I- MỤC TIÊU VÀ MÔ HÌNH KHÁI QUÁT
Trong đề án cần phân biệt mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể; mục tiêu nội dung và mục tiêu mức độ.
Căn cứ vào nhiệm vụ đến năm 2010 mà Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố Buôn Ma Thuột lần thứ XII xác định là “trở thành một trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của Tây Nguyên”, có thể thấy mục tiêu chung về nội dung đặt ra chính là phát triển bền vững; còn mục tiêu chung về mức độ là trở thành trung tâm của Tây Nguyên.
Bốn chữ “phát triển bền vững” là hoàn toàn đủ để bao quát hết các mục tiêu cụ thể. Muốn “phát triển” phải đẩy mạnh KINH TẾ và tập trung vào các MŨI NHỌN. Muốn “bền vững” phải có năng lực bao quát và cái nhìn TOÀN DIỆN (ss.: đàn ông có năng lực chuyên sâu nên giỏi về phát triển, đàn bà có năng lực bao quát nên giỏi về giữ ổn định). Do vậy, yêu cầu “bền vững” đòi hỏi phải chú trọng đủ cả bốn mặt “kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội” như Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố Buôn Ma Thuột lần thứ XII đã xác định. Bốn mặt đó chia thành hai nhóm rõ rệt: một bên là “kinh tế”, còn bên kia là “chính trị, văn hóa, xã hội”
Về mặt kinh tế, muốn phát triển thì phải hiện đại. Không thể lạc hậu mà phát triển được. Muốn hiện đại thì phải tất yếu phải xây dựng một nền kinh tế tri thức dựa vào thành tựu của các khoa học tự nhiên và công nghệ. Song muốn có kinh tế bền vững thì không thể phát triển theo kiểu thấy thế giới làm gì thì mình làm nấy được. Phát triển như vậy sẽ rơi vào tình trạng bong bóng xà phòng. Muốn phát triển bền vững thì khoa học tự nhiên và công nghệ phải tập trung phục vụ cho những ngành kinh tế gắn liền với đặc điểm tự nhiên.
Ba mặt “chính trị, văn hóa, xã hội” thực ra bao quát hai đối tượng là con người và xã hội. Như vậy, mô hình phát triển bền vững khái quát đòi hỏi bao quát ba lĩnh vực là tự nhiên, con người và xã hội, trong đó con người là trung tâm (hình 1). Phát triển kinh tế trên cơ sở đặc điểm tự nhiên phải đồng thời gắn liền với việc phát triển xã hội và con người.
II- ĐẶC TRƯNG VÀ MÔ HÌNH CỤ THỂ
Muốn phát triển bền vững tại một địa phương cụ thể thì phải xác định xem địa phương đó có đặc điểm gì, có thế mạnh gì để chọn ra những mũi nhọn mà đầu tư khai thác với hiệu quả tối đa.
Đối với Buôn Ma Thuột, đặc điểm của thành phố này là nằm ở trung tâm của vùng Tây Nguyên và mang đủ những đặc trưng cơ bản của vùng này.
Đặc trưng của Tây Nguyên về mặt tự nhiên là có sự đa dạng sinh học cao, với hệ sinh thái độc đáo, thuận tiện cho việc phát triển các loại cây công nghiệp và cây lâm nghiệp. Trên cơ sở đặc điểm này, mô hình phát triển kinh tế hợp lý cho Buôn Ma Thuột như một trung tâm kinh tế của Tây Nguyên là phát triển kinh tế công - nông nghiệp phù hợp với đặc điểm tự nhiên trên cơ sở ứng dụng khoa học tự nhiên và công nghệ. Nông nghiệp đầu tư phát triển các vùng chuyên canh cây công nghiệp (điển hình là cây cà phê). Công nghiệp đầu tư phát triển các nhà máy chế biến nông sản. Khoa học đầu tư cho các ngành đào tạo tương ứng và các đề tài tương ứng ở đại học và các viện nghiên cứu. Sự phối hợp tay ba của “khoa học - nông nghiệp - công nghiệp” có thể tạo thành một CAO NGUYÊN SINH HỌC.
