logo

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
    • Thư ngỏ
    • Khái quát về Trung tâm
    • Nhân lực Trung tâm
      • Thành viên Trung tâm
      • Cộng tác viên
    • Giới thiệu Khoa Văn hóa học
      • Khái quát về Khoa
      • Nhân lực của Khoa
  • Tin tức
    • Tin nhà (Trung tâm)
    • Tin ngành
    • Tin liên quan
  • Đào tạo - Huấn luyện
    • Các chương trình
    • Tổ chức và Hiệu quả
    • Đào tạo ở Khoa VHH
      • Chương trình đào tạo
      • Kết quả đào tạo
  • Nghiên cứu
    • Lý luận văn hóa học
      • LLVHH: Những vấn đề chung
      • VHH: Phương pháp nghiên cứu
      • VHH: Các trường phái - trào lưu
      • Loại hình và phổ quát văn hóa
      • Các bình diện của văn hóa
      • Văn hóa học so sánh
      • Vũ trụ quan phương Đông
      • Văn hóa và phát triển
      • VHH và các khoa học giáp ranh
    • Văn hóa Việt Nam
      • VHVN: Những vấn đề chung
      • Văn hóa cổ-trung đại ở Viêt Nam
      • Văn hóa các dân tộc thiểu số
      • Văn hóa Nam Bộ
      • Văn hóa nhận thức
      • Văn hóa tổ chức đời sống tập thể
      • Văn hóa tổ chức đời sống cá nhân
      • Văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên
      • Văn hóa ứng xử với môi trường xã hội
    • Văn hóa thế giới
      • VH Phương Đông: Những vấn đề chung
      • VH Phương Tây: Những vấn đề chung
      • Quan hệ văn hóa Đông - Tây
      • Văn hóa Trung Hoa và Đông Bắc Á
      • Văn hóa Đông Nam Á
      • Văn hóa Nam Á và Tây Nam Á
      • Văn hóa châu Âu
      • Văn hóa châu Mỹ
      • Văn hóa châu Phi và châu Úc
    • Văn hóa học ứng dụng
      • VHƯD: Những vấn đề chung
      • VHH nghệ thuật
      • Văn hóa đại chúng
      • Văn hóa giao tiếp
      • Văn hóa du lịch
      • Văn hóa đô thị
      • Văn hóa kinh tế
      • Văn hóa quản trị
      • Văn hóa giáo dục - khoa học
    • Tài liệu phổ cập VHH
      • Văn hóa Việt Nam
      • Văn hóa thế giới
      • VHH ứng dụng
    • Tài liệu tiếng nước ngoài
      • Theory of Culturology
      • Vietnamese Culture
      • Applied Culturology
      • Other Cultures
      • 中文
      • Pусский язык
    • Thư Viện Số (Sách - Ảnh - Video)
      • Tủ sách Văn hoá học
      • Thư viện ảnh
      • Thư viện video
    • Các nhà văn hóa học nổi tiếng
  • Tiện ích
    • Dịch vụ Văn hóa học
    • Dịch vụ ngoài VHH
    • Trợ giúp vi tính
    • Từ điển Văn hóa học
    • Thư viện TT và Khoa
    • Tổng mục lục website
    • Tủ sách VHH Sài Gòn
    • Giải đáp thắc mắc
  • Thư giãn VHH
    • Văn chương Việt Nam
    • Văn chương nước ngoài
    • Nghệ thuật Việt Nam
    • Nghệ thuật thế giới
    • Hình ảnh vui
    • Video vui
  • Diễn đàn
  • Liên hệ
  • Trang chủ
  • Nghiên cứu
  • Văn hóa học ứng dụng
  • Văn hóa giáo dục - khoa học
Friday, 26 October 2012 07:54

GS.TSKH. Trần Ngọc Thêm: Bốn “trọng bệnh” của nền giáo dục Việt Nam

Người post bài:  TT VHH

 

GS.TSKH. TRẦN NGỌC THÊM:
BỐN “TRỌNG BỆNH” CỦA NỀN GIÁO DỤC VIỆT NAM

 

Hội nghị BCH Trung ương lần thứ sáu đã xem xét, thảo luận về đề án đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT và đề án phát triển KH&CN. Báo Lao Động số ra ngày 22-10-2012 có bài trao đổi với  GS.TSKH. Trần Ngọc Thêm - Chủ tịch Hội đồng KH – ĐT Đại học Quốc gia TPHCM, Uỷ viên Hội đồng Lý luận T.Ư - về hai nội dung trên.

