Chuyện gì đang xảy ra?
Khi gõ cụm từ khóa “ngành sư phạm” thì ngay ở trang đầu cỗ máy tìm kiếm Google xuất hiện những bài viết với các tiêu đề như: “Cấp cứu cho ngành sư phạm”, “Ngành sư phạm - nỗi lo đầu vào”, “Đầu vào tuyển sinh sư phạm: “Tuột dốc” không phanh”, “Đóng cửa nhiều ngành sư phạm”, “Ngành sư phạm tụt hậu với xã hội?”...
Phần lớn sự lo lắng xuất phát từ việc số thi sinh đăng ký thi tuyển vào ngành sư phạm càng ngày càng ít. Số trúng tuyển không đủ chỉ tiêu. Chất lượng “đầu vào” càng ngày càng tiếp tục xuống thấp một cách thê thảm!
Có bốn nguyên nhân chính dẫn đến hiện tượng này: (1) Cơ hội kiếm việc làm quá thấp; (2) Tiền biếu xén để có được chỗ dạy quá cao; (3) Thu nhập thấp quá không đủ sống; (4) Địa vị nhà giáo không được coi trọng.
Cơ hội kiếm việc làm quá thấp
Vì sao sinh viên tốt nghiệp ngành sư phạm không kiếm được việc làm? Theo thông tin từ nhiều sở GD-ĐT, trong bốn năm trở lại đây, nhu cầu giáo viên đã bão hòa, hằng năm số sinh viên tốt nghiệp sư phạm không có việc làm lên đến hàng trăm người mỗi tỉnh. Chỉ tính riêng bậc THPT, năm 2011 tỉnh Đồng Tháp nhận 890 hồ sơ tuyển dụng nhưng chỉ giải quyết được 90 hồ sơ[1]. Xã hội đã không có nhu cầu thì ít người thi vào là lẽ tự nhiên. Cho nhiều chỉ tiêu ngành này để rồi các trường tuyển sinh không đủ hẳn là lỗi ở Bộ?
Lại có một thực trạng khác là trong khi địa phương còn thiếu nhiều giáo viên, nhưng lãnh đạo phòng giáo dục vẫn phải giữ suất trống để dành cho các “sếp” đưa người của mình vào, càng khiến cho sinh viên tốt nghiệp sư phạm không được tuyển dụng[2]. Lỗi này phải sửa từ đâu đây?
Tiền “chạy chỗ” quá cao
Nhu cầu giáo viên đã bão hòa, chỗ làm thì ít, do vậy hệ quả tất yếu là muốn có việc thì phải chạy chỗ. Thông tin cho biết có trường hợp phải chi “gần 80 triệu đồng mới kiếm được một suất” dạy học3. Trong một xã hội mà hiện tượng “chạy chức, chạy quyền” đã trở thành một vấn nạn tới mức Quốc hội từng phải nêu ra thảo luận thì hiện tượng đau lòng này cũng không phải là khó hiểu.
Chỉ có điều là sở dĩ những quan chức tương lai sẵn sàng bỏ ra hàng trăm triệu để “chạy chức, chạy quyền” là vì họ biết chắc rằng sau khi có chức quyền có thể thu lại hàng trăm lần nhiều hơn thế, còn các “kỹ sư tâm hồn” tương lai thì sau khi trở thành nhà giáo liệu sẽ thu lại được gì? Hay chỉ là những tâm hồn trong sáng bị tổn thương? Và với sự khởi nghiệp què quặt như vậy, hẳn ta có thể hình dung được cái sản phẩm “trồng người” của nền giáo dục Việt Nam sẽ dị dạng như thế nào!
Thu nhập thấp không đủ sống
Những người nhờ quá yêu nghề mà trở thành nhà giáo thì, ngoài cái phần thưởng duy nhất là tình cảm yêu thương và quý trọng chân thành của (phần lớn) học trò, họ có lẽ không thu lại được gì ngoài đồng lương mà nếu chỉ dựa vào nó thì bảo đảm chắc chắn là chết đói. Thêm vào đó là lòng tự trọng bị tổn thương khi phải bươn chải để kiếm sống. Trong khi ngay cả cách kiếm sống chân chính nhất là bỏ công sức thời gian ra dạy thêm cũng bị xã hội lên án – mà nghịch lý ở chỗ họ hiểu rõ rằng việc lên án này là hoàn toàn đúng!
