã vỡ tan, khi Bắc Kinh thúc giục Moskva can thiệp và Nhật báo Nhân dân là tờ báo đầu tiên ca ngợi cuộc đàn áp [13] .
Nhận thức đầy đủ về sự hấp dẫn của các chính sách của mình và căng thẳng giữa Đông Âu và Liên Xô, Trung Quốc rất quan tâm đến những khó khăn của lãnh đạo Liên Xô ở Đông Âu và trong một số trường hợp còn giữ liên lạc với những nhân vật cải tổ mới nổi. Ví dụ, theo Janos Radvanyi, một viên chức cao cấp ở Bộ Ngoại giao Hungary phụ trách châu Á và có quan hệ thân cận với đại sứ Trung Quốc ở Budapest, sứ quán Trung Quốc đã thiết lập một mạng lưới thông tin hiệu quả bên trong chính phủ và Đảng Cộng sản Hungary. Sứ quán thậm chí có tiếng là “địa điểm ngoại giao hiểu biết nhất” ở thủ đô. Thông qua mạng lưới này, vị đại sứ Trung Quốc, Hác Đức Thanh, biết Nagy đang viết bài, và khi bài này được gửi cho Ban Chấp hành Trung ương, thì ông Hao có được một bản nhờ một người bạn Hungary làm trong ban thư ký tại trụ sở Đảng. Trong khi sứ quán Liên Xô hay mời những công dân gương mẫu, thì ông Hao thích tiếp đãi các nhà văn, nghệ sĩ, kinh tế gia và phóng viên Hungary – một số trong đó không được chính quyền tin tưởng. Vị đại sứ cũng đi lại khắp nơi trong nước và có thông tin từ cán bộ địa phương về không khí thay đổi sau cái chết của Stalin. Tuỳ viên văn hoá của Trung Quốc, nói giỏi tiếng Hungary, cũng duy trì liên hệ thân mật với các trí thức Hungary, trong khi các phóng viên của Tân Hoa xã và du học sinh Trung Quốc báo cáo cho sứ quán về hoạt động của Câu lạc bộ Petofi, một trung tâm tập hợp những người phản kháng.
Sau Đại hội 20 của Liên Xô, việc phê phán chính sách của Stalin được hé lộ, và Trung Quốc trở nên hấp dẫn hơn ở Đông Âu, và các hoạt động truyền bá ảnh hưởng của Trung Quốc tại đó trở nên mạnh bạo hơn. Với việc công bố diễn văn của Lục Định Nhất, Trưởng ban Tuyên huấn của Đảng Cộng sản Trung Quốc, mang tên “Bách hoa tề phóng, bách gia tranh minh”, vào tháng Năm 1956 và đăng trên Nhân dân Nhật báo ngày 13-6, Trung Quốc mở đầu sự giải phóng cho trí thức với mục đích giải toả sức ép trong nước về ngắn hạn, và với mục tiêu dài hạn là cho phép một chút cởi mở và phê phán bên trong chính quyền để giành ủng hộ và phát hiện sai lầm. Chính sách Trăm hoa nhanh chóng trở thành trọng tâm thu hút tại Đông Âu. Vào tháng Chín, Đại hội Tám ở Trung Quốc khai mạc, và toàn bộ các đảng cộng sản ở Đông Âu gửi đại biểu tới Bắc Kinh. Sự kiện này được Bắc Kinh sử dụng vào đúng khoảnh khắc quan trọng ấy để giới thiệu con đường riêng tiến lên chủ nghĩa xã hội và xây dựng quan hệ với thế hệ hậu Stalin trong các lãnh đạo Đông Âu. Ví dụ, Janos Kadar, trưởng phái đoàn Hungary, người từng bị Stalin hạ bệ nhưng được phục hồi năm 1954, rất được ưa thích trong Đảng ở Hungary vì quan điểm chống Stalin. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc rất quan tâm tới vị lãnh đạo mới nổi này, và Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ và Chu Ân Lai, tất cả đều có cuộc trò chuyện dài với ông. Vào ngày 1-10, Kadar một lần nữa đại diện cho Hungary tại lễ ăn mừng Quốc khánh Trung Quốc tại Bắc Kinh [14] .
Một điểm về Chính sách Trăm hoa chưa được chú ý đầy đủ là sự thể hiện ngôn từ (trực tiếp của Mao và rất tiêu biểu cho phong cách của ông) đã tạo nên ấn tượng sai lầm rằng có sự dung dưỡng cho nhiều, tuy chưa phải tất cả, ý kiến khác biệt; ấn tượng này đặc biệt có ở những ai không hiểu về quá khứ đàn áp của Đảng Cộng sản Trung Quốc, như cuộc chỉnh huấn Diên An thập niên 1940 và chiến dịch cải tạo tư tưởng đầu thập niên 1950. Ấn tượng này đã xảy ra khi Chính sách Trăm hoa khơi dậy cảm tình với Trung Quốc ở Đông Âu, nơi con người phấn khích trước khẩu hiệu nhưng không biết nhiều về lịch sử của Đảng Cộng sản Trung Quốc và không có dịp xem kỹ nội dung của những tư liệu giới thiệu chính sách mới của Trung Quốc. Tại Hungary, đại sứ Trung Quốc chộp cơ hội củng cố tình cảm ủng hộ Trung Quốc bằng việc cung cấp thêm thông tin cho trí thức và sinh viên Hungary, và thậm chí ông còn quảng bá về Đại hội Tám thông qua cung cấp thông tin cho báo chí và đài phát thanh Hungary. Kết quả là truyền thông Hungary dành nhiều chỗ cho Đại hội Tám, lại càng củng cố thêm cảm tình dành cho Trung Quốc. Nhiều trí thức cấp tiến Hungary tin rằng chính sách này đích thực phản ánh ý định của những người cộng sản Trung Quốc. Trong lúc đó, với việc phục hồi và đưa Nagy lên làm Thủ tướng, “Năm nguyên tắc” của Trung Quốc được dùng để chống lại “chủ nghĩa nước lớn” của Liên Xô – một cụm từ cũng do Trung Quốc nặn ra. Ảo tưởng của Hungary về Trung Quốc kéo dài đến phút cuối cùng, khi tờ báo của các nhà văn cách mạng, Irodalmi Ujsag, tuyên bố ngày 2-11 (hai ngày sau khi Trung Quốc thúc giục Khrushchev đè bẹp cuộc nổi dậy Hungary) rằng “Phương Tây và phương Đông sát cánh với chúng ta. Mỹ đã tuyên bố niềm tin vào chính nghĩa của chúng ta cũng rõ ràng như các quốc gia hùng mạnh như Trung Quốc và Ấn Độ.”[15]
Đáng chú ý là sau khi cuộc nổi dậy Hungary bị dập tắt, vai trò giảm kiểm soát và dung thứ cho phản kháng của Trung Quốc lại càng trở nên nổi bật trong những nhà cải cách Đông Âu. Trái với không khí chung ở Liên Xô và Đông Âu sau sự biến Hungary, Trung Quốc vẫn tiếp tục đường hướng khai phóng mà họ khởi sự từ tháng Năm 1956. Chính sách Trăm hoa không bị ngưng, và vào tháng Hai 1957, Mao còn bổ sung thêm với bài diển văn nổi tiếng “Bàn về mâu thuẫn”, thừa nhận sự tồn tại của mâu thuẫn trong các nước xã hội chủ nghĩa và như vậy tức là đã chấp nhận một mức độ bất bình nhất định, hay thậm chí một sự đối lập ôn hoà trước các chính sách của chính phủ. Vào tháng Tư, Trung Quốc đẩy mạnh nỗ lực thu hút sự phê phán thông qua chiến dịch “chỉnh huấn”, kéo dài cho đến đầu mùa hè, khi Trung Quốc mở cuộc phản kích chống lại các trí thức phê phán thông qua chiến dịch chống hữu khuynh. Hiện vẫn chưa rõ khi nào thì Mao quyết định dùng chiến dịch Trăm hoa và Chỉnh huấn để “dụ rắn ra khỏi hang”, tuy một số người cho rằng đó có thể là ngay sau cuộc khủng hoảng Hungary [16] .
Dù ý định thực của Mao là gì, thì đối với các trí thức Đông Âu đã chịu cảnh lạnh giá sau khi cuộc nổi dậy Hungary bị đàn áp, việc Trung Quốc duy trì giai đoạn mở rộng tự do cũng là ngọn đèn trong đêm đen và là hy vọng duy nhất để níu giữ sự tự do họ có được sau Đại hội 20 của Liên Xô. Họ vui mừng với quan niệm của Mao về Trăm hoa Đua nở và mâu thuẫn ôn hoà, bởi vì các quan niệm này hàm ý phê phán việc gán cho mọi sự phê phán cái mác “tư sản”, “tư bản”, hay “đế quốc” và vì thế, chúng không chỉ đặt nghi ngờ về việc chặn họng các tiếng nói chống đối mà còn hàm ý là những khủng hoảng trong nước có thể là do các chính sách của chính quyền và sự can thiệp của ngoại quốc. Người Đông Âu không phải là hoàn toàn hiểu nhầm thông điệp của Trung Quốc. Trung Quốc xem khủng hoảng Ba Lan – Hungary chính là ví dụ điển hình của các vấn đề mà sự đàn áp các tiếng nói đối kháng đã tạo ra, đặc biệt trong nửa đầu năm 1957, khi Trung Quốc hoàn toàn tin vào sự ủng hộ mà dân chúng dành cho chính thể [17] .