 

 

GS vào thẳng vấn đề:

- Trước hết, về thực trạng giáo dục, tôi xin được nói thẳng thắn là hỏng ở các cấp học, trên khắp các bình diện, hỏng một cách căn bản và toàn diện. Chính vì thế nên Đảng, Nhà nước và tất cả người dân đều dễ dàng thống nhất với nhau về việc cần phải đổi mới giáo dục và đào tạo một cách căn bản và toàn diện như một nhu cầu cấp bách. Giáo dục VN theo tôi đang mắc 4 trọng bệnh: Bệnh thành tích, bệnh cào bằng, bệnh suy dinh dưỡng và bệnh gian dối.

Bệnh thành tích rất nặng ở khối phổ thông, giáo viên muốn lớp mình giỏi nên cho toàn điểm 9 - 10. Trường muốn thành tích cao, ngành cũng vậy. Cả nước chạy theo thành tích, lúc nào cũng muốn có nhiều trường đại học, có nhiều người tốt nghiệp. Điều này cho thấy người VN hiếu danh hơn hiếu học, tình trạng học giả, dạy giả, bằng thật rất nhiều, còn học thật mà không nhất thiết cần bằng thì rất ít.

Bệnh cào bằng dẫn đến tình trạng mở trường theo phong trào, tỉnh nào cũng có trường ĐH nhưng không có đủ giảng viên. Hiện đại hóa theo phong trào, trường nào cũng chuyển sang học chế tín chỉ, trong khi rất ít trường đáp ứng được những điều kiện tối thiểu để làm tín chỉ. Cào bằng đánh giá chất lượng, cái gì cũng làm nhưng không phân hóa rõ ràng chất lượng, kết quả. Quản lý khung học phí cũng cào bằng, dẫn đến tình trạng tất cả các cơ sở đào tạo đều thiếu kinh phí.

Bệnh suy dinh dưỡng chính là cái gốc của vấn đề giáo dục. Cơ sở vật chất của các trường thiếu và lạc hậu. Lương giáo chức quá thấp, không đủ sống nên quá nửa số giáo viên không an tâm với nghề. Nhà nước đầu tư 20% tổng ngân sách cho giáo dục, nhưng số tiền này đi vào cơ sở hạ tầng gần hết, thành ra vẫn như muối bỏ biển.

Bệnh gian dối là hệ quả của tất cả ba bệnh trên. Bệnh thành tích là nguồn gốc đầu tiên dẫn đến gian dối. Các con số tốt nghiệp cao hằng năm là gian dối. Bệnh cào bằng dẫn đến gian dối. Có phong trào nhưng hữu danh vô thực, cái gì cũng có nhưng không có gì chất lượng cao. Bệnh suy dinh dưỡng càng sinh ra gian dối. Trường nào cũng tìm  đủ mọi lý do cao cả để tăng các hệ đào tạo, tăng số lượng SV; báo cáo tỉ lệ số SV trên một giảng viên gian dối – tất cả thực chất cốt để thu học phí lấy tiền nuôi cán bộ, nuôi trường.

Từ 4 bệnh này sinh ra  đủ mọi hậu quả tệ hại: Chất lượng giáo dục xuống cấp, đạo đức học đường xuống cấp, nguồn nhân lực do hệ thống giáo dục cung cấp cho xã hội thiếu tính sáng tạo, khả năng nghiên cứu hạn chế nên KHCN trì trệ; năng lực thực hành thấp.

 

Đã có nhiều chuyên gia chỉ ra bệnh của giáo dục VN. Đối với 4 trọng bệnh mà Giáo sư vừa chẩn, xin hỏi có cứu chữa được không, nếu có thì cần bốc thuốc thế nào?

- Trước hết là cần xác định lại mục tiêu, phải căn cứ vào hệ giá trị định hướng của con người VN trong giai đoạn toàn cầu hóa, công nghiệp hóa mà xác định mục tiêu. Để tránh bệnh thành tích thì mục tiêu trước hết của giáo dục chưa phải là số lượng, mà phải là chất lượng. Sản phẩm hàng hóa kém chất lượng còn dùng tạm được, chứ sản phẩm giáo dục mà kém chất lượng thì thà đóng cửa trường còn hơn, vì càng cho ra nhiều bao nhiêu thì càng gây nguy hại cho xã hội bấy nhiêu.

Liều thuốc giải pháp phải vừa đủ bao quát để không sa đà vào những chuyện vụn vặt, đồng thời phải vừa đủ cụ thể để đảm bảo triển khai đúng hướng. Theo tôi, nên tập trung vào 5 nhóm giải pháp, gồm: Tổ chức hệ thống giáo dục; xây dựng nhân lực làm giáo dục; tăng cường vật lực cho giáo dục; thay đổi cơ chế giáo dục và đảm bảo chất lượng của hoạt động giáo dục.

