1. Văn hóa an toàn (VHAT) là gì?
Lịch sử hình thành khái niệm văn hóa an toàn
Ngay từ những năm 1980 đã có nhiều nghiên cứu về VHAT. Tuy nhiên khái niệm VHAT khi đó vẫn chưa định hình rõ và chưa thực sự thu hút sụ chú ý của xã hội. Trong các tài liệu khoa học hồi đó có khá nhiều định nghĩa khác nhau về VHAT với cả ý kiến ủng hộ và chống đối khái niệm này (1). Mãi cho đến thảm họa nhà máy điện hạt nhân Chernobyl năm 1986 vấn đề VHAT một lần nữa lại thu hút dư luận vì nó trở nên sống còn đối với một hệ sản xuất công nghệ rất cao và mối nguy hiểm gây ra cho con người. Thuật ngữ “Văn hóa an toàn – Safety Culture”” lần đầu tiên được đề xuất trong bản “Báo cáo tổng hợp của Hội thảo Hậu Thảm họa Chernobyl” được công bố năm 1988, trong đó VHAT được xác định là “tổng hợp các đặc tính và thái độ của các tổ chức và cá nhân nhằm khẳng định rằng các vấn đề an toàn hạt nhân cần được đặc biệt chú ý do tầm quan trọng của nó”. VHAT là thuật ngữ được dùng để chỉ “cái cách mà sự an toàn được quản trị tại nơi làm việc và thường phản ánh thái độ, niềm tin, quan niệm và giá trị mà nhân viên chia sẻ với nhau liên quan đến sự an toàn” (2).Ủy ban An toàn và Sức Khỏe Anh quốc, 1993, phát triển một trong những định nghĩa được sử dụng phổ biến về VHAT: “(VHAT) là sản phẩm của các cá nhân hay nhóm về giá trị, thái độ, quan niệm, sự cạnh tranh và đã được kiểu hành vi xác định sự cam kết và cách thức quản trị an toàn về sức khỏe của tổ chức đó”. Định nghĩa này sau đó ủy ban Cố vấn về An toàn hạt nhân tán thành, mặc dù nghe rất rối rắm (3). Thực ra có thể hiểu VHAT theo cách giản đơn dễ hiểu hợn. VHAT là một dạng văn hóa doanh nghiệp (tức là một hệ sản xuất), nhằm đảm bảo an toàn tính mạng và tài sản của:
a/ người lao động,
b/ người sử dụng sản phẩm của doanh nghiệp, và
c/ người cư trú trong phạm vi ảnh hưởng về môi trường của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp hay hệ sản xuất là sản phẩm nhân tạo, chúng không phải là con đẻ của tự nhiên. Sự xuất hiện các hệ sản xuất là do con người và vì con người nên chúng luôn trái với lẽ tự nhiên. Vì thế con người cần VHAT để có thể điều chỉnh hành vi của hệ sản xuất sao cho chúng không gây tác động xấu đến tính mạng và tài sản của con người, kể cả những người lao động trong hệ, những người sử dụng sản phẩm của hệ và những người chẳng may phải cư trú gần hệ sản xuất. Theo cách hiểu này, VHAT gần như đồng nghĩa với việc một hệ sản xuất (doanh nghiệp) lập và thực hiện tốt đề án Bảo vệ môi trường, và khi còn ở dạng dự án đầu tư, chủ dự án phải lập và thực hiện tốt báo cáo Đánh giá tác động môi trường (ĐTM).
Nét khác biệt giữa VHAT với việc thực thi một đề án BVMT hay một báo cáo ĐTM là ở chỗ VHAT là một quá trình chủ động tự cải tiến quản lý liên tục, tự quan trắc liên tục của chính doanh nghiệp và được kiểm tra bởi một cơ quan độc lập để vừa kiểm soát vừa kịp thời hỗ trợ cho doanh nghiệp theo cách không gây thêm phiền hà cho sản xuất. VHAT là một bộ phận của thương hiệu, trong khi ĐTM hay Đề án BVMT không phải như vậy.
Những đặc trưng của Văn hóa An toàn
Hudson (1999) trích dẫn Reason (1997) đã xác định một số đặc trưng của VHAT như sau:
- Sự hiểu biết: Người quản lý và vận hành hệ thống (sản xuất) phải có đủ hiểu biết về con người, kỹ thuật, các yếu tố môi trường và tổ chức của cả hệ thống sản xuất đang vận hành. Thiếu hiểu biết nghiệp vụ mà quản trị hay vận hành một hệ sản xuất thì không sớm hay muộn cũng biến hệ này thành quả bom không biết nổ khi nào.