Địa vị nhà giáo không được coi trọng
Trong xã hội phong kiến ngày xưa, nghề giáo tuy thanh bần nhưng về tinh thần được đặt ở vị trí thứ hai trong xã hội, chỉ sau vua trong thứ bậc “Quân - Sư - Phụ”. Ở miền Nam trước năm 1975, nghề giáo không những đủ nuôi cả gia đình mà còn làm cho cha mẹ được mở mày mở mặt với thiên hạ.
Ngày nay, khi mà mọi ngành nghề, mọi loại công chức, viên chức đều tìm cách tăng thu nhập thì nghề giáo dần dần tụt hậu và trở thành nghề có thu nhập thấp nhất. Câu nói “lương giáo chức ba cọc ba đồng” trở thành câu cửa miệng trong xã hội. Nhưng nghiêm trọng hơn là khi đồng tiền lên ngôi, trở thành “Tiên, Phật”, thì “Giáo dục là quốc sách” chỉ còn là phương châm tốt đẹp ghi trên giấy. Cả nước hiện nay chỉ có gần 9.000 cả giáo sư lẫn phó giáo sư, mà sau khi được phong và bổ nhiệm, các vị này cũng chẳng hơn gì so với những người giảng dạy lâu năm được bổ nhiệm lên ngạch giảng viên chính, giảng viên cao cấp. Trong một số trường tư, nhà giáo có khi bị đối xử như kẻ làm thuê.
Ông bà ta ngày xưa nói “Trọng thầy mới được làm thầy”. Còn thái độ “...bỏ qua sư phạm” của lớp trẻ ngày nay là một tuyên ngôn ngược lại: Xã hội không còn trọng thầy nên chúng tôi không muốn làm thầy!
Giải pháp chắp vá, cò con
Trước thực trạng như vậy, những giải pháp của những người có trách nhiệm nêu ra phần lớn mang tính chắp vá, cò con. Ngay cả sự đột biến trong ngành giáo dục năm 1997 nhờ chính sách miễn học phí cho sinh viên sư phạm mà nhiều người tự hào là “thời kỳ vàng son”, cũng chỉ là một giải pháp đối phó, chẳng khác nào trẻ đói mà cho kẹo; tuy hấp dẫn được một thời, nhưng kẹo ăn xong, đói vẫn hoàn đói. Được miễn học phí 4 năm, nhưng đồng lương chết đói thì hưởng cả đời, có đáng đánh đổi hay không?
Hiện nay giải pháp khắc phục tình trạng cấp cứu của ngành sư phạm mà các quan chức nêu ra quanh đi quẩn lại vẫn chỉ là phụ cấp thâm niên, phụ cấp đứng lớp cho giáo viên; miễn học phí cho sinh viên sư phạm; tuyên truyền, tôn vinh nghề giáo4... Đó chẳng phải vẫn là tầm nhìn của người tiểu nông hay sao?
Để phát triển, cần bắt đầu từ giáo dục
Kinh nghiệm của nước Đức ở châu Âu vào thế kỷ XIX, nước Nhật ở phương Đông sau đó, và nước Mỹ hiện nay cho thấy muốn phát triển đều phải bắt đầu từ giáo dục và dựa vào sức mạnh trí tuệ của dân tộc. Sự xuống cấp và khủng hoảng gần như toàn diện của nền giáo dục Việt Nam hiện nay cho thấy đứng trước những biến đổi về văn hóa, kinh tế, xã hội, nó đang bị lung lay tận gốc, từ triết lý giáo dục, chính sách giáo dục cho đến tổ chức giáo dục, phương pháp giáo dục. Các biện pháp kiểu như phụ cấp thâm niên, phụ cấp đứng lớp, miễn học phí... không khác gì một thứ trò đùa.
Cái mà giáo dục Việt Nam cần, không chỉ là một cuộc cải cách hay đổi mới, dù là căn bản và toàn diện, mà phải là một cuộc đại phẫu, trong sự đại phẫu lớn hơn để sửa đổi một cách hệ thống và toàn diện tất cả các lỗi hệ thống đã được Đảng và Nhà nước nhận ra.
T.N.T.