Để tránh cào bằng, tổ chức hệ thống giáo dục cần chú trọng không chỉ phân hệ, phân cấp mà còn phải phân tầng giáo dục, mỗi tầng mỗi hệ có mục tiêu khác nhau và do vậy, cách quản lý, cách đầu tư, mức độ tự chủ cho phép phải rất khác nhau. Chẳng hạn, việc học trước hết phải có mục tiêu, học làm người rồi sau mới là học tri thức và học phương pháp làm việc. Cho nên, các cấp học đầu tiên phải thật coi trọng việc dạy làm người. Thầy cô mà chạy theo thành tích thì học trò sẽ chỉ học được cách gian dối, đối phó; thầy cô mà chỉ đòi hỏi học thuộc lòng, bắt học trò viết văn theo đúng mẫu cho sẵn thì sẽ triệt tiêu luôn tính sáng tạo.

Từ mẫu giáo, tiểu học lên THCS, THPT, vai trò của chức năng học làm người sẽ giảm dần, vai trò của học tri thức phải tăng dần. Nhưng từ THPT lên ĐH, sau ĐH, vai trò học tri thức nên giảm dần, mà vai trò học phương pháp phải tăng dần. Và bao trùm lên, tuy mục tiêu của mỗi giai đoạn mỗi khác nhau, nhưng những yêu cầu về hệ thống giá trị thì phải xuyên suốt. Tiểu học cũng phải chú trọng dạy tư duy sáng tạo, và ĐH cũng không được quên dạy làm người.

Về nhân lực giáo dục, có thể nói toàn bộ sự xuống cấp trầm trọng của giáo dục hiện nay trước hết có nguyên nhân từ giáo dục phổ thông quá kém. Trình độ, năng lực, bản lĩnh các thầy cô dạy phổ thông hạn chế là do chất lượng đầu ra của ngành sư phạm kém. Đầu ra kém là vì số lượng và chất lượng đầu vào ngành sư phạm ngày càng ít và thấp. SV không chọn ngành sư phạm là do cơ hội kiếm việc làm thấp, thu nhập thấp, địa vị nhà giáo không được tôn trọng. Không chỉ ngành sư phạm mà chất lượng SV tốt nghiệp tất cả các ngành ĐH đều ngày càng kém đi. Lý do rất đơn giản: Nhìn tấm gương các thầy, các giáo sư được đối xử như thế, SV giỏi không mấy ai chịu ở lại trường. Cái gốc của nhân lực giáo dục nằm ở chất lượng giáo viên ĐH. Cho nên giải pháp chính là, muốn có thầy cô phổ thông giỏi phải có thầy cô ĐH chất lượng, muốn có thầy cô cả phổ thông lẫn ĐH chất lượng thì giáo viên phải có thu nhập đủ sống mà không cần phải dạy thêm, đồng thời phải quản lý tốt để đảm bảo lao động cả về số lượng lẫn chất lượng.

Đến đây ta đã đụng chạm đến vấn đề mấu chốt của mấu chốt là vật lực giáo dục. Không có quốc gia nào mà nhà nước bao cấp được toàn bộ nền giáo dục. Việc xã hội hóa giáo dục nhằm đến nhiều mục tiêu, nhưng trong đó có mục tiêu huy động nguồn lực tài chính, đến lượt mình, việc đó liên quan đến chuyện kinh tế thị trường. Đừng né tránh mà nên công khai thừa nhận sự tồn tại của nhiều loại hình nhà trường, trong đó có loại trường hoạt động vì lợi nhuận. Chỉ có điều khác là thị trường kinh tế thì điều tiết bằng giá cả, còn thị trường giáo dục phải điều tiết bằng chất lượng. Bên cạnh đó, cần sử dụng thêm nhiều giải pháp khác để thu hẹp phạm vi bao cấp của ngân sách để nâng chất lượng đầu tư, ví dụ: Cổ phần hóa, phân tầng và cho mở trần học phí đối với một số loại trường (theo kiểu trường đại học quốc tế).

Về cơ chế giáo dục, tăng cường hơn nữa việc tự chủ là một giải pháp sẽ giúp giải quyết  cả chất lượng  lẫn tài chính. Nếu cứ cho ''bú mớm'' mãi mà không tăng cường tự chủ, phân cấp quản lý, cởi trói cho giáo dục thì giáo dục sẽ không thể cất cánh được. Tuy nhiên, nếu tự chủ tràn lan, cào bằng thì cũng rất nguy hiểm. Các trường ĐH chưa đủ tầm thì không nên cho tự chủ đại trà, nhưng trường lớn thì không thể trói buộc bởi nhiều cơ chế. Tăng cường dân chủ trong giáo dục cũng là một giải pháp khác về cơ chế.