Chính trong bối cảnh này, nhiều nhân vật chống Stalin ở Đông Âu “muốn nhìn thấy ở Bắc Kinh một thánh địa của chủ nghĩa xét lại” (nghĩa là chống lại Stalin) [18] . Tại Đông Đức, những người cộng sản cải cách, được dẫn dắt bởi những người như Karl Schirdewan, Paul Wandel, và Jürgen Kuczynski, đã ca ngợi Trung Quốc vì đã phân biệt mâu thuẫn “thù địch” và mâu thuẫn “ôn hoà”, nghĩa là khuyến khích sự phê bình. Schirdewan nói, Trung Quốc biết dùng Đại hội 20 theo cách “sáng tạo”. Kuczynski công khai cổ võ cho Chính sách Trăm hoa: “Hãy để hoa nở: mỗi loại hoa lại có kiểu riêng biệt – mọi loại hoa đều tô điểm cho thế giới bằng muôn ngàn sắc màu, hương thơm, hình dáng. Đó chính là thái độ tiến bộ đích thực đối với khoa học gia, nhà văn và nghệ sĩ.” [19] Các hoạt động và diễn văn của họ buộc phe bảo thủ của Ulbricht (tuy ông này từng có lúc tỏ ra quan tâm đến việc quốc hữu hoá ôn hoà của Trung Quốc) phải tham gia tranh luận nhiều tháng trong năm 1957. Một trả lời của Ulbricht là “vấn đề chính của chúng ta không phải là ‘kêu gọi mọi loại hoa cùng nở rộ’ mà là phải tìm cho ra đúng loại hoa phù hợp, chỉ trồng những gì mới và hữu ích, chứ không được dung dưỡng hạt giống độc hại chỉ vì chúng cũng là hoa.” [20]
Tại Ba Lan, W. Gomulka, bí thư thứ nhất của Đảng, người tìm cách duy trì quan điểm trung dung giữa phe thân Stalin và phe cải cách, nói rằng Đảng của ông quan sát Trung Quốc “với sự cảm thông sâu sắc.” [21] Ông ca ngợi Trung Quốc vì “sự táo bạo” đóng góp vào “việc dạy sáng tạo chủ nghĩa Marx – Lenin” nhờ việc giới thiệu “các phương pháp mới để giải quyết mâu thuẫn ôn hoà” và xu hướng “Trăm hoa Đua nở” mà “trước đây chưa từng biết tới trong công cuộc xây dụng chủ nghĩa xã hội ở các nước khác.” Bình luận thân Trung Quốc của Gomulka là vào ngày 15-5, khi ông phát biểu tại phiên họp toàn thể lần thứ chín của Đảng. Một tuần trước đó, một tạp chí Ba Lan đăng một bài báo, viết rằng “Mâu thuẫn trong con người – bất chấp khác biệt giữa các quốc gia – cũng xuất hiện ở nước ta. Vượt qua mâu thuẫn thông qua thuyết phục và thảo luận thì đòi hỏi một cuộc đấu tranh chống tệ quan liêu, cải thiện bộ máy nhà nước và một chính sách mềm dẻo với các đồng minh chính trị và giai cấp.” Bài báo cũng kêu gọi đem trồng “những bông hoa Trung Quốc.” [22]
Những kêu gọi tương tự cũng được nghe ở các nước Đông Âu khác vào cuối mùa Xuân 1957, khi chiến dịch “chỉnh huấn” đạt cao trào ở Trung Quốc. Đáp lại lời kêu gọi này, một tạp chí của Hungary cảnh báo ngày 26-5:
“Trong số các phong trào Trung Quốc lan toả trong địa hạt văn chương, nghệ thuật, khoa học… thì ‘Trăm hoa Đua nở’ lan toả mạnh nhất ở Hungary… Trong giai đoạn đầu tiên nó bị công kích vì đưa tới sự giải phóng đời sống trí thức và giảm sự hà khắc của chủ nghĩa Marx… Đồng chí Mao Trạch Đông, người quen thuộc với trí thức Trung Quốc và biết đa số họ trung thành với chủ nghĩa xã hội, đã bảo vệ khẩu hiệu ‘Trăm hoa”… sau kinh nghiệm buồn của quá khứ có lẽ chúng ta cần thận trọng trước ý tưởng thực thi các biện pháp của Trung Quốc ở Hungary.”[23]
Ngay từ khi Trung Quốc mới bắt đầu dung dưỡng cho nhiều loại “hoa”, Moskva đã quan sát với sự nghi ngại, không đồng tình và thậm chí lo lắng, đặc biệt sau cuộc nổi dậy Hungary. Theo các nguồn Trung Quốc gần đây mới công bố, khi Trung Quốc quyết định loan báo Chính sách Trăm hoa, họ gửi Lục Định Nhất, người đầu tiên nói về chính sách, đến thông báo cho Pavel Yudin, đại sứ Liên Xô ở Bắc Kinh. Việc này là cách hành xử thông thường, tức là Moskva và Bắc Kinh cần thông báo cho nhau trước về các thay đổi chính sách quan trọng – mặc dù Moskva đã không làm thế trong trường hợp “Báo cáo mật” của Khrushchev, làm Bắc Kinh giận dữ. Sau khi Lục Định Nhất giải thích cho Yudin, đại sứ Liên Xô đưa cho ông Lục một bài báo của Lenin liên quan đến chủ đề này nhưng chống lại sự dung thứ. Trên đường từ sứ quán về nhà, Lục thở dài với Yu Guangyuan, thư ký riêng, rằng “Sự giáo điều của người Nga thật quá sâu!” [24]Sau khủng hoảng Ba Lan – Hungary, việc Trung Quốc vẫn đi theo xu hướng mở rộng tự do làm Moskva càng thêm bất an. Vào tháng Tư 1957, Yefremovich Voroshilov, Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Tối cao Liên Xô, thăm Trung Quốc. Theo Li Yueran, người phiên dịch tiếng Nga cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc từ 1949 đến 1964, Voroshilov bày tỏ lo ngại về Chính sách Trăm hoa với Mao ít nhất hai lần. Voroshilov nói ông không hiểu vì sao các ý kiến chống Đảng, chống chủ nghĩa xã hội lại được phép đăng lên báo. Ông cảnh báo Mao về nguy cơ của sự nới rộng, và lấy Hungary làm ví dụ. Mao trấn an rằng Trung Quốc không phải là Hungary và người cộng sản Trung Quốc không muốn “hoa và cỏ mọc chung trong nhà”. Ông nói, ông tự tin là nếu kẻ thù muốn lợi dụng để lật đổ Đảng Cộng sản Trung Quốc, chúng sẽ chỉ “để lộ mình mà thôi”. [25]
Thái độ điển hình của Liên Xô trước các chính sách cởi trói của Trung Quốc, và đặc biệt trước sự rùm beng trên báo chí Trung Quốc về chính sách Trăm hoa, được thể hiện qua lời nói của Khrushchev. Khrushchev rất khó chịu trước việc người Trung Quốc “giỏi tìm ra những cụm từ hấp dẫn” và rằng họ “biết cách đưa ra khẩu hiệu thích hợp vào lúc thích hợp”. [26] Nhớ lại sự bối rối gây nên bởi khẩu hiệu của Trung Quốc ở Liên Xô, ông nói:
“Các vị tuyên huấn của chúng tôi hỏi tôi cách thức phản ứng. ‘Nhân dân ta đọc báo về chiến dịch mới này ở Trung Quốc’, họ bảo. ‘Cái trò Trăm hoa này đang len lỏi vào xã hội Liên Xô’. Chúng tôi hướng dẫn cho các tổng biên tập bỏ đi chủ đề Trăm hoa, không đụng đến nữa. Quan điểm của chúng tôi là Trăm hoa là khẩu hiệu để tiêu thụ trong Trung Quốc thôi, và nó không áp dụng ở Liên Xô. Chúng tôi tránh phê phán trực diện chiến dịch nhưng cũng không cổ vũ… Bất kì người nông dân nào cũng biết có những khóm hoa có thể hái, nhưng có những cái phải bỏ. Một số cây ra quả đắng chát, có hại cho sức khoẻ, và có những cây mọc loạn lên và bóp nghẹt đời sống các hạt mầm quanh chúng.” [27]
Khrushchev đã từng gặp rắc rối vì chiến dịch chống Stalin, vì thế ông không thể cho phép có thêm chiến dịch cởi trói, mặc dù ông hiểu là Mao “muốn kích thích nhân dân bày tỏ tư tưởng” để phát hiện những người ông xem là “có hại”.
Khrushchev cũng bác bỏ luận điểm của Mao về mâu thuẫn trong nhân dân ở các nước xã hội chủ nghĩa, một luận điểm được tán thưởng ở Đông Âu. Ngày 2-6-1957, trong cao trào chiến dịch chỉnh huấn và ngay trước chiến dịch chống phái hữu, Khrushchev trả lời phỏng vấn của đài Mỹ CBS tại Moskva. Khi được hỏi về thái độ đối với tuyên ngôn gần đây của Bắc Kinh rằng tại các nước xã hội chủ nghĩa “có thể tồn tại mâu thuẫn giữa quần chúng và lãnh đạo”, Khrushchev trả lời nhát gừng: “Chúng tôi tin rằng chúng tôi không có thứ mâu thuẫn như thế.” [28]
Toàn bộ các chương hồi này chứng tỏ một ảnh hưởng mạnh của Trung Quốc ở Đông Âu và ngay cả ở Liên Xô trong năm 1957. Sự bất đồng và cảnh báo của Moskva và nỗ lực ngăn trở sự cởi trói ở Đông Âu và Liên Xô cho thấy hai lo lắng lớn. Thứ nhất là sự lo ngại về ổn định chính trị ở các nước vệ tinh của Liên Xô; thứ hai là sự cảnh giác của Liên Xô trước thách thức của Trung Quốc đối với vai trò lãnh đạo trong khối cộng sản, đặc biệt khi mà vị trí của Moskva đã bị suy yếu sau quá trình giải ảo Stalin và khủng hoảng Ba Lan – Hungary.
Cuối cùng và cũng trớ trêu, ảnh hưởng của Trung Quốc cũng được phản ánh từ phía ngược lại. Khi Mao ra dấu về chiến dịch chống phái hữu đầu tháng Sáu 1957, những người bảo thủ ở Đông Âu cảm thấy nhẹ nhõm. Một số người có phản ứng nhanh chóng, thậm chí có hành động tương tự. Ví dụ, ở Đông Âu phóng viên báo Đảng Neues Deutschland tường thuật từ Bắc Kinh ngày 12-7: “Trọng tâm chính hiện nay là nhắm vào ‘phái hữu’… Nay những người cổ vũ cho ‘phái hữu’ đang bị lột trần”. [29] Vài tháng sau, đầu năm 1958, Ulbricht mở chiến dịch chống “xét lại” trong Đảng với việc loại bỏ Karl Schirdewan (thành viên Bộ Chính trị), Fred Oelßner (thành viên Bộ Chính trị và nhà tư tưởng lâu năm của Đảng), Ernst Wollweber (Thứ trưởng An ninh), và Paul Wandel (một kinh tế gia Marxist có ảnh hưởng). Họ đều từng có thiện cảm và muốn áp dụng các chính sách của Trung Quốc, đặc biệt là Chính sách Trăm hoa. Chiến dịch ở Đông Đức cũng trừng phạt nhiều trí thức đọc nhầm thông điệp từ Trung Quốc và đã để lộ mình, giống như những nhân vật phái hữu ở Trung Quốc bị sập bẫy của Mao.
Trường hợp Việt Nam
Ảnh hưởng của Trung Quốc ở Việt Nam cần được xem xét theo một ánh sáng hoàn toàn khác. Nếu ảnh hưởng Trung Quốc ở Đông Âu đến muộn (sau khi Stalin chết) và chỉ ở mức hạn chế so với ảnh hưởng của Liên Xô tại khu vực, thì mối quan hệ thân cận – được thúc đẩy nhờ liên hệ truyền thống và văn hoá giữa hai nước – giữa những người cộng sản Việt–Trung sâu sắc hơn và có từ thập niên 1920. Nhiều người cộng sản Việt Nam, gồm cả Hồ Chí Minh, từng tham gia phong trào cộng sản Trung Quốc và ẩn náu ở Trung Quốc trong thập niên 1930 và đầu 1940. Thắng lợi của cách mạng Trung Quốc năm 1949 không chỉ đẩy mạnh hỗ trợ bằng hình thức cố vấn và vật chất cho cách mạng Việt Nam, mà còn cung cấp một mô hình cạnh tranh. Tháng Ba 1951, tại Đại hội Hai của Đảng Cộng sản Việt Nam, tư tưởng của Mao được đặt chung với chủ nghĩa Marx–Lenin làm kim chỉ nam cho cương lĩnh mới của Đảng. Hình của Mao được treo ngang hàng với hình của Marx, Engels, Lenin và Stalin.[30]
Trong khung cảnh lịch sử này, những phát triển ở Việt Nam trong giai đoạn hậu Stalin có nhiều liên hệ với Trung Quốc hơn là với Liên Xô. Với các nước Đông Âu, các vấn đề lớn nhất của họ lúc này xuất phát từ việc thực thi mô hình Stalin như quá nhấn vào công nghiệp nặng, thiếu các vật phẩm căn bản hàng ngày, sự phẫn uất vì các đợt thanh trừng, sự tàn nhẫn của công an, và lại thêm cả kiểm soát chính trị từ Moskva. Khác với Đông Âu, những vấn đề khó khăn nhất của Bắc Việt là do bắt chước mô hình Trung Quốc. Trong số các hành động mượn của Trung Quốc, có ba cái đặc biệt gây bức bối. Thứ nhất là cải cách ruộng đất: bất kì một nông dân giàu có nào cũng có thể bị gán là “địa chủ”, bị đưa ra “toà án nhân dân” và bị hành quyết mà không cần tiến trình pháp lý nào, và những ai thông cảm thì có thể bị phạt nặng. Thứ hai là cải tạo tư tưởng: các trí thức, ngay cả những vị đã đồng lòng tham gia cách mạng, bị bắt tham dự các trường, lớp học đặc biệt để cải tạo và bị buộc thú tội. Thứ ba là kiểm soát trí thức bằng một chính thể quân sự. Điều này là vì cho đến tháng Hai 1955, Bắc Việt không có Bộ Văn hoá, và đa số trí thức tham gia kháng chiến chống Pháp – đặc biệt là văn nghệ sĩ – đều nhập ngũ và chịu kiểm soát của Tổng cục Chính trị, một cơ quan hình thành theo mẫu của Liên Xô, và trực tiếp hơn, của Trung Quốc. Nhiều chính trị viên đã học ở Trung Quốc và chỉnh huấn hoạt động của trí thức thông qua kỷ luật quân đội: ví dụ, khi họ muốn ra khỏi doanh trại thì cũng phải có thẻ, giống như những người lính.
Sau cái chết của Stalin, giống như các nước khác trong thế giới cộng sản, các tiếng nói chống đối cũng xuất hiện trong giới trí thức Bắc Việt ngay từ năm 1955. Vào tháng Hai, khoảng 30 nhà văn, hoạ sĩ trong quân đội viết “Dự thảo đề nghị cho một chính sách văn hoá”, bao gồm ba đòi hỏi: 1) trao lại sự lãnh đạo văn nghệ cho văn nghệ sĩ; 2) thành lập một hội văn nghệ bên trong cơ cấu quân đội; 3) bãi bỏ cơ chế quân sự kiểm soát văn nghệ sĩ phục vụ trong quân đội. [31] Nhân vật hàng đầu trong nhóm phản kháng này là Trần Dần. Cùng tháng ấy, Trần Dần dẫn đầu khoảng 20 nhà văn, hoạ sĩ đến nói chuyện với tướng Nguyễn Chí Thanh, người đứng đầu Tổng cục Chính trị. Họ đề đạt ba yêu cầu tập trung vào tự do sáng tạo cho nhà văn và nghệ sĩ. Thỉnh cầu chính trị này bị viên tướng từ chối và ông lên án các trí thức bộ đội, rằng hành động của họ “chứng tỏ ý thức hệ tư bản đã bắt đầu tấn công các đồng chí”. [32] Thất bại của thỉnh nguyện này làm các trí thức bực bội, những người ngây thơ tin rằng sự đóng góp của họ cho cách mạng đã chiếm được niềm tin của Đảng, và điều này chuẩn bị cơ sở cho thách thức quyết liệt hơn của giới trí thức vào năm sau.
Đặt trong bối cảnh rộng lớn hơn, Trần Dần và nhóm của ông góp một phần vào phong trào “Tan băng” trong thế giới cộng sản hồi giữa thập niên 1950, do các nhà văn, nghệ sĩ thúc đẩy và nhắm vào học thuyết “hiện thực xã hội chủ nghĩa” của Stalin và sự kiểm soát của Đảng đối với trí thức. [33] Nhưng trường hợp Trần Dần cũng thể hiện một liên hệ với Trung Quốc. Ông có mặt ở Trung Quốc năm 1954, khi vụ Hồ Phong xảy ra. Hồ Phong, một nhà phê bình văn học và là đảng viên lâu năm, gửi một lá thư dài cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng vào tháng Bảy 1954, chỉ trích sự thống trị của các cai tổng văn nghệ, rằng việc ép buộc xu hướng hiện thực xã hội chủ nghĩa đã không để cho sáng tạo có tự do, và thái độ quan cách của các lãnh đạo văn nghệ càng làm cho nhà văn và trí thức bực bội. Mặc dù ông không có ý định thách thức quyền uy của Đảng, nhưng hành động của Hồ Phong phản ánh sự bực bội trong nhiều trí thức, nghệ sĩ và được xem là bằng chứng sớm nhất của sự phân rẽ giữa Đảng và trí thức sau ngày thành lập Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa. Nhưng đến cuối năm 1954, cánh văn nghệ của Đảng mở cuộc phản kích và buộc Hồ Phong làm tự kiểm, và đến tháng Năm 1955, chiến dịch chống Hồ Phong đã trở thành rầm rộ. Ông bị bắt tháng Sáu 1955 và bị giam cho đến cuối kỳ Cách mạng Văn hoá.