Đặc trưng của Tây Nguyên về mặt xã hội là có sự đa dạng tộc người cao, trong đó 13 tộc người có mặt lâu đời nhất thuộc về hai nhóm ngữ hệ Mon-Khmer và Malayo-Polinesien. Đáng tiếc là trong một thời gian dài đặc trưng này chưa được chú ý đúng mức, dẫn đến sự bất bình đẳng và mâu thuẫn giữa các tộc người, các giá trị văn hoá tộc người bản địa chưa được bảo tồn và phát huy, khiến cho các tôn giáo phát triển nhanh, tạo kẽ hở cho kẻ thù lợi dụng. Sau sự kiện Tây Nguyên năm 2001, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 132/2002/QĐ-TTG ngày 8-10-2002 về việc giải quyết đất sản xuất và đất ở cho đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ ở Tây Nguyên; Quyết định số 25/2004/QĐ-TTG ngày 27-02-2004 về việc phê duyệt đề án "Phát triển hoạt động văn hóa - thông tin vùng Tây Nguyên đến năm 2010"; ngày 4-02-2005 lại có riêng một chỉ thị (số 01/2005/CT-TTG) về một số công tác đối với đạo Tin Lành. Hội nghị lần thứ 7 BCH TƯ Đảng khoá IX họp tháng 3-2003 cũng dành riêng một nghị quyết cho công tác dân tộc (số 23-NQ/TW) và một nghị quyết cho công tác tôn giáo (số 25-NQ/TW) [Thư viện Pháp luật 2005].
Những biện pháp và chính sách này đã đóng vai trò quyết định giúp cho việc ổn định tình hình Tây Nguyên. Song, đặc trưng về tính đa dạng tộc người của Tây Nguyên không nên chỉ xem như một vấn đề cần được giải quyết, mà, vượt qua cái đó, có thể và cần được coi là một thế mạnh tiềm năng đóng vai trò quan trọng cho sự phát triển.
Chính sự đa dạng tộc người này đã tạo nên biết bao giá trị đặc sắc. Đó là một nền văn hoá cồng chiêng đã được UNESCO công nhận là di sản văn hoá thế giới. Đó là một kho tàng sử thi truyền khẩu vô cùng độc đáo. Đó là một kho tàng ngôn ngữ hết sức phong phú. Đó là một vốn tri thức dân gian chứa đựng biết bao trí tuệ về kinh nghiệm sống, kinh nghiệm chữa bệnh, kinh nghiệm trồng trọt, v.v. Đó là những sản phẩm trang phục, kiến trúc, điêu khắc độc đáo và sinh động. Đó là một hệ thống nghi lễ và phong tục lâu đời làm cơ sở cho việc tổ chức một xã hội ổn định. Đó là một hệ thống luật tục lâu đời làm cơ sở cho việc quản lý và giải quyết tranh chấp xã hội trong suốt lịch sử... Những giá trị như vậy cần được tính đến và đặt đúng chỗ trong các giải pháp và các đề án phát triển Tây Nguyên.
Đáng tiếc là lâu nay tiềm năng con người và vai trò của khoa học xã hội và nhân văn ở Tây Nguyên nói riêng, ở Việt Nam nói chung, thậm chí ở thế giới nữa, vẫn chưa được chú ý đúng mức. Chính vì chưa chú ý đúng mức đến vấn đề này nên mới xảy ra những việc đáng tiếc như sự kiện Tây Nguyên, sự kiện Thái Bình, và rộng hơn, sự kiện sụp đổ của phe XHCN.