Cuối cùng, hoạt động giáo dục phải đảm bảo chất lượng. Tư tưởng của nhiều thầy cô rằng điểm chẳng là gì cả, nên cấp phổ thông thì cho rộng tay để có thành tích, cấp ĐH và sau ĐH cho rộng tay để thu hút SV là nguy hại vô cùng cho tương lai của giáo dục nước nhà.

 

Tại một cuộc họp của Uỷ ban Thường vụ QH gần đây có nêu ra vấn đề  là chúng ta có hàng chục ngàn tiến sĩ, 9.000 giáo sư nhưng ít có  phát minh, sáng chế, trong lúc nông dân lại làm được điều đó, Giáo sư có nhận định gì về thực tế này?

- Xin được nói ngay, nghiên cứu khoa học có hai loại: Nghiên cứu lý thuyết, nghiên cứu cơ bản có thể đi trước thời đại rất nhiều, nhưng nghiên cứu ứng dụng thì ngược lại, phải gắn với nhu cầu xã hội. Hiện nay, nhiều nghiên cứu khoa học và chương trình đào tạo chưa sát thực tế, chưa nắm bắt nhu cầu từ sản xuất, đời sống. 

Tôi xin mở rộng thêm, xuất phát từ quan sát bề ngoài, lâu nay nhiều người cho rằng người Nam Bộ không chịu học cao, nhưng không thấy nguyên nhân là vì  người Nam Bộ vốn thiết thực, nên họ sẵn sàng tự học để có những kiến thức họ cần chứ không chịu mất thời gian ngồi học những thứ viển vông. Chúng ta từng chứng kiến các kỹ sư ''hai lúa'' Nam Bộ như Trần Văn Dũng ở Trà Vinh chế tạo máy hút bùn bán khắp cả nước; Năm Hiếu ở Cần Thơ chăm sóc mai tết không rụng, mỗi mùa thu mấy tỉ đồng; “thần đèn” Nguyễn Cẩm Lũy, Tư Lũy gây kinh ngạc cho giới kỹ sư chuyên nghiệp...

 

Vậy thì làm cách nào để các nhà khoa học làm ra được những sản phẩm công nghệ áp dụng được vào thực tiễn đời sống, thưa Giáo sư?

- Kinh nghiệm của thế giới là phải kết hợp 3 chức năng: Nghiên cứu khoa học – đào tạo – gắn kết với sản xuất trong một loại trường gọi là đại học nghiên cứu (Research University). Trong khi ở tất cả các trường ĐH của ta, kể cả hai ĐH quốc gia, vì lý do kinh tế nên đều coi nhiệm vụ đào tạo là chính, nhiệm vụ nghiên cứu khoa học là phụ. Lãnh đạo các trường chỉ thích giữ biên chế giảng dạy, bởi vậy mà nghiên cứu viên rất ít hoặc không có.

ĐH nghiên cứu là loại trường có hai lực lượng cán bộ với tỉ lệ trách nhiệm khác hẳn nhau: Cán bộ giảng dạy dành khoảng 70% thời gian cho giảng dạy + 30% cho nghiên cứu; và cán bộ nghiên cứu dành khoảng 70% thời gian cho nghiên cứu + 30% cho giảng dạy. Đây là loại trường đào tạo đội ngũ lãnh đạo cho quốc gia và nguồn nhân lực tinh hoa cho đất nước. ĐH nghiên cứu là chìa khóa cho việc xây dựng nền kinh tế tri thức, đưa đất nước vượt qua bẫy thu nhập trung bình.

Đức là nước đề xuất ra  mô hình ĐH nghiên cứu từ thế kỷ 19, nhờ các trường này mà Đức vượt lên trở thành quốc gia mạnh hàng đầu Châu Âu vào đầu thế kỷ 20. Chính các ĐH nghiên cứu đã giúp Mỹ giữ vững vị trí đứng đầu thế giới. Trung Quốc thực hiện quyết liệt việc xây dựng ĐH nghiên cứu từ năm 1995; Nga đưa ĐH nghiên cứu vào Luật Giáo dục từ năm 1996, thực hiện quyết liệt từ năm 2009. Thái Lan cũng làm từ năm 2009.

VN không thể không xây dựng ĐH nghiên cứu, do vậy làm sớm chừng nào tốt chừng ấy.