- Minh bạch trong báo cáo: nhà sản xuất luôn sẵn sàng báo cáo về những sai lầm và thiếu sót của quá trình sản xuất cũng như chất lượng sản phẩm, không dấu diếm, không dối trá. Công khai, minh bạch thông tin đối với người dân là một biểu hiện quan trọng của văn hóa an toàn. Giấu giếm thông tin có liên quan đến sự cố chẳng những là thiếu văn hóa mà phải được xem như tội phạm hình sự. Người dân có quyền đòi hỏi thông tin trung thực một khi sự cố đe dọa đến cuộc sống của họ.
- Không dấu diếm khi cần phơi bày sự thật, công chúng được cổ vũ thậm chí được tưởng thưởng khi cung cấp các thông tin liên quan đến sự an toàn.
- Dám học hỏi: luôn biết cách rút ra các kết luận đúng đắn dựa trên hệ thống thông tin về sự an toàn và sẵn sàng áp dụng để cải thiện tình thế -
- Trân trọng những phát hiện do VHAT tạo ra. Vì nó nâng cao sự tin cậy giữa nhà quản lý và những người lao động trong doanh nghiệp, giữa doanh nghiệp và khách hàng của nó, khiến cho sự vận hành hệ sản xuất trơn tru và hiệu quả hơn. Văn hóa an toàn đòi hỏi chi phí nhưng cái lợi mà nó đem lại sẽ cao hơn chi phí vì khi hệ thống được đảm bảo an toàn, guồng máy sản xuất sẽ vận hành trơn tru, người lao động sẽ nỗ lực hơn và thương hiệu của doanh nghiệp được người tiêu dùng ngưỡng mộ.
2. Văn hóa an toàn ở Việt Nam
Khoảng 4 giờ 30 phút sáng 15 tháng 4, hàng nghìn khối đất đá từ bãi thải của mỏ than Phấn Mễ bất ngờ sạt lở vùi lấp nhà cửa của 10 hộ dân, 6 ngôi nhà khác trong khu vực bị ảnh hưởng. Hãy bỏ qua những tranh luận - và kể lể - và giả thiết về nguyên nhân xảy ra sự cố, việc này còn tốn thời gian và giấy mực. Vấn đề là bãi thải đã lở và người đã chết. Vậy nhưng ngay sau khi sự cố đã xảy ra tại bãi thải mỏ Phấn Mễ, một lãnh đạo của công ty khai thác than Phấn Mễ lên VTV1 vẫn khẳng định như đinh đóng cột rằng bãi thải rất an toàn. Hiện tượng sạt lở ở Phấn Mễ từng xảy ra vào các năm 1998 và 2006. Người dân đã nhiều lần gửi đơn đề nghị tới các cơ quan chức năng và mỏ than, nhưng chưa một lần được hồi âm(4). Đúng 1 tuần sau, 3h30 sáng 22/4, một vụ sụt lở khác đã xảy ra tại bãi thải của Công ty Than Núi Hồng chỉ cách mỏ Phấn Mễ chừng 15 km làm 1 người tử vong(5). Những năm gần đây không kể hết những vấn đề mất an toàn môi trường liên quan đến sản xuất. Từ chuyện các thầy cô giáo ở gần mỏ chì kẽm trong tỉnh Bắc Cạn bị nhiễm chì, các vụ ô nhiễm nước nhiều nơi gây chết thủy sản hàng loạt, vấn đề sức khỏe người dân do ô nhiễm tại các điểm đào đãi vàng ở Quảng Nam, vấn đề cát bay và phát tán phóng xạ do khai thác sa khoáng ti tan ven biển, vấn đề cạn kiệt nguồn nước ngầm do nuôi tôm trên cát ở nhiều vùng ven biển miền Trung, chuyện mấy lần tràn dầu ở vịnh Đà nẵng, vấn đề nứt đập thủy điện Sông Tranh 2, vấn đề liên đới giữa nhà máy super lân Lâm Thao với “làng ung thư” Thạch Sơn Phú Thọ, vấn đề nhà máy boxit – alumin Tân Rai Lâm Đồng chưa sản xuất đã làm rò rỉ kiềm gây ô nhiễm nguồn nước xung quanh; rồi trong lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm thì nào nước tương có M3PCD, bánh phở có formon, bánh chưng luộc với pin, thịt heo có “chất cấm”, thuốc cam có chì, thủy sản có dư lượng chất kháng sinh cao, rau quả chứa chất kích thích, chất bảo quản, hay dư lượng hóa chất bảo vệ thực vật quá cao, vụ mang lậu tôm hùm đỏ và rùa tai đỏ vào nuôi trong nước phải mất gần nửa năm mới giải quyết tạm ổn,… cho đến chuyện thời sự ở Quảng