Chắc chắn Trần Dần có biết những tư liệu liên quan đến lá thư của Hồ Phong: ông đang ở Trung Quốc vào lúc lá thư tạo ra chấn động và thảo luận trong giới trí thức Trung Quốc. Cũng chắc chắn Trần Dần có cảm tình với Hồ Phong, vì bản thân ông gặp xung khắc với chính dạng lãnh đạo văn nghệ mà Hồ Phong chỉ trích. Trần Dần được cho đi Trung Quốc để hoàn tất kịch bản bộ phim về chiến thắng Điện Biên Phủ. Theo thông lệ, đi cùng ông là một chính trị viên mà sau đó ông có mâu thuẫn vì người kia xen vào công việc sáng tạo của ông. Trần Dần cũng ghét sự áp dụng “hiện thực xã hội chủ nghĩa”, giống như Hồ Phong. Cùng thời điểm ông mở tranh luận với tướng Nguyễn Chí Thanh, Trần Dần cũng đăng bài phê phán tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu. Tố Hữu có chân trong Ban Chấp hành Trung ương Đảng, phụ trách hoạt động trí thức và văn nghệ, và tập thơ của ông được xem là ví dụ mẫu mực khi mô tả các anh hùng. Công kích thứ văn chương “hiện thực xã hội chủ nghĩa” kiểu Tố Hữu, Trần Dần nhấn mạnh: “Realism encourages a hundred schools to thrive both in substance and in form”. Điều này khiến Boudarel đặt giả thiết là “ngay từ tháng Hai 1955, một chiến dịch Trăm hoa Đua nở đã hình thành trong Ban Văn nghệ của quân đội Bắc Việt. Nó xảy ra một năm trước khi một phong trào có tên như thế bắt đầu ở Trung Quốc, và gần hai năm trước khi chính sách này có hiệu lực.” [34] Tuy nhiên, cụm từ “bách gia” thực sự đã có từ thời cổ sử Trung Hoa, chỉ không khí tranh đua triết lý và tư tưởng trong giai đoạn Xuân Thu và Chiến Quốc (thế kỷ tám đến thế kỷ ba trước Công nguyên). Khi đã biết ảnh hưởng của văn hoá Trung Quốc ở Việt Nam, sẽ không phải vô lý khi giả định rằng Trần Dần đã dùng cụm từ này mà không nhận biết về nguồn gốc của nó. Ngoài ra, lần đầu tiên cụm từ “bách hoa tề phóng” có mặt trong đời sống văn hoá Trung Quốc là năm 1951, khi Mai Lan Phương, nam diễn viên nhạc kịch nổi danh nhất Trung Quốc, nhờ Mao ra chỉ thị cho Học viện Nhạc kịch Truyền thống Trung Quốc vừa mới thành lập. Mao bảo: “Hãy để trăm hoa đua nở, để thể loại mới thay thế cái cũ.” [35]
Còn về cụm từ “bách gia tranh minh”, thì đó là câu trả lời của Mao cho cuộc tranh luận giữa Quách Mạt Nhược và Phạm Văn Lan, hai sử gia có tiếng, về cách làm thế nào áp dụng lý thuyết của Marx vào việc nghiên cứu lịch sử cổ đại Trung Quốc. Chính trong bối cảnh này Trần Bá Đạt, thư ký riêng và là trưởng ban nghiên cứu lịch sử Trung Quốc, đã yêu cầu Mao đưa ra chỉ thị[36] . Như vậy, cả “trăm hoa” và “trăm nhà” đều đã được dùng ở Trung Quốc từ 1953 cho công tác học thuật và sân khấu, mặc dù chúng được đề đạt riêng rẽ, lan toả trong từng giới, và chưa mang ý nghĩa chính trị sâu sắc cho đến giai đoạn hạ bệ Stalin mùa Xuân 1956.
Theo Kim N. B. Ninh, sự bất mãn của trí thức Việt Nam với chính quyền không phải bắt đầu từ cuộc xung khắc giữa Trần Dần với Đảng mà đã có từ cuối thập niên 1940 [37] . Vì thế liên hệ Trung Quốc trong trường hợp Trần Dần có thể được xem là cảm hứng khiến ông bày tỏ (cùng nhiều người khác) những bức bối đã có từ trước. Sau này các bạn của Trần Dần thừa nhận liên hệ giữa Hồ Phong và Trần Dần trong bức tranh biếm hoạ đăng trên Nhân văn, tờ báo phản kháng có ảnh hưởng nhất, trong số ra ngày 30-9. Đảng thậm chí nhận ra sự liên hệ này, và ta không ngạc nhiên là khi Trần Dần bị bắt tháng Hai 1956 – sáu tháng sau khi Hồ Phong bị giam – thì một số cán bộ nói lý do của việc bắt giữ là “Trung Quốc có Hồ Phong, có lẽ chúng ta cũng có một Hồ Phong.” [38] Như tác giả Kim N. B. Ninh chỉ ra, “Có vẻ chiến dịch chống Hồ Phong dữ dội ở Trung Quốc đã làm tăng sự cảnh giác ở Việt Nam” và kết quả là Trần Dần trở thành nạn nhân của sự cảnh giác đó [39] .
Tuy nhiên, ngay sau khi Trần Dần bị bắt, bối cảnh quốc tế lại trở nên có lợi cho giới trí thức. Liên Xô tổ chức Đại hội 20 vào tháng Hai và Trung Quốc loan báo Chính sách Trăm hoa vào tháng Hai, cả hai sự kiện ngay lập tức có tác động tới quan hệ giữa trí thức Việt Nam và Đảng. Để giới thiệu đường lối mới của Liên Xô, Anastas Mikoyan, phó Thủ tướng thứ nhất của Liên Xô, đến Bắc Kinh và Hà Nội trong tháng Tư. Cùng tháng ấy, Trần Dần được thả, chủ yếu vì việc bắt giữ ông diễn ra mà không có sự chuẩn y của ban lãnh đạo cao cấp nhất trong Đảng, nhưng sự thay đổi trong không khí quốc tế rõ ràng đóng một phần vai trò trong việc thả Trần Dần. Diễn văn của Lục Định Nhất vào cuối tháng Năm cổ vũ Chính sách Trăm hoa nhanh chóng được các trí thức Việt Nam hăm hở đọc. Triết gia nổi tiếng Trần Đức Thảo, trưởng Khoa Sử của Đại học Sư phạm Hà Nội mới thành lập cùng năm ấy, nhanh chóng tìm người dịch nó trong tháng Bảy [40] .
Theo Bernard B. Fall, ban đầu Bắc Việt cố không chú ý tới sự cởi mở bất ngờ ở Trung Quốc, nhưng sự bỏ qua không thể tồn tại được lâu vì nhiều nhà văn có tiếng ở miền Bắc nắm bắt ngay khẩu hiệu của Trung Quốc. Với họ, khẩu hiệu Trung Quốc có cùng âm vọng như nền giáo dục cởi mở của Pháp mà họ từng thụ hưởng nhiều năm trước [41] . Hai cuộc họp quan trọng trong mùa Hè trở thành điểm tập hợp cho ý kiến phản kháng. Một là Hội nghị của Uỷ ban Nhân dân Thành phố Hà Nội từ cuối tháng Bảy đến đầu tháng Tám, và tại đó các đại biểu phê phán nặng nề nhiều chính sách của Đảng, từ việc thiếu thực phẩm đến thuế. Hai là hội nghị của Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật miền Bắc (1-18 tháng Tám) với chừng ba trăm đại biểu, nhằm học tập Đại hội 20 của Liên Xô và chính sách văn hoá mới của Trung Quốc. Cuộc họp đưa ra năm đòi hỏi, trong đó có việc đòi dịch và công bố Chính sách Trăm hoa của Mao [42] .
Bị thúc ép trước các diễn biến này, và rộng lớn hơn là vì không khí hạ bệ Stalin và cởi mở trong thế giới cộng sản, Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra chính sách mới với trí thức vào tháng Tám, nhấn mạnh đoàn kết, tin tưởng và hợp tác với trí thức chứ không nói đến cải tổ [43] . Vẫn theo thói tục học tập kinh nghiệm Trung Quốc, Việt Nam gửi đại diện sang Trung Quốc theo dõi phong trào Trăm hoa [44] . Vào tháng Mười, khi khủng hoảng Ba Lan – Hungary đang lên cao trào, sự xét lại chính sách của Bắc Việt chuyển sang giai đoạn mới mang tính chính trị hơn. Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp từ đầu tháng Chín và kéo dài đến cuối tháng Mười, rõ ràng là vì sức nặng của các vấn đề được thảo luận và chia rẽ trong Đảng. Cuối cùng, hôm 29-10, Đảng ra tuyên bố công khai thừa nhận các sai lầm trong chiến dịch cải cách ruộng đất và một số lĩnh vực khác. Trường Chinh, người giữ chức Tổng Bí thư suốt từ 1941 và đứng số hai sau Hồ Chí Minh, nhận trách nhiệm và từ chức, cùng với Thứ trưởng Nông lâm (Hồ Viết Thắng). Một chiến dịch sửa sai sau đó được tiến hành nhằm giảm bớt các đau khổ của người nông dân trong cải cách ruộng đất [45] . Đài phát thanh Hà Nội hôm 30-10 tường thuật về Hội nghị 10, nói rằng dân chủ hoá và cải thiện đời sống nhân dân nay là hai trọng tâm đầu tiên của Đảng, trong khi việc thống nhất đất nước, vốn vẫn là ưu tiên số một, thì chuyển xuống số ba [46] .
Những thay đổi lớn này tại Việt Nam và không khí chung ở Trung Quốc và Đông Âu cho phép các trí thức Việt Nam tận hưởng giai đoạn Nhân văn – Giai phẩm, một thời đoạn độc đáo của quá trình giải phóng trí thức từ tháng Tám đến tháng Mười Một năm 1956. Sự giải phóng được thể hiện bằng sự xuất hiện đột ngột tại các quầy báo nhiều ấn phẩm của tư nhân tập hợp các trí thức phản kháng. Trong số đó có hai ấn phẩm nhiều ảnh hưởng nhất mà tên được đặt cho giai đoạn này. Thứ nhất là Giai phẩm mùa Xuân và Giai phẩm mùa Thu, giới thiệu các văn phẩm mang nội dung chính trị. Thứ hai là Nhân văn, một tuần báo công khai nói chuyện chính trị. Trong văn cảnh Việt Nam, hai chữ Nhân văn còn phản ánh ý niệm Nho giáo về việc trở thành một người văn minh nhờ vào việc học văn chương và triết lý. Các thảo luận chính trị mà các ấn phẩm này khơi dậy bao quát nhiều chủ đề, từ các chính sách trí thức và văn hoá của Đảng cho đến cải cách ruộng đất, tệ quan liêu, tham nhũng, bất tài, và sự chính danh của “chính thể đảng trị”, như cách gọi của sinh viên [47] . Các thảo luận không giới hạn trong các bài báo và thư độc giả, mà còn lan ra đại học, trường học và thậm chí các buổi họp của Hội đồng Nhân dân Hà Nội và Mặt trận Tổ Quốc [48] .