III- VAI TRÒ CỦA CON NGƯỜI VÀ KHXH-NV TRONG MÔ HÌNH PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG BUÔN MA THUỘT
Nếu sự đa dạng sinh học là cơ sở để hình thành một “cao nguyên sinh học”, thì sự đa dạng tộc người hoàn toàn có thể làm cơ sở để hình thảnh một “cao nguyên văn hoá tộc người”. Điều đó có nghĩa là Buôn Ma Thuột phải trở thành một trung tâm về các vấn đề khoa học xã hội và nhân văn đặc thù của Tây Nguyên. Đây phải là nơi biết rõ hơn đâu hết các giá trị văn hoá của các tộc người cư trú trên địa bàn, nơi dự báo và tư vấn các vấn đề về văn hoá tộc người, nơi mà thế giới phải hướng tới khi nói đến các vấn đề tộc người ở Đông Nam Á. Nằm trong tổng thể “cao nguyên văn hoá tộc người”, bên cạnh Đại học Tây Nguyên và Viện nghiên cứu Tây Nguyên, sẽ là Trung tâm tư vấn văn hoá Tây Nguyên, Bảo tàng văn hoá tộc người Tây Nguyên, Làng văn hoá Tây Nguyên, v.v.
Khi đó, các thành tựu nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn đặc thù của Tây Nguyên sẽ làm cơ sở cho việc bảo tồn văn hoá của các tộc người bản địa; trở thành thế mạnh phục vụ cho việc phát triển con người về thể xác (vd, khai thác các kinh nghiệm dân gian trong việc dưỡng sinh, trị bệnh), và về tinh thần (giáo dục đào tạo), giúp cho việc phát triển dịch vụ du lịch đi vào chiều sâu.
Như vậy, mô hình phát triển Buôn Ma Thuột sẽ lấy con người và việc phục vụ con người làm trung tâm, đặt trong mối quan hệ bộ ba mật thiết với tự nhiên và xã hội (x. hình 2).
Việc phát triển CON NGƯỜI xoáy vào ba trọng tâm: trí tuệ (hệ thống đại học và viện nghiên cứu hướng vào các vấn đề đặc thù Tây Nguyên cả về tự nhiên và xã hội), thể xác (dịch vụ dưỡng sinh trên cơ sở khai thác vốn y dược cổ truyền, đặc biệt là của các tộc người bản địa), giải trí (dịch vụ du lịch sinh thái và văn hoá).
Trên cơ sở tính đa dạng sinh học của TỰ NHIÊN và dựa vào phần trí tuệ của CON NGƯỜI (hệ thống đại học & viện nghiên cứu), xây dựng một liên hợp công-nông nghiệp trồng trọt và chế biến các loại cây công nghiệp mà chủ lực là cây cà phê. Tất cả tạo thành cao nguyên sinh học như một tổ hợp “Đại học - Viện NC - Nông nghiệp - Công nghiệp”: Đại học thì đào tạo con người → Viện thì nghiên cứu phát triển → Nông nghiệp thì trồng trọt → Công nghiệp thì chế biến. Kết quả thu được quay trở lại hỗ trợ cho đại học và viện nghiên cứu.
Trên cơ sở tính đa dạng tộc người của XÃ HỘI và dựa vào phần trí tuệ của CON NGƯỜI (hệ thống đại học & viện nghiên cứu), xây dựng một hệ thống dịch vụ văn hoá Tây Nguyên (như Trung tâm tư vấn văn hoá, Bảo tàng văn hoá tộc người [Dương Trung Quốc 2007], Làng văn hoá…), tạo thành một cao nguyên văn hoá tộc người như một tổ hợp “Đại học - Viện NC – Dịch vụ”: Đại học thì đào tạo con người → Viện thì nghiên cứu phát triển → Dịch vụ thì ứng dụng phục vụ xã hội. Kết quả thu được quay trở lại hỗ trợ cho đại học và viện nghiên cứu.
Từ ba phía – cao nguyên sinh học, cao nguyên văn hoá tộc người, và trực tiếp từ hệ thống Đại học - Viện NC – phối hợp tạo nên hệ thống dịch vụ ứng dụng phục vụ con người: dịch vụ du lịch và dịch vụ dưỡng sinh. Du lịch có du lịch sinh thái (dựa vào tự nhiên) và du lịch văn hoá (dựa vào xã hội). Dưỡng sinh phát triển trên cơ sở tài nguyên sinh thái (tự nhiên) và kinh nghiệm y dược cổ truyền (xã hội). Hai loại dịch vụ này đến lượt mình lại tương tác với nhau: du lịch đưa khách đến cho dưỡng sinh, dưỡng sinh làm cho du lịch trở nên đa dạng và hấp dẫn hơn. Ví dụ cho loại hình dịch vụ dưỡng sinh trên cơ sở y dược học cổ truyền kết hợp với du lịch như vậy có thể kể đến hệ thống “Đồng nhân đường” ở Bắc Kinh và Thượng Hải.