 

- Xin cảm ơn Giáo sư.

Lê Thanh Phong (thực hiện)
Báo Lao Động

Bình luận

khai do - 22/10/2012 14:54

Cảm ơn bài viết của giáo sư. Đúng là không đâu làm research tốt bằng trường đại học. Ở đây con nguời vừa có tâm huyết, tài năng đang phát triển, tuổi trẻ. Mong sao ở Việt Nam có một trường như vậy. Trân trọng.

 

Cục đất - 22/10/2012 15:41

Chuyện GS nói thì bất kỳ bạn nào được đi đào tạo ở nước ngoài đều biết nhưng bao năm nay nó vẫn vậy, thay đổi được còn khó hơn lên trời. Kinh phí nghiên cứu hoặc cấp cho SVNC thì ngày một khó khăn, thủ tục thì ngày một rườm rà làm người muốn nghiên cứu cũng nản. Biết rõ là phải tập cho SV học nghiên cứu qua con đường làm luận văn tốt nghiệp nhưng kinh phí không kiếm được thì thầy cô cũng bó tay, thế mới có chuyện nhiều thạc sĩ khi viết LV chưa viết đúng được đâu là mục tiêu và đâu là nội dung nghiên cứu nhưng rồi cũng vẫn TN thậm chí còn được điểm cao. Mơ ước trường ĐHNC vẫn chỉ là mơ ước.

 

Mr.Thanh Tung - 22/10/2012 15:56

Giáo sư đánh giá quá hay, và quá chính xác. Vợ tôi cũng là 1 giáo viên trường chuẩn, mặc dù đồng lương không cao nhưng cô ấy yêu nghề, chỉ mỗi tội hay hành hạ lỗ tai tôi vì những câu chuyện bất lực ở nhà trường: giao khoán chỉ tiêu % HS giỏi, khá, TB... như là 1 tiêu chí để đánh giá chất lượng giáo viên chủ nhiệm. Nếu có trót làm thật đúng với lương tâm nghề nghiệp thì sẽ ăn mấy câu cảnh cáo: "đừng có tự đem đá buộc vào chân", rồi hàng loạt những thứ khác mất theo. Như vậy thì vợ tôi đâu có ngu gì mà lại đi chấm thật điểm cho HS mà lại phải nới, nâng.... để không bị mang nhiều loại tiếng. Hi vọng sớm khôi phục lại được đạo đức nghề nghiệp của 1 số giáo viên và toàn xã hội để có 1 tương lai vững bền cho cả thế hệ.

 

hung - 22/10/2012 17:54

Ý kiến đánh giá của Giáo sư quá đúng nhưng sao giờ này GS mới đánh giá? Các căn bệnh kể trên sẽ theo các nhà khoa học, các nhà kỹ thuật và các sinh viên đã tốt nghiệp suốt cả cuộc đời đó. Theo tôi hãy cải cách giáo dục ngay lập tức tại bậc màm non và tiểu học sau đó tiến hành cải cách với các bậc đào tạo càng sớm càng tốt. Khó nhưng phải làm ngay kéo quá muộn rồi.

 

NHT - 22/10/2012 23:28

Thưa giáo sư, thưa tất cả các bạn đọc gần đây truyền thông nói nhiều về Giáo Dục. Tôi nhận thấy các vị giáo sư khả kính và các nhà nghiên cứu giáo dục nói nhiều về các căn bệnh và giải pháp đổi mới, cải cách giáo dục. Các ý kiến rất đúng rất xác thực nhưng tôi mạo muội đóng góp vài ý kiến sau: - Sẽ có nhiều người hiểu, biết nhưng không nói đúng căn bệnh của giáo dục (chúng ta thường nói giối mà). - Tôi thấy để cải cách giáo dục cần phải là trước hết cải cách xã hội. - Bệnh của ngành giáo dục cũng là bệnh chung của toàn xã hội. Không thể đòi hỏi một nền giáo dục tốt, tiên tiến trong khi các căn bệnh khác của xã hội đã nhiễm, ăn sâu trong mỗi người, mỗi nhà, mỗi tầng lớp, mỗi nghành mỗi nghề và toàn xã hội(nghành giáo dục không thể là ngoại lệ). - Một xã hội phát triển, tiến bộ công bằng, văn minh tất yếu sẽ có một nền giáo dục tốt. Nào các quý vị khả kính chúng ta cùng làm đi thôi.