Rõ ràng ta thấy có ảnh hưởng của Trung Quốc trong quá trình nới rộng tự do ở Việt Nam. Tất cả các ấn phẩm phản kháng đều hướng tới Trung Quốc như niềm cảm hứng. Như Kim Ninh chỉ ra, “Thực sự, Nhân văn theo sát các sự kiện ở Trung Quốc và Đông Âu, ủng hộ Chiến dịch Trăm hoa và xu hướng cởi mở ở Ba Lan và Hungary… Các cây bút của Nhân văn cảm thấy rõ rệt là họ đang tham gia một phong trào quốc tế rộng hơn…” [49] Ngoài ra, tên của một số tờ báo phản ánh sự liên hệ trực tiếp với Trung Quốc. Ví dụ ta có tạp chí Trăm hoa, trong khi cái tên Đất mới (một tạp chí của sinh viên đại học đã dùng từ “chính thể đảng trị” để chỉ chính phủ) ám chỉ vùng đất màu mỡ cho các loại hoa mới sinh sôi.
Các liên hệ cá nhân giữa các trí thức phản kháng với Trung Quốc cũng dễ thấy. Ví dụ, vào cao trào giải phóng, Phan Khôi, chủ biên của Nhân văn và là nhân vật nổi tiếng nhất của phong trào, có mặt ở Trung Quốc đại diện cho trí thức Việt Nam tại buổi lễ kỷ niệm 20 năm ngày mất của Lỗ Tấn [50] . Việc chọn Phan Khôi làm đại diện cho Việt Nam khó có thể nói là ngẫu nhiên, vì sự kiện kỷ niệm nhằm tôn vinh một trí thức nổi tiếng vì sự độc lập tư tưởng và Phan Khôi lại có tiếng là nhà bình luận độc lập. Có một chi tiết khiến sự đại diện của Phan Khôi ở Trung Quốc lại có thêm ý nghĩa. Một năm trước đó, khi chính phủ yêu cầu Phan Khôi phát biểu về cùng đề tài Lỗ Tấn nhân kỷ niệm ngày mất của nhà văn Trung Quốc, ông đã phải nộp bản thảo cho Hội Văn nghệ và sửa chữa bài viết dựa trên các nhận xét. Một năm sau, gần như cùng lúc khi ông sang Trung Quốc dự sự kiện quan trọng hơn về Lỗ Tấn, Phan Khôi viết bài “Phê bình lãnh đạo văn nghệ” trên Nhân văn [51] than phiền về thiếu tự do sáng tạo ở Bắc Việt, nhắc lại câu chuyện một năm trước cùng nhiều ví dụ tương tự về sự can thiệp của chính quyền, và đặt câu hỏi, “Tôi còn làm ăn gì được nữa cụ ơi! Tôi còn là tôi đâu được nữa cụ ơi!” [52]
Nhưng liên hệ Trung Quốc trong trường hợp Việt Nam còn có thể được khảo sát từ một góc nhìn khác, dựa trên sự riêng biệt của quá trình nói rộng tự do ở Việt Nam. Sự nới rộng tự do ở Việt Nam có khác biệt bởi vì con đường của nó nhiều va vấp và ở một số chặng thì tương ứng với hoàn cảnh ở Trung Quốc. Để hiểu điều này, tôi cần tóm tắt quá trình mở rộng tự do ở Việt Nam.
Từ tháng Tám đến tháng 11-1956, phong trào trải qua thời điểm vàng son, giai đoạn Nhân văn – Giai phẩm. Rồi ngay sau khi Liên Xô đàn áp cuộc nổi dậy ở Hungary, chính phủ Liên Xô bắt đầu đánh lại trí thức bằng việc in các bình luận, xã luận và thậm chí “thư độc giả” lên án các phần tử chống chủ nghĩa xã hội. Như một xã luận của báo Nhân dân ở Việt Nam, xuất hiện năm ngày sau cuộc đàn áp, viết rằng: “Chúng ta không thể cho phép bất kỳ ai lợi dụng tự do dân chủ và tự do ngôn luận để tách rời nhân dân khỏi Đảng.” [53] Sau hơn một tháng chuẩn bị tuyên truyền như vậy, vào ngày 18-12, sau một nghị định của Chủ tịch nước, Ủy ban Hành chính Hà Nội cho ngưng phát hành Nhân văn và Giai phẩm; đóng cửa nhà xuất bản Minh Đức; tịch thu các số báo cũ; và cảnh cáo những ai còn sở hữu và phân phối báo. Một chiến dịch báo chí nhanh chóng diễn ra để hạ uy tín hai ấn phẩm và người viết.
Việc cấm hai tờ báo và chiến dịch báo chí phê phán chúng là một trở ngại nghiệm trọng cho giới trí thức, nhưng cơn bão chính trị tháng 12-1956 qua đi nhanh đến bất ngờ. Chỉ hai tháng sau, Nhân dân ngừng chiến dịch phê phán Nhân văn – Giai phẩm, và toàn bộ những người bị nhắm đến trong chiến dịch đều an toàn, không ai bị bắt hay mất việc, mà họ chỉ phải tự kiểm thảo và một số bị giáng chức. Như Kim Ninh chỉ ra, các trí thức “tiếp tục giữ chỗ làm nhà nước và, trong một số trường hợp, họ duy trì cả vị trí lãnh đạo trong các nhà xuất bản quốc doanh và thậm chí trong Ban Chấp hành của Hội Văn học Nghệ thuật.” [54] Trong tháng Hai, Đại hội Văn nghệ Toàn quốc lần hai được triệu tập, và nghị quyết không nhắc gì tới vụ Nhân văn – Giai phẩm, mặc dù nó ghi nhận sự cần thiết chống lại “các khuynh hướng sai trái”. Đến tháng Năm, một tờ báo mới, tuần báo Văn, ra đời với tư cách là cơ quan chính thức của Hội Nhà văn vừa thành lập. Dưới ngọn cờ của tuần báo Văn, các cây bút của Nhân văn và Giai phẩm nhanh chóng tụ họp lại. Honey chỉ ra, “Dù họ đã phải học tập những gì thì hoá ra tất cả đều vô ích, vì họ nhanh chóng tiếp tục sự công kích Hội Văn học Nghệ thuật, Đảng, chính thể, và mọi mục tiêu trước đó.” [55]
Nói cách khác, môi trường văn hoá tại miền Bắc Việt Nam phần lớn năm 1957 ít nhất cũng là nhẹ nhàng và dễ thở. Ngay từ khi ra mắt, báo Văn bị các tờ báo Đảng phê bình vì một số nội dung, nhưng sự chỉ trích chưa khi nào đưa tới một chiến dịch phối hợp lên án của báo chí, hay buộc các nhà văn phải im lặng. Hirohide Kurihara, trong nghiên cứu của ông về chính sách văn hoá Bắc Việt từ 1956 đến 1958, ghi nhận có hai đường lối “linh động” dẫn dắt tình hình trí thức trong năm 1957. Một “ngả về hướng tôn trọng sự chủ động của các nhà văn và trí thức… không có biện pháp cụ thể nào nhằm buộc người cầm bút tham gia học tập chính trị hay các hoạt động sản xuất”; đường lối thứ hai “mang tính ôn hoà nhằm đạt các mục tiêu chính sách, một cách tiếp cận nhấn mạnh vào việc đạt tới sự đồng thuận thông qua thuyết phục và thảo luận kiên nhẫn.” Khi thực hiện chính sách đồng thuận này, “những người nắm chính sách được cảnh báo không được hành động lỗ mãng.” [56]
Thời gian cởi trói tiếp theo này kéo dài được khoảng nửa năm và cuối cùng chấm dứt vào đầu 1958. Ngày 6-1, Bộ Chính trị ra “Nghị quyết Bộ Chính trị về công tác văn nghệ”, đòi trục xuất toàn bộ những “phần tử phá hoại” ra khỏi các tổ chức văn nghệ và yêu cầu văn nghệ sĩ học tập chủ nghĩa Marx–Lenin và tham gia lao động [57] . Theo sau nghị quyết là việc đình bản tuần báo Văn vô thời hạn và từ đây bắt đầu chiến dịch mạnh và lâu dài nhằm loại bỏ tận gốc mọi tiếng nói và thành phần đối kháng trong giới trí thức. Nhiều trí thức bị bắt và năm người trong số họ, tất cả gắn với vụ Nhân văn – Giai phẩm và do Phan Khôi đại diện, bị đưa ra xử và kết án vì “các hoạt động tâm lý chiến núp dưới bóng Nhân văn – Giai phẩm”. [58] Cùng lúc đó, đa số các trí thức, bất kể hoạt động chính trị của họ là gì trong giai đoạn Nhân văn – Giai phẩm, đã phải đi cải tạo dưới hình thức học tập chính trị sát sao và lao động nặng nhọc ở nông thôn và nhà máy – một hình thức vay mượn từ Trung Quốc.
Như thế, thời kì nới rộng tự do ở Việt Nam có hai giai đoạn nở rộ: từ tháng Tám đến tháng Mười Một 1956, và từ tháng Năm 1957 đến tháng Giêng 1958. Đối với các sử gia, những câu hỏi tự nhiên là: Tại sao chính phủ Việt Nam không nhân sự biến ở Hungary mà dập tắt các tiếng nói đối kháng trong nước bằng cách đẩy mạnh công cuộc đàn áp đã bắt đầu với việc cấm báoNhân văn và Giai phẩm hồi tháng 12-1956? Tại sao nhà nước vẫn cho phép giới trí thức tiếp tục sự công kích chính thể vào mùa hè 1957?