Ngãi về “bệnh lạ”. Cũng không cần và không thể kể hết ở đây các sự cố môi trường liên quan đến các hệ sản xuất đang diễn ra ở nước ta. Vấn đề cần nhận rõ là không ít hệ sản xuất ở nước ta thiếu một thứ văn hóa cơ bản đó chính là “Văn hóa an toàn”. Không ít hệ sản xuất chỉ nhăm nhăm vào việc giảm chi phí để tăng lợi nhuận mà không cần để tâm đến sự an toàn. Khi sự cố xảy ra thì phản ứng đầu tiên của nhà sản xuất là tuyên bố trấn an dư luận bằng những lý luận kém thuyết phục. Sự tràn lan cái thứ văn hóa không an toàn đó sẽ không có gì đáng nói nếu chúng xuất hiện lẻ tẻ, rời rạc, cục bộ. Tuy nhiên nếu chúng phổ biến rộng khắp thì sẽ không còn là vấn đề an toàn môi trường nữa mà trở thành một vấn đề quốc gia đại sự có tên là An ninh môi trường.
3. Văn hóa an toàn và An ninh môi trường
Trong sản xuất và đời sống thường gặp các rủi ro ngoài mong muốn của con người. Những rủi ro này có thể là do sự bất cẩn trong sản xuất và đời sống (ví dụ các vụ cháy nổ, tai nạn giao thông...). Những thiệt hại lớn thường ngoài tầm dự tính của con người hoặc do chính con người vụng tính (ví dụ các sự cố tràn dầu, sự cố nhà máy điện nguyên tử, cháy nổ hầm lò khai thác than...).
Có 2 loại sự cố môi trường: loại cấp diễn và loại trường diễn.
Loại sự cố cấp diễn có tính chất là nhanh, mạnh, đột ngột, thường trong thời gian ngắn và tác động trong một phạm vi không rộng, con người không kịp trở tay ví dụ cháy nổ, trượt lở bãi thải,… Đặc trưng chung của các sự cố này là thường xảy ra bất ngờ, thiệt hại đôi khi có thể không quá lớn nhưng hay kèm theo tổn thất sinh mạng trước sự chứng kiến của cộng đồng, nên hay gây ấn tượng mạnh, gây hoang mang trong xã hội và dễ bị các phương tiện truyền thông đại chúng khai thác.
Loại sự cố trường diễn xảy ra chậm chạp từ từ trong thời gian dài, trên phạm vi khá rộng nên con người ít chú ý, khi nhận ra thì rất khó đảo ngược tình hình; ví dụ: nhiễm mặn, biến đổi khí hậu,.. Các sự cố môi trường trường diễn thường chỉ được dư luận và chính quyền chú ý khi tạo ra các phản ứng mạnh mẽ của cộng đồng. Mặc dù thiệt hại của sự cố trường diễn khó tính đếm cho đủ và ít khi được dư luận xã hội để ý như các vụ thảm hoạ cấp diễn, nhưng tác động xã hội của chúng rất sâu sắc: chúng gây chia rẽ, mất đoàn kết trong cộng đồng và xói mòn lòng tin của công chúng đối với chính quyền.
Những sự cố mang tính thảm hoạ thường xảy ra trong các khu vực phát triển, có trình độ công nghiệp hoá cao, các khu vực đô thị đông dân. Mặc dù xác suất xảy ra các thảm hoạ này là rất nhỏ, nhất là trong lĩnh vực kỹ thuật cao (ví dụ điện hạt nhân, tàu ngầm nguyên tử, hàng không vũ trụ...), nhưng một khi thảm hoạ xảy ra thường có tác động xấu đến toàn xã hội. Thực tế này cho thấy để kiểm soát các sự cố kỹ thuật đi liền với các khu vực công nghệ cao, ngoài việc tăng cường khâu thẩm định công nghệ cũng như có các chương trình ngăn ngừa sự cố kỹ lưỡng, thì việc chuẩn bị ứng xử sự cố xảy ra cũng là một đòi hỏi bức xúc. Lịch sử cho thấy các rủi ro dẫn đến thảm hoạ môi trường từ sự cố kỹ thuật là điều mà khoa học ngày nay chưa thể dự báo và kiểm soát tốt. Đặc tính các hệ thống bao giờ cũng chứa đựng các nhiễu loạn (các tai biến hoặc rủi ro tiềm ẩn, nằm trong chính hệ thống kỹ thuật hay ở thao tác kỹ thuật của người lao động). Vì thế việc kiểm soát và dự báo sự cố kỹ thuật phải dựa trên chiến lược hành động có tính hệ thống.