 

Đinh Tiến Vĩnh - 23/10/2012 08:40

Tôi rất tán động với cách nêu vấn đề về các trọng bệnh của ngành giáo dục mà Giáo sư Trần Ngọc Thêm vừa đề cập. Đứng về góc độ cá nhân mà nói thì với chất lượng giáo dục và đào tạo như vậy liệu có tương xứng với các khoản phải đóng góp không không nhỏ nhưng hết sức vô lý như tiền ủng hộ xây dựng trường hàng năm, tiền mua dồ dùng học tập, tiền hỗ trợ bán trú, tiền quỹ hội, ... . Tôi lấy ví dụ như cháu nhỏ nhà tôi năm nay 3 tuổi đi học mẫu giáo tại một trường mầm non công lập tại Hải Phòng ngoài những khoản đóng góp nêu trên với tổng số là trên 5.000.000,đồng ngoài ra hàng tháng phải nộp thêm 40.000,đồng tiền gas, 35.000,đồng tiền vệ sinh phí, 100.000,đồng tiền hỗ trợ bán trú, .... . Nếu làm phép tính mỗi lớp học có 30 cháu thì hàng tháng số tiền thu sẽ là: tiền gas 1.200.000,đồng, tvệ sinh phí 1.050.000,đồng; tiền hỗ trợ bán trú : 3.000.000,đồng; tổng số: 5.200.000,đồng; Nếu mỗi trường nếu chỉ có 10lớp như vậy thì số tiền thu được là 52.500.000,đồng. Vậy số tiền này được sử dụng như thế nào? sao nhà trường không công khai rõ những khoản chi này cho phụ huynh biết? các khoản chi này có được thẩm định không? có đầy đủ hóa đơn chứng từ không? có ghi vào sổ sách và vào báo cáo tài chính hàng năm không? cơ quan chức năng có biết không? Gần đây nhà trương có chủ trương lắp đặt điều hòa tại hội trường và vận động phụ huynh mỗi cháu ủng hộ (gần như bắt buộc) 400.000,đồng, Nếu cả trường có 200 cháu thôi thì số tiề thu được đã là 80.000.000,đồng. với 1 hội trường rộng khoản 40m2 thì chỉ cần lắp 02 điều hòa loại 18.000BTU theo giá hiện tại chỉ hết 40.000.000,đồng, vậy 40.000.000,đồng còn lại được dùng để làm gì? ..... Theo tô nghĩ trong bối cảnh khinh tế xã hội có nhiều khó khăn việc huy động nguồn lực từ người dân là cần thiết xong cần phải theo đúng quy định của nhà nước đặc biệt là phải minh bạch các khoản thu - chi.

 

Nguyễn thị Thu - 23/10/2012 09:58

Thưa Giáo Sư! Tôi thấy vấn đề giáo dục đã được nói rất nhiều trên các diễn đàn - bốn căn bệnh đó tất cả những ai quan tâm đến nền giáo dục nước nhà đều thấy rõ và đó là cái bệnh mà nó đã ăn sâu trong tiềm thức mỗi người từ khi đất nước ta chuyển sang giai đoạn mới(1986) một thời gian rất dài để căn bệnh đó âm ỉ phát triển.
- Đến thời Bác Nguyễn Thiện Nhân lên làm BTBGD thì mới có phương pháp điều trị- đến nỗi tôi không thể tưởng tương trình độ học sinh (một bộ phận không nhỏ )lại kém so với trình độ học vấn đến vậy ? HOC VẸT - HỌC KHÔNG Ý THỨC- tôi thấy muốn cải cách giáo dục thì trước hết PHẢI CẢI CÁCH Ý THỨC của THẦY lẫn TRÒ như BÁC NHÂN đã làm.

 

XM - 23/10/2012 10:03

Thưa giáo sư tôi thấy ý kiến của giáo sư rất đúng. Nhưng tôi thấy xã hội cần vào cuộc nhiều hơn. Tôi xin lấy một số ví dụ: Để bán được nhiều hàng cho trẻ em một số cho các dồ chơi (súng, dao các loại) trong trò chơi điện tử (game HaftLife) Trong khi ngành giáo dục và nhiều ngành khác có hạn chế ảnh hưởng của Các trò chơi trực tuyến. Các quảng cáo lại có câu như thế này: "Vui chơi, hoạt dộng thâu đêm ..."

 

nguyentinh - 23/10/2012 11:47

Do Bộ Giáo dục Đào tạo cả thôi. Chất lương đại học thấp, SV ra trường không có việc các cấp lãnh đạo chẳng lo. GS nói đúng hướng giải quyết tốt song chỉ để đấy cứ để toàn xã hội tự bơi chải.