Điều khiến các câu hỏi này càng thêm kích thích sự tò mò là có một sự kiện đã có thể tạo nên môi trường thuận lợi hơn cho chính quyền thẳng tay đàn áp trí thức vào thời điểm cấm báo Nhân văn và Giai phẩm. Sự kiện đó là cuộc nổi loạn của nông dân ở tỉnh Nghệ An chống lại chính sách cải cách ruộng đất. Nỗi bức bối của người nông dân vì cải cách ruộng đất đã chất chồng mấy năm, và việc Đảng công khai thừa nhận các sai lầm trầm trọng trong chiến dịch, được Trường Chinh thông báo (ông này sau đó từ chức Tổng Bí thư để xoa dịu sự bất bình), chỉ cung cấp thêm cho nông dân cơ hội bày tỏ phẫn uất. Cuộc nổi dậy bắt đầu từ ngày 5-11 và có đến hơn 20.000 nông dân tham gia. Nó kéo dài khoảng một tuần và bị một đơn vị đặc biệt của quân đội Bắc Việt dập tắt. Sự kiện này làm lung lay tận gốc sự tự tin của chính thể trong việc cai trị nông thôn – đặc biệt vì tỉnh Nghệ An là quê ông Hồ Chí Minh và căn cứ đầu tiên của cách mạng Việt Nam – và nó là sự biến rất đẫm máu trong thời kì hạ bệ Stalin, có lẽ chỉ kém các cuộc nổi dậy ở Ba Lan và Hungary. Nhưng, thật không may là nó chưa được chú ý đầy đủ trong các nghiên cứu về vấn đề hạ bệ Stalin từ góc nhìn toàn cầu. Cuộc nổi dậy là một đe doạ lớn cho chính thể, và sẽ không ngạc nhiên nếu chính quyền siết chặt các chính sách chung ở trong nước để dập tắt mọi dấu hiệu của xu hướng nổi loạn trong dân sau vụ đàn áp nổi dậy này. Nhưng trên thực tế sự đàn áp trí thức – sau khi cuộc nổi dậy nông dân bị dập tắt – đã diễn ra ngắn ngủi, nhẹ nhàng và thậm chí tiếp theo sau ta thấy quá trình trả lại tự do cho văn nghệ sĩ còn được phục hồi.
Mặc dù tôi không tìm cách loại bỏ mọi khả năng giải thích quá trình nới rộng tự do lúc lỏng lúc chặt ở Việt Nam, nhưng việc xem xét mối liên quan Trung Quốc có thể cung cấp ít đầu mối. Do ảnh hưởng nặng của Trung Quốc ở Việt Nam và quan hệ thân mật giữa hai đảng, và do thời kì nới rộng tự do ở Việt Nam lấy cảm hứng từ mô hình Trung Quốc, sẽ vô lý nếu cho rằng ban lãnh đạo Việt Nam đã tự ý tạm ngừng đàn áp vào đầu năm 1957 mà không theo dõi thái độ của Trung Quốc. Vào mùa Xuân 1957, khi môi trường ở Việt Nam một lần nữa trở nên thuận lợi cho sự mở rộng tự do dân chủ, đó là lúc ban lãnh đạo Trung Quốc mở chiến dịch “chỉnh phong” quy mô cả nước để lấy ý kiến phê bình của trí thức đối với Đảng. Giới trí thức Bắc Việt tái tục sự công kích chính thể vào đầu mùa Hè, chính vào thời điểm phong trào chỉnh huấn ở Trung Quốc đạt cao điểm và đa số những người phái hữu đang để lộ mình khi công khai chỉ trích Đảng và đòi cải cách.
Nhưng vào ngày 8-7-1957, chiến dịch chống phái hữu bắt đầu ở Trung Quốc. Cũng chính vào ngày ấy, vô tình hay hữu ý, ông Hồ Chí Minh ghé Bắc Kinh trên đường đi Bắc Hàn, Liên Xô và Đông Âu. Trên đường quay về Việt Nam, vào cuối tháng Tám, ông Hồ một lần nữa ghé thăm Trung Quốc và gặp các lãnh đạo Trung Quốc lúc ấy đang bận rộn với chiến dịch chống phái hữu. Về mặt chính thức, ưu tiên của ông Hồ là được Trung Quốc ủng hộ lời kêu gọi của ông nhằm mở một hội nghị tham vấn về việc thống nhất đất nước thông qua tổng tuyển cử tự do[59] . Nhưng đằng sau đó họ còn bàn bạc chuyện gì? Họ có bàn về chiến dịch đang diễn ra ở Trung Quốc và những thách thức mà giới trí thức Việt Nam đặt ra cho Đảng của ông Hồ? Mặc dù không có tư liệu nào có thể cung cấp thêm thông tin, nhưng có một điều chắc chắn: ông Hồ hẳn bị ấn tượng mạnh về chiến dịch và ý định thật cũng như chiến lược của Mao nhằm buộc kẻ thù lộ mình. Ông Hồ giỏi tiếng Hoa (ông từng làm thông dịch viên cho các phái viên Liên Xô và những người cộng sản Trung Quốc trong thập niên 1920), và có thể tự mình đọc báo tiếng Hoa. Các tờ báo Trung Quốc lúc ấy tràn ngập các bài chống phái hữu và các phương pháp dùng để trấn áp, như vậy làm sao tất cả những điều này lại không được ông Hồ chú ý cơ chứ? [60] Một bằng chứng cho ảnh hưởng của Trung Quốc là khoảng hai tuần sau khi trở về nước, ông Hồ, dùng bút danh Trần Lực, đã đăng một bài trên Nhân dân ngày 16-9 với tựa đề “Đập tan tư tưởng hữu khuynh”. Theo Boudarel, bài báo dường như in đậm dấu ấn chiến dịch đang diễn ra ở Trung Quốc. Cách ông Hồ tiếp cận vấn đề cũng tương tự như cách nói ẩn dụ của Mao. Ông viết, “Tư tưởng hữu khuynh như cỏ độc. Hãy nhổ cỏ và biến chúng thành phân để làm đồng lúa được màu mỡ.” [61]
Điều đáng nói là ít tác giả nào chú ý đầy đủ đến các ảnh hưởng quốc tế đối với lịch sử Việt Nam trong giai đoạn 1957-1958, theo nghĩa là liên kết những thay đổi trong nước với những diễn biến cụ thể trong phong trào cộng sản quốc tế. Tuy nhiên có một ngoại lệ là tác giả Kurihara. Kurihara nhấn mạnh những thay đổi tạo ra bởi Hội nghị Moskva của các đảng cộng sản thế giới tháng 11-1957, mà trong đó Trung Quốc đóng vai trò lớn trong việc hợp tác với Liên Xô để lên án “khuynh hướng xét lại”, ám chỉ nguy hiểm từ cánh hữu. Vì thế, đối với Bắc Việt, tình hình quốc tế cuối năm 1957 và đầu 1958 rất khác giai đoạn trước đó. Như Kurihara chỉ ra, “Cả Liên Xô, nước gây cảm hứng cho Nhân văn – Giai phẩm nhờ sự lên án Stalin, và Trung Quốc, nước cũng gây cảm hứng nhờ chính sách ‘Trăm hoa’, đã ký vào Tuyên bố, tức là bày tỏ ủng hộ cho cuộc đấu tranh chống xét lại. Ngoài ra, chính sách ‘Trăm hoa’ đã biến thành chiến dịch chống phái hữu ở Trung Quốc.” [62]
Khi Nhân văn và Giai phẩm bị cấm, một vài nhà quan sát phương Tây đặt giả thiết rằng các ấn phẩm là “các quả bóng nhử, được thả với sự ngầm chuẩn thuận của chính phủ” và rằng “thí nghiệm rõ ràng đang đi đến điểm kết thúc.” [63] Nếu nhận xét đó đúng, hẳn Hồ Chí Minh cảm thấy nhẹ nhõm khi ông ở Trung Quốc chứng kiến chiến dịch chống phái hữu quyết liệt và thán phục chiến thuật của Mao. Bốn tháng sau, ông Hồ bắt đầu lại cuộc tấn công giới trí thức bằng cách đi theo mô hình Trung Quốc, một mô hình mà hẳn ông đã cân nhắc trong lúc ở lại Trung Quốc: bóc trần tư tưởng chống chủ nghĩa xã hội, chống Đảng, bằng việc đăng những lời “thú tội” của họ trên báo, tổ chức các cuộc họp tập thể mà ở đó những người bị tố cáo phải tự phê hoặc lên án chính mình, sa thải và bỏ tù nhiều người, trục xuất nhiều người khỏi các hội nghề nghiệp, và gửi hàng trăm, hàng ngàn người xuống các vùng nông thôn, nhà máy để cải tạo thông qua lao động nặng nhọc.
Toàn bộ những chương và diễn biến song song này, khi đặt chúng cạnh nhau, rõ ràng chứng tỏ ảnh hưởng mạnh của Trung Quốc trong phong trào nới rộng tự do ở Việt Nam ngay từ năm 1955 cho tới 1958. Giống như tại Đông Âu, sự liên hệ với Trung Quốc đã tạo cảm hứng ban đầu cho giới trí thức, khiến họ duy trì quan điểm ngay cả sau khi Liên Xô đàn áp cách mạng Hungary. Nhưng rốt cuộc sự liên hệ với Trung Quốc trở thành cú đánh cuối cùng, bất ngờ và có lẽ nặng nề nhất cho phong trào nới rộng tự do dân chủ.
Kết luận
Phong trào hạ bệ Stalin và mở rộng tự do ở giữa thập niên 1950 là một hiện tượng của chủ nghĩa cộng sản toàn cầu và cần được xem xét từ góc nhìn toàn cầu. Góc nhìn này có thể cho phép ta xem xét nhiều nguồn tư liệu của nhiều nước cộng sản đóng góp vào hiện tượng này và những tương tác phức tạp dính dáng đến các nước liên quan, thay vì chỉ nhìn hiện tượng từ góc nhìn lấy Moskva làm trung tâm.