Các phát minh công nghệ thường xuất hiện ở những nước công nghiệp phát triển có tiềm năng lớn. Khi được ứng dụng vào sản xuất, tỷ lệ khấu hao kỹ thuật mới hiện nay thường là 10% mỗi năm. Như vậy phải ít nhất 10 năm sau khi vận hành, các nước công nghiệp mới chuyển giao (xuất khẩu công nghệ) sang những nước đang phát triển. Để bán được các công nghệ này, các công ty xuất khẩu công nghệ thường tìm đủ mọi cách, kể cả những biện pháp cực đoan như mua chuộc các quan chức của bên nhập khẩu công nghệ, hoặc ép bên nhập khẩu phải tiếp nhận công nghệ đã khấu hao thông qua các chương trình tài trợ phát triển thiếu bình đẳng... Mặt khác, do nhu cầu tăng trưởng nhanh nền kinh tế, do trình độ công nghệ thấp không đủ sức thẩm định, nhiều vùng đang phát triển ở thế giới thứ 3 đã nhập những công nghệ lạc hậu và sớm trở thành “bãi thải công nghệ” của thế giới. Điều này cũng có nghĩa là bên nhập khẩu công nghệ lạc hậu cũng nhập khẩu luôn các nguy cơ tiềm ẩn của sự cố kỹ thuật. Và một nguy cơ còn lớn hơn cả là sự tụt hậu ngày càng xa của phía nhập khẩu công nghệ so với phía xuất khẩu công nghệ đã khấu hao.
Khi sự cố xảy ra, các doanh nghiệp có sự cố thường bưng bít, làm lạc hướng các cơ quan điều tra để thoái thác trách nhiệm. Đã có rất nhiều dẫn chứng về hiện tượng này trên thế giới. Điều này đòi hỏi cơ quan điều tra sự cố phải có năng lực cao cả về con người lẫn trang thiết bị kỹ thuật, cũng như tiềm lực khoa học và luật pháp.
Phát xả ô nhiễm của các cơ sở sản xuất không tạo ra các sự cố môi trường đột ngột, mà là một quá trình tích luỹ từ từ, trường diễn, ngay từ đầu ít được xã hội chú ý. Lượng ô nhiễm tăng dần gây phản ứng leo thang trong cộng đồng. Đây chính là cội nguồn của số lượng các đơn thư khiếu tố của công dân ngày càng tăng. Những đơn thư này nhiều trường hợp không được giải quyết thoả đáng và kịp thời, tạo ra các phản ứng tập thể và quá khích của những người chịu ảnh hưởng, đã làm nảy sinh nhiều vụ lộn xộn trong xã hội, làm suy giảm lòng tin của công chúng.
Đã từng xảy ra những vụ phản ứng tập thể của nhân dân chống lại hoạt động của bãi rác Nam Sơn (Hà Nội), Đông Thạnh (Tp Hồ Chí Minh), các bãi rác ở thành phố Hải Dương, thành phố Nam Định, phản ứng của nhân dân Cam Ranh đối với xả thải của nhà máy đường Cam Ranh (Khánh Hoà), vụ nhân dân đập phá doanh nghiệp Vạn Phát ở khu công nghiệp Phú Tài - Bình Định đầu những năm 2000 là một số trong những vụ việc điển hình. Phản ứng quyết liệt của công chúng sẽ trở nên phức tạp hơn và mang màu sắc phá hoại nếu bị kích động (ví dụ vụ một số người dân Thái Thuỵ - Thái Bình đập phá dàn khoan khí của một công ty năm 2000, do hoạt động khoan đã làm lan toả nước axít ép vỉa gây ô nhiễm môi trường)(6).