 

Trần Ai - 23/10/2012 17:02

Nói hoài, biết thế nhưng sao Bộ Giáo dục không sửa? kỳ thật đúng không? Tôi thấy Bộ Giáo dục chuyên lo tăng lương giáo viên nhằm thủ cho riêng mình thôi chứ trách nhiệm với quốc gia, dân tộc chưa đặt nặng lắm. Hay là đổ thừa là giáo dục là sự nghiệp của toàn dân? chắc thế!

 

Trương Thị Thục Trinh - 23/10/2012 22:56

Em còn nhỏ...chẳng dám nói gì nhiều...chỉ thấy rằng việc cải cách ở riêng ngành GD là rất khó thực hiện vì rõ ràng các vấn đề của GD liên quan đến cả các ngành khác, thành 1 chuỗi liên kết toàn xã hội. Cần cải cách rộng và toàn diện hơn thì mới có cơ hội đưa đất nước đi lên.

 

trần thị thúy hằng - 24/10/2012 08:09

Nếu hoc sinh nhỏ không đầu tư "dạy làm người nhiều" (mẫu giáo,tiểu học, ptcs, ptth chức năng dạy làm người giảm), thì sản phẩm của ngành giáo dục liệu có "thành người" hay k ? sửa đổi kỳ vậy, cha ông ta dạy: dạy trẻ từ thủa còn thơ mà?

 

Bích Thủy - 24/10/2012 16:16

Rất tâm đắc với giáo sư. Mọi căn bệnh của nền giáo dục đề do cơ chế bao cấp sinh ra. Ngành giáo dục phải chấp nhận đổi mới như các ngành khác: vận hành theo cơ chế thị trường.

 

Trần Tuyết Lan - 24/10/2012 16:53

Nhìn lại nền giáo dục Việt Nam gần đây thật đáng buồn, ngay cả các vị quan chức hầu như đều cho con học ở nước ngoài, không chú trọng đến giáo dục nước nhà. Các cháu bây giờ đi học không có 1 chút tư duy, sáng tạo nào, các thầy cô thì chạy đua với bệnh thành tích... Con tôi năm nay học lớp mầm, hi vọng năm con tôi học lớp 1 có khá hơn chăng. Ôi, ước mong có trở thành hiện thực.

 

trần văn phong - 24/10/2012 18:27

Bệnh gian dối và thành tích không phải chỉ ở ngành giáo dục mà hầu hết các ngành trong xã hôi ta đều có. Đó là bệnh mà chúng ta cần trị tận gốc.


X. thêm: Kiều Anh. Bắt bệnh Giáo dục để hiểu rõ nguồn cơn tâm bệnh cộng đồng (tổng hợp các ý kiến phản hồi bài Bốn “trọng bệnh” của nền giáo dục Việt Nam do độc giả gửi tới tòa soạn báo Dân trí).


Lên trên

Cùng chủ đề

  • Vũ Huy Từ, Phạm Văn Hiếu. Phát triển giáo dục đại học Việt Nam trong kỷ nguyên cách mạng công nghiệp 4.0

  • Nguyễn Thị Ngọc Hoa. Nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về giáo dục

  • Nghiêm Xuân Dũng. Quản lý nhà nước đối với đào tạo sau đại học dưới tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0

  • Nguyễn Vĩnh Nguyên. Cuộc chiến bên trong chúng ta

  • David Cyranoski. Mô hình chống Covid-19 của Trung Quốc: Bài học gì cho thế giới?

Thông báo

Tư vấn khoa học và kỹ năng nghiên cứu…

Tủ sách văn hoá học Sài Gòn

  • Thư viện ảnh
  • Thư viện video
  • Tủ sách VHH

Phóng sự ảnh: Toạ đàm khoa học: Xây dựng…

Hình ảnh văn hóa Tết xưa (sưu tầm)

Phóng sự ảnh: Lễ hội truyền thống VHH 2011

Phóng sự ảnh Lễ hội truyền thống VHH 2010

Thành phố Sankt-Peterburg, Nga

Bộ ảnh: Việt Nam quê hương tôi 2

Tranh Bùi Xuân Phái

Bộ tem tượng Phật chùa Tây Phương

Bộ ảnh: Đá cổ Sapa

Bộ ảnh: Phong cảnh thiên nhiên

Bộ ảnh: Việt Nam quê hương tôi

"Biển, đảo Việt Nam - Nguồn cội tự bao đời":…

Con dê trong văn hóa và văn hóa Việt Nam

Văn hóa Tết ở Tp.HCM (Chương trình truyền…

Văn hóa Tp. HCM: Một năm nhìn lại và động…

Phong tục Tết cổ truyền của người Nam Bộ

Bánh tét và Tết phương Nam

Con ngựa trong văn hóa và văn hóa Việt Nam

Điện Biên Phủ - Cuộc chiến giữa hổ và voi

Nhìn lại toàn cảnh thế giới từ 1911-2011…

Tọa độ chết - một bộ phim Xô-Việt xúc động…

Video: Lễ hội dân gian Việt Nam

Văn hoá Việt từ phong tục chúc Tết

Văn hoá Tết Việt qua video

Tết ông Táo từ góc nhìn văn hoá học

“Nếp nhà Hà Nội” trên “Nhịp cầu vàng”: tòa…

Văn hóa Thăng Long - Hà Nội qua video: từ…

Hướng về 1000 năm TL-HN: Xem phim “Tử Cấm…

Hướng về 1000 năm TL-HN: Người Thăng Long…

Phim "Chuyện tử tế" – tập 2 (?!) của “Hà…

Default Image

Hướng về 1000 năm TL-HN: "Chuyện tử tế" -…

Sách “Di sản Ấn Độ trong văn hóa Việt Nam”

Nguyễn Văn Bốn. Tín ngưỡng thờ Mẫu của người…

Sách: Quản lý và khai thác di sản văn hóa…

Hồ Sĩ Quý. Con người và phát triển con người

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 3

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 2

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 1

Hồ Sỹ Quý. Tiến bộ xã hội: một số vấn đề về…

Hồ Sỹ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á (Phụ…

Hồ Sỹ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á…

Hồ Sĩ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á…

Sách: Chuyên đề Văn hoá học

Sách: Một số vấn đề về hệ giá trị Việt Nam…

FitzGerald. Sự bành trướng của Trung Hoa…

Hữu Đạt. Đặc trưng ngôn ngữ và văn hoá giao…

Sống chụ son sao (Tiễn dặn người yêu)

Gs. Mai Ngọc Chừ. Số phận & Tâm linh

Trần Văn Cơ. Những khái niệm ngôn ngữ học…

Đoàn Văn Chúc. Văn hóa học (Phần 3 - hết)

Đoàn Văn Chúc. Văn hóa học (Phần 2)

Các nhà VHH nổi tiếng

Julian Haynes Steward

Wen Yi'duo (Văn Nhất Đa)

Leslie Alvin White

Huang Wen'shan (Hoàng Văn Sơn)

Radcliff-Brown, Alfred Reginald

Sapir, Edward

Margaret Mead

Thăm dò ý kiến

Bạn thích cuốn "Cơ sở văn hoá VN" của tác giả nào nhất?

Chu Xuân Diên - 4.8%
Lê Văn Chưởng - 0.9%
Trần Diễm Thuý - 1%
Trần Ngọc Thêm - 37.4%
Trần Quốc Vượng - 53%
The voting for this poll has ended on: 26 06, 2020

Tổng mục lục website

tong muc luc

Tủ sách VHH Sài Gòn

tu sach VHH SG

Thống kê truy cập

  • Đang online :
  • 61
  • Tổng :
  • 3 8 1 8 3 7 2 3
  • Đại học quốc gia TPHCM
  • Đại học KHXH&NV
  • Tran Ngoc Them
  • T.c Văn hóa-Nghệ thuật
  • Tc VHDG
  • Viện NCCN
  • Khoa Văn hóa học
  • Khoa Đông phương học
  • Phòng QLKH
  • Khoa Việt Nam học
  • Khoa Hàn Quốc học
  • BM Nhật Bản học
  • Khoa Văn học - Ngôn ngữ
  • Khoa triết học
  • Khoa Quan hệ quốc tế
  • Khoa Xã hội học
  • Bảo tàng Lịch sử - Văn hóa
  • viettems.com
  • myfaifo.com
Previous Next Play Pause

vanhoahoc.vn (các tên miền phụ: vanhoahoc.edu.vn ; vanhoahoc.net)
© Copyright 2007-2015. Bản quyền thuộc Trung tâm Văn hóa học Lý luận và Ứng dụng, Trường Đại học KHXH & NV - ĐHQG Tp. HCM
ĐT (028) 39104078; Email: ttvanhoahoc@hcmussh.edu.vn; ttvanhoahoc@gmail.com. Giấy phép: số 526/GP-BC, do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 27-11-2007
Ghi rõ nguồn vanhoahoc.vn khi phát hành lại các thông tin từ website này.

Website được phát triển bởi Nhà đăng ký tên miền chính thức Việt Nam trực thuộc Trung Tâm Internet VNNIC.

Văn hóa giáo dục - khoa học