Là một ví dụ của cái nhìn toàn cầu này, những liên hệ với Trung Quốc, thể hiện trong trường hợp Đông Âu và Việt Nam, có thể giúp mở rộng viễn kiến của chúng ta nhờ việc đặt quá trình giải ảo Stalin trong một văn cảnh rộng hơn. Đầu tiên, Trung Quốc đã đóng góp vào thay đổi chính trị với những nỗ lực của riêng mình và hành động như một nguồn độc lập trước Moskva trước Đại hội 20 của Liên Xô, chứ không phải là một nước ở vị trí ngoài rìa và phản ứng thụ động, và Trung Quốc còn tiếp tục xác lập ảnh hưởng cả sau khi cuộc nổi loạn Hungary bị đàn áp, khi mà không khí ở Đông Âu rõ ràng không thuận lợi cho một ảnh hưởng như vậy. Ảnh hưởng của Trung Quốc không chỉ có trong những nhân vật cải tổ Đông Âu, mà còn tạo nên hiệu ứng gây lo ngại ở Moskva, như chính Khrushchev thừa nhận. Thứ hai, khi liên kết trường hợp Việt Nam với Trung Quốc, ta có thể thấy có sự tồn tại của một mô thức phản kháng và phản đối trong thời kì hậu Stalin – một mô thức châu Á, chủ yếu thể hiện qua phản đối bằng ngôn từ của trí thức chứ không phải là những cuộc xuống đường của quần chúng hay thậm chí nổi loạn, mặc dù Việt Nam cũng có một cuộc nổi loạn nông dân ngắn ngủi và Trung Quốc chứng kiến một vài cuộc biểu tình của sinh viên và công nhân. Mô thức phản kháng và phản đối châu Á có vẻ khác với mô thức Ba Lan – Hungary, mà ở đó sự phản đối của trí thức ban đầu quan trọng nhưng sau đó bị làm lu mờ bởi hành động bạo lực của quần chúng. Thứ ba, mối liên hệ Trung Quốc và ảnh hưởng Trung Quốc đối với quá trình giải ảo Stalin có tính hai mặt. Một mặt, Trung Quốc tán đồng – dù cố ý hay không – sự giải phóng ở Đông Âu và Việt Nam, và sự tán đồng này là một phần quan trọng trong việc hạ bệ Stalin mà Moskva phát động. Nhưng mặt khác, ngược với niềm tin ngây thơ của nhiều nhân vật cải cách và trí thức Đông Âu và Việt Nam, Mao và ban lãnh đạo Trung Quốc chưa bao giờ thực sự tin vào dân chủ và tự do. Họ không chần chừ bộc lộ phản ứng cứng rắn trước thách thức sự cai trị của Đảng Cộng sản trong trường hợp Hungary, nhưng phải mất một năm trước khi nhiều người ở Đông Âu, Việt Nam và Trung Quốc nhận ra điều này. Dù ý định ban đầu của những người cộng sản Trung Quốc có là gì (khi họ cổ vũ cho Chính sách Trăm hoa và Chỉnh huấn), cuối cùng thì họ chấm dứt phong trào giải phóng từng nảy nở bằng cách dùng biện pháp khác với cách đàn áp cách mạng Hungary của Liên Xô, nhưng có tính toán hơn và có lẽ tiêu cực hơn [64] . Vì thế, nếu Trung Quốc đã đóng góp vào phong trào giải phỏng và tác động đến các nước cộng sản khác theo cách riêng của mình, thì nước này cũng đóng góp vào sự đàn áp phong trào giải phóng theo cách riêng của mình.
————
[1]Ghi chú của talawas: Do sự chậm trễ từ phía chúng tôi, bản dịch của Lê Quỳnh đã được hoàn thành từ lâu, nay mới có thể công bố trên talawas. Xin chân thành cáo lỗi cùng tác giả và dịch giả.
[2]Ví dụ, các sách tiếng Anh The Rise and Fall of Communism (tác giả Richard H. Hudelson, New York: Westview, 1993), The Communist Movement Since 1945 (Willie Thompson, Oxford: Blackwell, 1998), Eastern Europe Since 1945 (Geoffrey Swain và Nigel Swain, New York: St. Martin’s, 1998) và The Rise and Fall of Communism in Eastern Europe (Ben Fowkes, New York: St. Martin’s, 1993) không nhắc đến vai trò của Trung Quốc trong giai đoạn hạ bệ Stalin và giải quyết khủng hoảng Ba Lan – Hungary trong khi vẫn bám vào cách diễn giải nhấn mạnh đến Moskva. Việt Nam lại càng không nằm trong khuôn khổ phân tích lấy Moskva làm chính, và nhiều sử gia cộng sản thậm chí không biết tới trường hợp Việt Nam trong giai đoạn hạ bệ Stalin. Một tác giả viết rằng “Rõ ràng không đảng nào ở Nam Á hay Đông Nam Á bị rối loạn vì sự kiện hạ bệ Stalin, có lẽ vì cách nhìn của họ, vì là các tổ chức chủ yếu dựa vào nông dân và không dính đến Phòng Thông tin Cộng sản Quốc tế, ít gắn bó hơn với thái độ của Liên Xô hoặc sự quan trọng của ký ức về Stalin so với các đảng Đông Âu…” Phát ngôn này rõ ràng tách Việt Nam khỏi cuộc khủng hoảng trong thế giới cộng sản năm 1956-1957 chỉ vì cách mạng Việt Nam dựa vào nông dân và ít chịu ảnh hưởng hơn từ Moskva. Willie Thompson, The Communist Movement Since 1945, trang 77.
[3]Một ví dụ trong các tác phẩm ban đầu mang quan điểm này là “China and the Communist ‘Thaw” của G. F. Hudson. Đây là lời bạt cho quyển The Hundred Flowers Campaign and the Chinese Intellectuals của Roderick Macfarquhar (New York: Praeger, 1960), trang 299. Một ví dụ gần đây của quan điểm này là quyển Mao’s China and the Cold War của Jian Chen (Chapel Hill: University of North Carolina Press, 2001), trang 145.
[4]Phần trên chủ yếu dựa vào bài “Sự biến Ba Lan / Hungary và chuyến đi của Lưu Thiếu Kỳ đến Liên Xô” của Shi Zhe, Bai Nian Chao 2 (1997): 11-17. Shi Zhe là thư ký và phiên dịch tiếng Nga cho Mao vào cuối thập niên 1940 và 1950. Ông làm phiên dịch cho phái đoàn Trung Quốc đến Moskva hồi tháng 10-1956. Xem thêm cuốn Mao’s China and the Cold War của Jian Chen để có ghi chép chi tiết hơn về chủ đề.
[5]N. S. Khrushchev, hồi ký Khrushchev Remembers (Boston: 1970), trang 418
[6]Joseph L. Nogee và Robert H. Donaldson, Soviet Foreign Policy Since World War II (New York: Pergamon Press, 1984), trang 219
[7]Geoffrey Swain và Nigel Swain, Eastern Europe Since 1945, trang 71–72
[8]William E. Griffith, chủ biên, Communism in Europe: Continuity, Change, and the Sino-Soviet Dispute, vol. 2 (Boston: MIT Press, 1966), trang 101
[9]Như trên
[10]Robert V. Daniels, chủ biên, A Documentary History of Communism (New York: Random House, 1960), trang 346–349
[11]Imre Nagy, On Communism (New York: Praeger, 1957), trang 23
[12]Janos Radvanyi, “The Hundred Flowers Movement and the Hungarian Revolution”, trong quyển Hungary and Superpowers (Stanford, Calif.: Stanford University Press, 1972), trang 23. Bài viết này ban đầu in trong tạp chí China Quarterly 43 (tháng Bảy – Chín 1970): 121-129, dưới nhan đề “The Hungarian Revolution and the Hundred Flowers Campaign”, nhưng trước khi đưa vào sách, tác giả có bổ sung và sửa chữa. Tác giả là một viên chức ngoại giao cao cấp tại Bộ Ngoại giao Hungary giữa thập niên 1950 và trưởng phân ban châu Á của bộ này trong các năm 1958-1959.
[13]Ngày 1-11-1956, bình luận trên Nhân dân Nhật báo nói quan hệ giữa các nước XHCN cần được thiết lập trên nền tảng của “Năm nguyên tắc”. Nhưng ba ngày sau, tờ báo này lại ca ngợi việc Liên Xô dập tắt cuộc nổi loạn của Hungary.
[14]Janos Radvanyi, “The Hundred Flowers Movement and the Hungarian Revolution”, trang 23–24
[15]Griffith, chủ biên, Communism in Europe, 1: 242
[16]Li Shenzi, “Chủ tịch Mao quyết định dụ rắn ra khỏi hang lúc nào?”, Yenhuang chunqiu, tháng Giêng 1999, trang 5-14. Li là cố vấn về quan hệ quốc tế cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc thập niên 1950 và 1960, và cuối thập niên 1990 trở thành nhân vật hàng đầu trong giới trí thức cởi mở của Trung Quốc. Quan điểm của ông về quyết định của Mao trong chiến dịch chống phái hữu rất có ảnh hưởng.
[17]Ví dụ, trong một cuộc họp với các bí thư tỉnh ủy ngày 27-1, Mao nói các chính sách đàn áp của Rákosi (như không cho biểu tình, không nộp đơn thỉnh nguyện, không chỉ trích…) đã gây ra khủng hoảng ở Hungary. Mao Trạch Đông, Tuyển tập (Beijing: People’s Publisher, 1980), 5: 354. Hai tháng sau, trong hội thảo của cục tuyên huấn, cục trưởng Lục Định Nhất, nhắc tên của Gero, Tổng Bí thư đảng của Hungary năm 1956, như ví dụ của tình hình đất nước nguy ngập vì đàn áp ý kiến khác biệt. Lục Định Nhất, Tuyển tập Lục Định Nhất (Beijing: People’s Publisher, 1992), trang 556.
[18]Griffith, Communism in Europe, 1: 103
[19]Như trên, 1: 104
[20]Như trên
[21]Quyển The Warsaw Heresy của S. L. Shneiderman (New York: Horizon Press, 1959) là một mô tả minh hoạ về chính sách thận trọng của Gomulka sau cuộc khủng hoảng tháng 10 ở Ba Lan – Hungary.
[22]G. F. Hudson, “China and the Communist ‘Thaw'”, trang 30
[23]Như trên, trang 104
[24]Chen Qingquan, “Làm sao Lục Định Nhất lại cổ vũ chính sách ‘Trăm hoa’?”, Yenhuang chunqiu, tháng Chín 2000, trang 6
[25]Li Yueran, The Leaders of the New China on the Stage of Foreign Affairs (Beijing: People’s Liberation Army Press, 1990), trang 127–128
[26]Nikita Khrushchev, Khrushchev Remembers (Boston: Little, Brown, 1974), trang 275
[27]Như trên, trang 271
[28]Hudson, “China and the Communist ‘Thaw,'” trang 307
[29]Griffith, Communism in Europe, 1: 78–79, 105.
[30]Hoàng Văn Hoan, My Memoir (Beijing: People’s Liberation Army Press, 1987), trang 277
[31]Như Phong, “Intellectuals, Writers and Artists”, trong North Vietnam Today, P. J. Honey chủ biên (New York: Praeger, 1962), trang 81
[32]Kim N. B. Ninh, A World Transformed: The Politics of Culture in Revolutionary Vietnam 1945–1965 (Ann Arbor: University of Michigan Press, 2002), trang 130–131
[33]Để đọc một mô tả chi tiết về một trong các ví dụ “tan băng” ở Đông Âu, xem bài “Poland’s Literary ‘Thaw’: Dialectical Phase or Genuine Freedom?” của Magnus J. Krynske, in trong The Polish Review, mùa Thu 1956, trang 8–21.
[34]Georges Boudarel, “Intellectual Dissidence in the 1950s: The Nhan-Van Giai-Pham Affair,” in trong The Vietnam Forum, do O. W. Wolters chủ biên (New Heaven, Conn.: Yale Southeast Asia Studies, 1990), 13: 158
[35]Gong Yuzhi, Mao Zedong’s Reading Life (Shanghai: Shanghai People’s Publisher, 1997), trang 493
[36]Lục Định Nhất, “Cái nhìn lịch sử về ‘Bách hoa tề phóng, Bách gia tranh minh,” Guangming Daily, 7-5-1986
[37]Xem Ninh, A World Transformed, chương 4, trang 121–161, nói về sự phản kháng của trí thức.
[38]Như trên, trang 140
[39]Như trên. Bài về Nhân văn – Giai phẩm của Boudarel cũng có tư liệu về liên hệ giữa Hồ Phong và Trần Dần.
[40]Shawn McHale, “Vietnamese Marxism, Dissent, and the Politics of Postcolonial Memory: Tran Duc Thao, 1946–1993”, Journal of Asian Studies 61.1 (2002): 14
[41]Bernard B. Fall, The Two Vietnams – A Political and Military Analysis (New York: Praeger, 1967), trang 188
[42]P. J. Honey, “Ho Chi Minh and the Intellectuals”, trong cuốn Vietnam: Anatomy of a Conflict, R. Fishel Wesley chủ biên (Itasca, Ill.: Peacock Publishers, 1968), trang 160
[43]Các chính sách mới này là: “1) Đoàn kết giới trí thức và động viên toàn bộ lực lượng trí thức cho nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới; 2) Sử dụng trí thức theo khả năng và giao cho họ công tác phù hợp trên nguyên tắc chức vụ và quyền lực được phân phối theo khả năng và đạo đức; 3) Bảo đảm cho trí thức có phương tiện cần thiết để làm việc, tặng thưởng cống hiến theo khả năng của đất nước; 4) Giúp các thế hệ trí thức lớn tuổi học tập ý thức hệ cách mạng, đào tạo thế hệ trí thức mới, không ngừng nâng cao hiểu biết của trí thức và mở rộng hàng ngũ.” Robert F. Turner, Vietnamese Communism (Stanford, Calif.: Stanford University Press, 1975), trang 152.
[44]Edward Friedman, “The Revolution in Hungary and the Hundred Flowers Period in China”, Journal of Asian Studies, 35.1 (1965): 122
[45]Chiến dịch “sửa sai” cải cách ruộng đất cũng chứng tỏ có ảnh hưởng Trung Quốc. Theo Hoàng Văn Hoan (Hồi ký, bản dịch tiếng Anh, trang 285), Chu Ân Lai rất lo ngại về vai trò của cố vấn Trung Quốc trong cuộc cải cách ruộng đất ở Việt Nam. Sau khi Hoan đi họp ở phiên Toàn thế thứ Mười và quay lại Bắc Kinh, Chu Ân Lai gọi ông ta đến và hỏi rằng cố vấn Trung Quốc chịu bao nhiêu phần trách nhiệm cho những sai lầm trong cải cách ruộng đất của Việt Nam. Hoan trả lời rằng kinh nghiệm Trung Quốc tốt lắm, và mọi biện pháp quá khích đều là do cán bộ Việt Nam quyết định cả – dĩ nhiên nhận xét này không được các sử gia cho là chính xác.
[46]Ang Cheng Guan, Vietnamese Communists’ Relations with China and the Second Indo – Chinese Conflict (Jefferson, N.C.: McFarland & Company, 1997), trang 36
[47]Ninh, A World Transformed, trang 146
[48]Honey, “Ho Chi Minh and the Intellectuals”, trang 161
[49]Ninh, A World Transformed, trang 144.
[50]Uy tín của Phan Khôi một phần là nhờ gốc gác gia đình. Cha của ông là tổng đốc Hà Nội, người đã tự sát khi quân Pháp chiếm đóng năm 1883. Phan Khôi trải qua phong trào chống Pháp của giới sĩ phu năm 1907 và trở thành nhân vật đứng đầu giới trí thức. Ông ủng hộ phong trào cộng sản Việt Nam vì sức hút dân tộc và dân chủ trong cuối thập niên 1940 và đầu 1950. Con trai ông cũng tham gia cách mạng cộng sản và trở thành biên tập viên của một tờ báo thuộc Mặt trận Tổ quốc, nhưng đã tự sát vào năm 1958, sau khi phong trào nới rộng tự do bị dập tắt và Phan Khôi cũng qua đời. (Ghi chú của talawas: 1. Trong bài “Phê bình lãnh đạo văn nghệ” nêu trên, câu “Tôi còn làm ăn được gì nữa cụ ơi! Tôi còn là tôi đâu được nữa cụ ơi” của Phan Khôi là hướng đến cụ Đồ Chiểu. 2. Phan Khôi là cháu ngoại của Tổng đốc Hà Nội Hoàng Diệu.)
[51]Bài viết này của Phan Khôi đăng trong Giai phẩm mùa Thu tập I (Ghi chú của taalwas)
[52]Turner, Vietnamese Communism, trang 153
[53]Như trên, trang 157
[54]Như trên, trang 155
[55]Honey, “Ho Chi Minh and the Intellectuals”, trang 163
[56]Hirohide Kurihara, “Changes in the Literary Policy of the Vietnamese Workers’Party, 1956–1958”, trong cuốn Indochina in the 1940s and 1950s, Takashi Shiraishi và Motoo Furuta chủ biên (Ithaca, N.Y.: Cornell University Press, 1992), trang 180
[57]Như trên, trang 183
[58]Ghi chú của talawas: Trong phiên toà xử “Vụ gián điệp Nguyễn Hữu Đang và Thuỵ An” ngày 19.1.1960 tại Toà án Nhân dân Hà Nội, năm người bị kết án là Nguyễn Hữu Đang, Lưu Thị Yến tức Thuỵ An, Trần Thiếu Bảo tức Minh Đức, Phan Tại và Lê Nguyên Chí. Lúc này Phan Khôi đã qua đời.
[59]Ang Cheng Guan, Vietnamese Communists’ Relations with China, the Second Indo-Chinese Conflict (Jefferson, N.C.: McFarland & Company, 1997), trang 58
[60]Một tình tiết, mặc dù xảy ra sau đó khá lâu, có thể xem là ví dụ chứng tỏ ông Hồ giỏi tiếng Hoa và dùng nó để tìm hiểu chính trị Trung Quốc. Tháng Năm 1966, khi ông Hồ ở Trung Quốc, ông gặp Mao tại Hàng Châu và theo lời khuyên của Mao, đã đến Đại học Triết Giang để đọc các “bích chương đại tự” để biết về Cách mạng Văn hoá đang diễn ra. Dẫn theo Wen Zhuang, “Ba cuộc gặp giữa Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh, 1965-1966), Zhong Heng, tháng Tám 2003, trang 12–13.
[61]Boudarel, “The Nhan-Van Giai-Pham Affair,” trang 170–171
[62]Kurihara, “Changes in the Literary Policy”, trang 189.
[63]“In China’s Shadow: The Ho Chi Minh Way,” The Economist, 5-1-1957, trang 41. Bài báo được viết bởi đặc phái viên của tạp chí.
[64]Một ví dụ ở một số nước Đông Âu, đặc biệt là Ba Lan và Hungary, là ban lãnh đạo thời kì sau 1956 đã có vài nhượng bộ trước đòi hỏi cải tổ kinh tế, và được sự đồng ý của Moskva. Sự đối xử với trí thức nói chung có cải thiện. Nhưng tại Trung Quốc và Việt Nam, cuộc đàn áp 1957-1958 đã loại bỏ thành phần cải tổ và những cải cách kinh tế đã không tái xuất hiện cho mãi tới đầu thập niên 1980, và giới trí thức đã chịu khổ trong Cách mạng Văn hoá còn hơn là thời kì những năm 1950.
Nguồn: http://nghiencuuquocte.org và talawas