Như vậy, khác với những mô hình phát triển thuần tuý, mô hình phát triển bền vững này kết hợp chặt chẽ ba thành tố tự nhiên - con người - xã hội. Trong đó thành tố tự nhiên chủ yếu là phát triển kinh tế, thành tố xã hội chủ yếu bảo tồn và phát triển văn hoá, thành tố con người chủ yếu sáng tạo và hưởng thụ. Bên cạnh chức năng chủ yếu của mình, cả ba đều làm kinh tế, đều bảo tồn và phát triển văn hoá, đều sáng tạo và hưởng thụ (hình 3).
Cả ba đều làm kinh tế vì kinh tế sản xuất thì dựa vào tự nhiên, còn kinh tế dịch vụ thì dựa vào con người và xã hội. Cả ba đều bảo tồn và phát triển văn hoá vì thành tố tự nhiên và con người đều tham gia đóng góp vào hoạt động dịch vụ du lịch và dưỡng sinh, mà các loại dịch vụ này đều sử dụng các giá trị văn hoá, nên đều góp phần bảo tồn và phát huy chúng. Cả ba đều sáng tạo và hưởng thụ vì thành tố tự nhiên và xã hội đều tham gia đóng góp vào hoạt động dịch vụ du lịch và dưỡng sinh (hưởng thụ), đều kích thích sự phát triển của hoạt động đào tạo và nghiên cứu (sáng tạo).
Mọi thành tố đều tham gia vào hoạt động kinh tế nên mục tiêu phát triển ở mô hình này được thực hiện tốt. Hoạt động kinh tế thực hiện trên cơ sở những thế mạnh của riêng mình với những mối quan hệ giằng kéo nhau chằng chịt khiến cho mô hình này đạt được mục tiêu (phát triển) bền vững và có tính hiệu quả cao. Khâu duy nhất còn chưa mạnh trong mô hình này áp dụng cho Buôn Ma Thuột – đó là phần trí tuệ, là việc xây dựng một phức hợp đại học - viện nghiên cứu đủ mạnh về cả khoa học tự nhiên - công nghệ và khoa học xã hội - nhân văn. Làm được điều này thì việc áp dụng mô hình trên sẽ thành công, và Buôn Ma Thuột lúc đó sẽ thực sự trở thành trung tâm của toàn Tây Nguyên.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đại hội Đảng bộ BMT 2005: Đại hội Đảng bộ lần thứ XII thành phố Buôn Ma Thuột. –http://www.cpv.org.vn/details.asp?topic=23&subtopic=113&leader_topic=180&id=BT2050562112
2. Đặng Lê Nguyên Vũ 2007: Buôn Ma Thuột – thủ phủ cà phê toàn cầu. - Hội thảo quốc tế “Cây cà phê và sự phát triển bền vững của tỉnh Đắlkăk” (Dak Lak Workshop on Sustainable Development), Buôn Ma Thuột, tháng 7-2007.
3. Dương Trung Quốc 2007: Một bảo tàng cà phê ở Việt Nam? - Hội thảo quốc tế “Cây cà phê và sự phát triển bền vững của tỉnh Đắlkăk”, Buôn Ma Thuột, tháng 7-2007.
4. Thư viện Pháp luật 2005: Thư viện Pháp luật. - Công ty Phần mềm VNReview, CD-ROM / www.ThuVienPhapLuat.com
Nguồn: In trong: Những vấn đề Khoa học Xã hội & Nhân văn – Chuyên đề Văn hoá học, Tp.HCM - Nxb Đại học Quốc gia, 2013