Những điều trình bày trên cho thấy từ VHAT đến ANMT chỉ là sự tăng tiến về tần suất và quy mô các vấn đề môi trường mà không có ranh giới rõ rệt. Công nghiệp hóa đã khó, nhưng tạo ra một nền văn hóa an toàn đáp ứng công nghiệp hóa bền vững còn khó gấp bội. Nhưng nếu thiếu văn hóa an toàn thì bất cứ hệ sản xuất nào, dù công nghệ cao đến đâu, cũng có thể là một quả bom nổ chậm.
4. Vai trò cộng đồng trong đảm bảo văn hóa an toàn và an ninh môi trường
Không bảo đảm an toàn thì không thể bền vững được. Do vậy, văn hóa an toàn và tiếp sau là an ninh môi trường không chỉ là mục tiêu, là một thước đo, mà còn là một yêu cầu của phát triển bền vững. An toàn trong kinh tế, trong xã hội và trong môi trường. Như vậy, mối quan hệ văn hóa an toàn – an ninh môi trường và phát triển bền vững là mối quan hệ hữu cơ, nhân quả. Vai trò của cộng đồng trong mối quan hệ đó bao gồm 2 nội hàm.
- Thứ nhất, cộng đồng là người phát hiện các biểu hiện của an toàn, an ninh, và cũng đóng vai trò không thể thay thế trong kiểm tra, giám sát việc bảo đảm an toàn, an ninh. Cộng đồng có mặt ở mọi nơi, mọi lúc. Các phương án theo dõi, quan trắc của các ngành dù đầy đủ và có mật độ dày đến đâu cũng không bao quát hết được không gian rộng lớn và giám sát được hết các biểu hiện đa dạng của an toàn, an ninh. Chỉ có cộng đồng được trang bị các kiến thức tối thiểu cần thiết mới có thể phát hiện kịp thời và thông báo đến các địa chỉ cần thiết các thông tin liên quan. Nói cách khác, mạng lưới cộng đồng trong an toàn, an ninh là không thê thay thế.
- Thứ hai, cộng đồng là người gánh chịu toàn bộ các hậu quả của sự mất an ninh, an toàn. Do vậy, họ gắn bó nhất, lo lắng nhất với việc được bảo đảm an toàn, an ninh, ở đây là an ninh môi trường.
Trở lại các ví dụ đã dẫn trong bài viết này. Thử xem có sự cố nào về an toàn, an ninh nằm ngoài 2 nội hàm vừa nêu không? Dễ dàng thấy là không! Vậy còn chờ gì nữa mà không nâng cao và đảm bảo vai trò cộng đồng trong việc bảo đảm an ninh môi trường, trong việc thực thi văn hóa an toàn nhằm phát triển bền vững. Hơn thế, khi nhận thức của xã hội về an toàn và an ninh môi trường, trong đó có nhận thức của chính các nhà sản xuất và các nhà quản lý, còn chưa cao, thì vai trò của cộng đồng càng quan trọng hơn. Trong văn hóa Phật giáo Việt Nam có pho tượng Phật Bà Nghìn mắt Nghìn tay, đó chính là hình ảnh nhìn thấu hiểu thấu của cộng đồng, của người dân. Nguyên tắc “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” là nguyên tắc đảm bảo sự thành công của các dự án chương trình phát triển kinh tế xã hội, đã được khẳng định từ lâu ở nước ta. Vấn đề là việc xây dựng một nền văn hóa an toàn của nước ta có thực thi đầy đủ nguyên tắc đó hay không? Thực tiễn không cho phép chậm trễ!
Chú thích
1. Safety culture http://en.wikipedia.org/wiki/Safety_culture
2. Phạm Duy Hiển.4/2012. Văn hóa an toàn qua sự cố đập Sông Tranh 2.
3. Patrick Hudson Safety Culture – Theory and Practice Centre for Safety ScienceUniversiteit Leiden The Netherlands. 12/1999
4. Nguyễn Quyết. Bãi thải mỏ than ở Thái Nguyên: Đã từng 2 lần sạt lở Báo Người lao động 16/4/2012. http://nld.com.vn/20120416112234173p0c1002/bai-thai-mo-than-o-thai-nguyen-da-tung-2-lan-sat-lo.htm2.
5. Nguyễn Thắng. Sụt lở bãi thải một công nhân chết thảm. Báo Dân Việt 22/4/.
6. Nguyễn Đình Hòe và Nguyễn Ngọc Sinh. Đảm bảo an ninh môi trường cho Phát triển bền vững. NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, 2010.
Nguồn: