logo

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
    • Thư ngỏ
    • Khái quát về Trung tâm
    • Nhân lực Trung tâm
      • Thành viên Trung tâm
      • Cộng tác viên
    • Giới thiệu Khoa Văn hóa học
      • Khái quát về Khoa
      • Nhân lực của Khoa
  • Tin tức
    • Tin nhà (Trung tâm)
    • Tin ngành
    • Tin liên quan
  • Đào tạo - Huấn luyện
    • Các chương trình
    • Tổ chức và Hiệu quả
    • Đào tạo ở Khoa VHH
      • Chương trình đào tạo
      • Kết quả đào tạo
  • Nghiên cứu
    • Lý luận văn hóa học
      • LLVHH: Những vấn đề chung
      • VHH: Phương pháp nghiên cứu
      • VHH: Các trường phái - trào lưu
      • Loại hình và phổ quát văn hóa
      • Các bình diện của văn hóa
      • Văn hóa học so sánh
      • Vũ trụ quan phương Đông
      • Văn hóa và phát triển
      • VHH và các khoa học giáp ranh
    • Văn hóa Việt Nam
      • VHVN: Những vấn đề chung
      • Văn hóa cổ-trung đại ở Viêt Nam
      • Văn hóa các dân tộc thiểu số
      • Văn hóa Nam Bộ
      • Văn hóa nhận thức
      • Văn hóa tổ chức đời sống tập thể
      • Văn hóa tổ chức đời sống cá nhân
      • Văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên
      • Văn hóa ứng xử với môi trường xã hội
    • Văn hóa thế giới
      • VH Phương Đông: Những vấn đề chung
      • VH Phương Tây: Những vấn đề chung
      • Quan hệ văn hóa Đông - Tây
      • Văn hóa Trung Hoa và Đông Bắc Á
      • Văn hóa Đông Nam Á
      • Văn hóa Nam Á và Tây Nam Á
      • Văn hóa châu Âu
      • Văn hóa châu Mỹ
      • Văn hóa châu Phi và châu Úc
    • Văn hóa học ứng dụng
      • VHƯD: Những vấn đề chung
      • VHH nghệ thuật
      • Văn hóa đại chúng
      • Văn hóa giao tiếp
      • Văn hóa du lịch
      • Văn hóa đô thị
      • Văn hóa kinh tế
      • Văn hóa quản trị
      • Văn hóa giáo dục - khoa học
    • Tài liệu phổ cập VHH
      • Văn hóa Việt Nam
      • Văn hóa thế giới
      • VHH ứng dụng
    • Tài liệu tiếng nước ngoài
      • Theory of Culturology
      • Vietnamese Culture
      • Applied Culturology
      • Other Cultures
      • 中文
      • Pусский язык
    • Thư Viện Số (Sách - Ảnh - Video)
      • Tủ sách Văn hoá học
      • Thư viện ảnh
      • Thư viện video
    • Các nhà văn hóa học nổi tiếng
  • Tiện ích
    • Dịch vụ Văn hóa học
    • Dịch vụ ngoài VHH
    • Trợ giúp vi tính
    • Từ điển Văn hóa học
    • Thư viện TT và Khoa
    • Tổng mục lục website
    • Tủ sách VHH Sài Gòn
    • Giải đáp thắc mắc
  • Thư giãn VHH
    • Văn chương Việt Nam
    • Văn chương nước ngoài
    • Nghệ thuật Việt Nam
    • Nghệ thuật thế giới
    • Hình ảnh vui
    • Video vui
  • Diễn đàn
  • Liên hệ
  • Trang chủ
  • Nghiên cứu
  • Thư Viện Số (Sách - Ảnh - Video)
  • Tủ sách Văn hoá học
Sunday, 27 April 2008 18:45

Sơn Nam. Lịch sử khẩn hoang Miền Nam (1)

Người post bài:  Nguyễn Thị Tuyết Ngân

MỤC LỤC Image

Nhà văn Sơn Nam

Lịch sử khẩn hoang miền Nam

Nhận xét tổng quát

Chương 1.1. Nhu cầu phát triển xứ Đàng Trong, phục quốc và củng cố quốc gia

Chương 1.2. Nhu cầu xác định vùng biên giới Việt Miên

Chương 1.3. Nhu cầu chỉnh đốn về nội trị

Chương 1.4. Làng xóm, điền đất và người dân thời đàng cựu

Chương 2.1. Nghĩa quân thất trận và nông dân mất ruộng

Chương 2.2. Khái quát về việc khai khẩn thời Pháp thuộc ở Nam kỳ

Chương 2.4. Vùng Bạc Liêu, Cà Mau xa xôi và phức tạp

Chương 2.5. Cần Thơ, đầu cầu và thủ đô miền Hậu Giang

Chương 2.6. Những triệu chứng bất ổn

Phụ lục

 

 

Nhà văn Sơn Nam

Sơn Nam tên thật là Phạm Minh Tài, sinh năm 1926 ở Kiên Giang. Hồi đầu thế kỷ, ông nội nhà văn đã đưa cả gia đình từ Cù lao Ông Chưởng ở Long Xuyên đến lập nghiệp ở ven rừng U Minh Cà Mau. Tuổi thơ của ông được tắm mình trong hương sắc của rừng U Minh với muôn vàn cỏ cây, hoa lá, chim muông. Ðó cũng chính là vốn sống và nguồn cảm hứng sáng tác được ông thể hiện trên các trang viết sau này.

Tác phẩm đầu tay của Sơn Nam là một tập thơ mang tựa đề Lúa reo, do Hội Văn hoá kháng chiến Kiên Giang xuất bản năm 1948. Năm 1951-1952, hai truyện ngắn Bên rừng Cù Lao Dung và Tây đầu đỏ, ông đã giành giải nhất trong cuộc thi do Uỷ ban Kháng chiến-Hành chính Nam bộ tổ chức. Tuy nhiên, ông lại nổi danh trên văn đàn là tập truyện ngắn Hương rừng Cà Mau, xuất bản năm 1962. Đây là tập truyện ngắn được xếp ở vị trí cao trong số những tác phẩm văn học đặc sắc nhất của Nam bộ.

Ngoài truyện dã sử, truyện ngắn, Sơn Nam còn thành công cả ở những công trình biên khảo có hệ thống như Lịch sử khẩn hoang miền Nam, Văn minh miệt vườn, Gia Ðịnh xưa, Bến Nghé xưa... Và đây cũng là những đề tài mà ông đeo đuổi suốt sự nghiệp. Nhà văn Sơn Nam tâm sự: “Lịch sử Nam bộ Việt Nam là lịch sử của công cuộc khẩn hoang trường kỳ và tự lực. Ý thức khẩn hoang mở đất ăn sâu vào máu thịt tôi. Ðời ông nội rồi đời cha tôi lo khẩn hoang, mở đất. Nên những trang viết của tôi dành cho việc khẩn hoang mở đất và thế là viết về khẩn hoang trở thành sở trường của tôi. Hơn nữa đây cũng là đề tài mà người dân Nam bộ rất quan tâm, bởi trong ký ức của những người Sài Gòn cũ, người Nam bộ cũ vẫn còn lưu giữ nhiều ấn tượng trong việc vật lộn với thiên nhiên, chinh phục thiên nhiên trong những ngày đầu mở đất, mở nước”.

Sơn Nam đi vào lòng bạn đọc như một nhà văn Nam bộ với tính cách đặc biệt Nam bộ, được bạn đọc tặng cho biệt danh “Ông già Nam Bộ”. Ông luôn đi theo con đường mà mình đã chọn: trở về với cội nguồn văn hoá dân tộc, với văn hoá Nam bộ bằng lối văn mộc mạc, chữ nghĩa giản dị gần gũi với đời thường.

Tác phẩm đã xuất bản:

  • Chuyện Xưa Tích Cũ (truyện)
  • Tìm Hiểu Ðất Hậu Giang (BK)
  • Hương Rừng Cà Mau(truyện)
  • Chim Quyên Xuống Ðất (truyện)
  • Văn Minh Miệt Vườn (BK)
  • Lịch Sử Khẩn Hoang Miền Nam (BK)
  • Hai Cõi U Minh (truyện)
  • Vọc Nước Dỡn Trăng (truyện)
  • Bà Chúa Hòn (truyện)
  • Bến Nghé Xưa (BK)
  • Cá Tính Miền Nam (BK)
  • Ngôi Nhà Mặt Tiền (truyện)
  • Một Mảnh Tình Riêng (bút ký)

Lịch sử khẩn hoang miền Nam

Lịch sử khẩn hoang miền Nam là kết quả quá trình tìm tòi, chắt lọc bằng kinh nghiệm sống mấy chục năm lặn ngụp trong vốn tư liệu quý của dân tộc của nhà văn Sơn Nam. Sách chia làm hai phần, phần thứ nhất đi sâu vào khảo cứu công cuộc mở rộng, phát triển xứ Đàng Trong; xác định vùng biên giới Việt – Miên; chỉnh đốn nội trị… Phần thứ hai chủ yếu đưa ra cái nhìn bản chất về các vùng đất Rạch Giá, Bạc Liêu, Cà Mau, Cần Thơ cùng những triệu chứng bất ổn của chế độ thực dân Pháp. Phần phụ lục phân tích các tài liệu liên quan đến hai biến cố quan trọng về quyền sở hữu đất riêng: Vụ Ninh Thạnh Lộc năm 1927 ở Rạch Giá và vụ Nọc Nạn năm 1928 ở Bạc Liêu. Dư luận mọi giới thời bấy giờ đặc biệt chỉ trích chính sách ruộng đất của thực dân. Xung quanh hai biến cố này có nhiều giai thoại truyền khẩu khiến chúng trở thành chuyện truyền kỳ.

Trong lời giới thiệu, tác giả ghi: “Đầu đề Lịch sử khẩn hoang miền Nam quá lớn, đòi hỏi sự làm việc cần cù, kiên nhẫn, lâu dài của một tiểu ban, một nhóm có thẩm quyền. Nhưng trong hoàn cảnh hiện tại, chúng tôi đánh bạo, thử vạch một lối để trèo núi cao. Chắc chắn là có nhiều lối khác để đi tới đỉnh núi. Chúng tôi chỉ có hy vọng là dẹp một mớ sỏi gai, để thấy bóng dáng đỉnh núi…”. Song, điểm khởi đầu là công cuộc Nam tiến của cư dân Việt thế kỷ 16,17 đã cho thấy người viết phải có quá trình tích luỹ, dày công lật lại cả một vùng dân cư văn hóa đặc sắc Phù Nam, Óc Eo… Ông đã phân tích và chỉ rõ những lý do khiến vua chúa Việt Nam thúc đẩy việc khai hoang, đó là: 1/ Mở rộng địa bàn thống trị, đất rộng, dân giàu thì kinh đô được bảo vệ chu đáo hơn, 2/ Thuế điền và thuế đinh gia tăng nhanh chóng, 3/ Nạn đói kém được giảm thiểu, nơi này thất mùa, nơi kia bù lại, ít có nguy cơ nội loạn, 4/ Dân số tăng gia, thêm lính tráng, thêm dân xâu. Ngược lại, về phía dân chúng, khẩn hoang là việc tích cực, không phải là hưởng thụ, thụ động, chờ thời vận.

Cũng trong cuốn sách, tác giả đặc biệt quan tâm đến các vấn đề nổi cộm trong thời kỳ thực dân Pháp tác động mạnh đến việc khẩn hoang ở miền Nam như: tình trạng xáo trộn gia cư và tài sản; vấn đề lưu dân ở Sài Gòn; luật về đất công thổ; tình hình các tỉnh dưới mắt người Pháp…Sách khái quát việc khai khẩn thời Pháp thuộc ở Nam kỳ qua những số liệu thống kê cụ thể, phần lớn từ tài liệu của viên chức Pháp soạn ra.

Khi người Pháp đến, những vùng thuận lợi có sông rạch đều biến thành ruộng rồi. Trong thời kỳ cai trị của người Pháp, việc quan trọng hàng đầu phải kể đến là đào kinh xáng ở những nơi có thể làm ruộng được, tạo đường giao thông chuyên chở, rút bớt nước lụt, nước phèn. Sách đã dành nhiều trang nói về sức ảnh hưởng to lớn của kinh đào trong bước đường lập nghiệp của người nông dân. Đặc biệt kinh xáng Xà No có thể coi là công trình lớn lao đầu tiên của Nam kỳ về đường thuỷ, có thể so sánh với việc thiết lập đường xe lửa Sài Gòn - Mỹ Tho: “Kinh Xà No đào từ 1901 đến tháng 7/1903 là xong, bề ngang trên mặt rộng 60 mét, dưới đáy 40 mét tổn phí 3.680.000 quan. Lần này, nhà thầu sử dụng loại xáng lớn chạy bằng hơi nước, với những giàn gàu bằng sắt. Máy của xáng mạnh 350 mã lực, mỗi gàu sắt múc được 375 lít, thổi bùn ra xa đến 60 mét… Vài chuyện khôi hài đã xảy ra: một số dân chạy theo xáng, dùng thúng mà hứng bùn để tìm vàng, nhưng chỉ gặp xương người và xương thú. Nhiều người cho rằng cứ “cắm dùi” là đất ấy về phần mình, vì mình đến trước nhứt…”.

Một trong những phong trào tranh đấu của trí thức Cần Thơ có tầm ảnh hưởng quy mô là phong trào Duy Tân do Gilbert Trần Chánh Chiếu cầm đầu. Lật lại những báo cáo với thống đốc Nam kỳ của các viên chủ tỉnh ở Cần Thơ, tác giả Sơn Nam đã đưa ra những chứng cứ thuyết phục về tinh thần dân tộc của người Việt. Báo cáo năm 1910 – 1911 thú nhận: “Không có cuộc biến loạn, không có sự bộc lộ cụ thể nào xảy ra. Tuy nhiên dưới bề ngoài yên ổn này, ta nhận ra một cách dễ dàng là còn một phần của dân chúng – may thay số người này không đông đảo cho lắm - họ có thái độ đối lập và thài độ chỉ trích không nhân nhượng, tận gốc đối với tất cả những gì mà chánh quyền, những gì xuất phát từ phía người Pháp” (…) “Gilbert Chiếu được toà xử miễn tố, vì vậy mà họ càng lẫy lừng hơn, còn lại một số người đồng loã trong vụ án cũng được miễn tố…”.

  Nguồn: sưu tầm

 

 


Nhận xét tổng quát

Đồng bằng sông Cửu Long, Ménam và Irraouaddi là ba trung tâm sản xuất lúa gạo, có  dư để xuất cảng, quan trọng nhứt trên thế giới. Việt Nam, Xiêm, Miến Điện gồm đa số dân sống bằng nghề nông. Ba quốc gia này liên ranh, nằm trong khu vực gió mùa với những nét  lớn giống nhau:

-  Lãnh thổ phát triển lần hồi từ Bắc xuống Nam.

-  Biết làm ruộng cấy ở đồng sâu, nhờ đó mà sản lượng đạt mức cao so với ruộng tỉa ở  đất khô.

-  Mức sống thấp kém.

Nam tiến không phải là mãnh lực huyền bí của riêng dân tộc Việt Nam. Những dân  tộc chịu ảnh hưởng ấn độ vẫn đạt được kỹ thuật cày sâu cuốc bẫm không kém nước ta. Việc  tôn thờ rắn thần và rồng để cầu mưa, vài môn giải trí như thả diều, trai gái đối đáp nhau  nào phải chỉ xảy ra ở Việt Nam.

Dân Việt gặp dân Miên vốn có nền văn hóa cổ kính khá cao. Vào thế kỷ 13, người Miên  đã tìm ra giống lúa và dẫn thủy nhập điền thích ứng giúp họ thâu hoạch 3 hoặc 4 vụ trong  một năm. Cuộc Nam tiến của người Xiêm, người Miến Điện gặp hoàn cảnh khá tốt về địa lý,  hai con sông Ménam và Irraouaddi thuận lợi cho việc thông thương, trong khi Hồng Hà và sông Cửu Long có nhiều thác đá. Từ hạ lưu sông Hồng, dân Việt len lỏi theo mấy cánh đồng  nhỏ bé dọc theo bờ biển Đông nhiều giông tố để lần hồi đến hạ lưu sông Đồng Nai, sông Cửu  Long.

Tuy là đặt chân trên đất Cao Miên nhưng đối thủ đáng nể của người Việt đi khẩn  hoang lại là người Xiêm đang nuôi tham vọng đô hộ vùng Vạn Tượng, Cao Miên và Mã Lai.  Xiêm quốc lúc bấy giờ đang thời hưng thịnh, với tướng giỏi, quân sĩ có kinh nghiệm về chiến  đấu đường bộ và đường thủy.

Người Việt đã giữ được thế chủ động trong hoàn cảnh gay go.

Khi đặt chân ở đồng bằng sông Cửu Long, nước Việt bị chia cắt từ sông Gianh, công  trình khẩn đất và giữ đất lúc đầu chỉ do một số dân từ Quảng Bình trở vào gánh vác. Bấy  giờ, ưu thế của người Việt khong là kỹ thuật canh tác cao, nhưng là ưu thế về tổ chức chính  trị và quân sự. Bộ mấy hành chính khá hoàn hảo đã giúp chúa Nguyễn theo dõi được tình  hình ở những địa phương xa xôi, quân đội có thể tập trung khá nhanh khi cần thiết. Đơn vị xã hội nhỏ nhất là thôn ấp đủ khả năng tự trị, các tổ chức đồn điền có thể tự quản trị về  kinh tế và an ninh.

Quân đội Xiêm hùng mạnh, nhưng đi xa thì mất hiệu năng. Nước Cao Miên bấy giờ  quá suy nhược, vua chúa kém năng lực chỉ biết cầu viện với ngoại bang, dân chúng thì ly  tán: người Xiêm thường lùa bắt từng loạt dân Cao Miên đem về xứ họ để làm nông nô phục  dịch.

Vua chúa Việt Nam thúc đẩy việc khẩn hoang vì những lý do sau đây:

-  Mở rộng địa bàn thống trị, đất rộng, dân giàu thì kinh đô được bảo vệ chu đáo hơn.

-  Thuế điền và thuế đinh gia tăng nhanh chóng.

-  Nạn đói kém được giảm thiểu, nơi này thất mùa, nơi kia bù lại, ít có nguy cơ nội loạn.

-  Dân số gia tăng, thêm lính tráng, thêm dân xâu.

Bộ Đinh và bộ Điền tiêu biểu cụ thể cho nhân lực, tài lực. Với binh sĩ giữ gìn bờ cõi và trấn áp nội loạn, với tiền bạc và nhân công làm xâu, vua chúa tha hồ phung phí, sống xa hoa, xây đắp cung điện lăng tẩm, ưu đãi người trong giòng họ, mua chuộc quan lại, để ngôi  vị được ổn định, chống các âm mưu ly khai ở địa phương.

Về phía dân chúng, khẩn hoang là việc tích cực, không phải là hưởng thụ, thụ động,  chờ thời vận.

* Phải có yếu tố thiên nhiên tương đối thuận lợi, đất quá thấp thì lúa dễ bị ngập, quá  cao thì gặp nạn thiếu nước. Từ nơi cư trú đến thửa ruộng, đường đi phải gần để khỏi phí thì  giờ lui tới, lúa đem về nhà không mất nhiều công lao và phí tổn chuyên chở.

* Đủ nước ngọt để uống, nấu cơm và cho trâu bò uống.

* Gia đình đủ vốn liếng, đủ lúa gạo ăn trong khi chờ lúa chín. Lại còn quần áo, tu bổ  nhà cửa, thuốc uống, trầu cau, lúa gạo để nuôi heo gà, ghe xuồng, nông cụ. Thêm vào đó,  còn yếu tố xã hội vì làm ruộng đòi hỏi sự hợp quần cần thiết:

-  Sức một người, một gia đình chỉ có giới hạn. Một khoảnh ruộng ở giữa tư bề đất  hoang thì hoa mầu sẽ bị chim chuột từ các vùng lân cận tập trung lại phá nát. Năm bảy gia  đình góp sức canh tác liên ranh nhau thì sự tổn thất vì chim chuột được giảm thiểu.

-  Mùa cấy tuy là co giãn, xê xích mươi ngày nhưng nằm trong thời gian quy định. Cấy  quá sớm, thiếu nước, cấy quá trễ, cây lúa mọc không kịp nước mưa. Mỗi người chỉ có thể cấy  chừng 4 mẫu tây trong một mùa mà thôi, đàn bà lo cấy ở nơi này thì đàn ông lo dọn đất ở  nơi kia. Dọn đất cấy quá sớm, cỏ mọc trở lại, trì hoãn thì nước trong ruộng lên cao, không  dọn đất được. Lúa chín mà gặt trễ chừng năm bảy ngày là hư hao.

Phát cỏ, cấy lúa, gặt lúa đòi hỏi sự tập trung nhân công, mướn hoặc đổi công, theo lịch  trình không được bê trễ. Phải nhờ người lân cận hoặc ở địa phương khác đến. Ngay trong  một khoảnh đất nhỏ, mặt đất chưa bằng phẳng, nơi cao nơi thấp, việc đắp bờ, tát nước vẫn  là công trình của nhiều người.

Vùng định cư để khẩn hoang cần liên lạc với vùng phụ cận dễ dàng để giải quyết vấn  đề nhân công. Trong một ấp, nhà này không được ở quá xa nhà kia. Gần thôn ấp, phải có  nơi bán tạp hóa, có người cho vay, người tiêu thụ lúa. Việc sanh đẻ, cưới hỏi, may chay đòi  hỏi các phương tiện tối thiểu. Nhà cửa, tính mạng người dân phải được bảo vệ, chống trộm  cướp, loạn lạc. Lại còn nhu cầu học vấn, nhu cầu về tâm linh với đình, chùa, miễu, hát  xướng.

Đơn vị tối thiểu về xã hội vẫn là một làng.

Khẩn hoang đòi hỏi nhiều yếu tố căn bản. Khẩn hoang ở đồng bằng sông Cửu Long là cuộc vận động lớn, toàn diện về chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa.

Vua chúa quy định chính sách điền địa, thuế khóa, quân dịch và thưởng phạt. Tùy nhu  cầu mà có khi quân sĩ, lưu dân và tù nhân phải đóng đồn, lập ấp, cày cấy ở nơi mất an ninh.  Đất kém mầu mỡ, khó canh tác nhưng chính quyền lại cưỡng bách đến định cư. Có những  giai đoạn, những khu vực mà chính phủ kiểm soát chặt chẽ việc khẩn hoang, nhưng cũng có  lúc người dân được dễ dãi. Nhiều vùng đất tuy người Cao Miên chưa chánh thức nhượng cho  ta nhưng dân ta đã đến khẩn hoang, hoặc ngược lại, đã nhượng từ lâu nhưng vẫn còn hoang  phế.

Cuộc vận động phối hợp quân sự, chính trị và kỹ thuật này có thể chia ra từng thời kỳ:

1) Từ các chúa Nguyễn đến những năm cuối đời Gia Long: Khai khẩn vùng đất phù sa tốt, đất giồng ven sông, đất cù lao theo nhu cầu phát triển xứ Đàng Trong, phục quốc và củng cố quốc gia.

Còn lại các vùng nước ngập sâu vào mùa mưa, đất quá phèn, rừng Sác. Vùng người  Miên tập trung, trên nguyên tắc thì để nguyên vẹn (Rạch Giá, Sóc Trăng, Trà Vinh, Châu Đốc).

Thành lập các trấn Biên Hòa, Gia Định, Định Tường và Vĩnh Thanh.

2) Từ cuối đời Gia Long tới cuối đời Minh Mạng: Khai khẩn phía hữu ngạn Hậu  Giang, nối qua vùng đồi núi Thất Sơn, vì nhu cầu xác định biên giới Việt Miên. Khai khẩn vùng đồi núi, vùng đất thấp, canh tác những lõm đất nhỏ mà cao ráo, giữa  vùng nước ngập lụt.

Thành lập tỉnh An Giang, tách ra từ trấn Vĩnh Thanh.

3) Từ đời Thiệu Trị tới đời Tự Đức: Khai khẩn những điểm chiến lược, nhằm đề phòng  nội loạn ở phía Hậu Giang, chánh sách đồn điền được thúc đẩy mạnh.

Thực dân Pháp đến, nhằm mục đích bóc lột nhân công rẻ tiền, và xuất cảng tài nguyên, đã thực hiện được vài việc đáng kể:

1) Cho đào kinh để chuyên chở lúa gạo, giúp giao thông vận tải được dễ dàng, đồng thời  rút bớt nước vào mùa lụt từ Hậu Giang ra Vịnh Xiêm La. Vùng đất phèn, tạm gọi là phù sa mới, không còn bị nước ngập quá cao. Việc chuyên chở sản phảm về Sài Gòn ít tốn kém hơn  trước.

Thành lập các tỉnh mới: Rạch Giá, Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, vùng này trở thành  nơi dư lúa gạo, nhờ dân ít mà mức sản xuất cao. Khai khẩn rừng tràm và đồng cỏ.

2) Thúc đẩy việc làm ruộng sạ, nhờ chọn các giống lúa thích hợp hơn, giúp vùng đất  thấp ở Long Xuyên, Châu Đốc và Đồng Tháp Mười canh tác được. Còn lại là vùng rừng Sác  Cần Giờ, rừng Đước Cà Mau, vùng than bùn U Minh, vùng đất quá nhiều phèn chung  quanh Hà Tiên và Đồng Tháp Mười.

3) Lập đồn điền cao su ở miền Đông.

 

Chương 1.1. Nhu cầu phát triển xứ Đàng Trong, phục quốc và củng cố quốc gia

Những hành động quyết định

Từ lâu, các chúa Nguyễn đã biết về vùng đất ở Đồng Nai và Cửu Long, nhưng cơ hội  chưa thuận lợi để đẩy mạnh cuộc phát triển về phía Nam. Năm 1623, một phái bộ của chúa Nguyễn đến Oudong yêu cầu được lập cơ sở ở Prei Nokor (vùng Sài Gòn) để thu thuế hàng  hóa.

Năm 1658, khi còn bận rộn giao tranh với chúa Trịnh ở phương Bắc, chúa Hiền cho  quan Khâm mạng đến Trấn Biên dinh (Phú Yên) đem 2000 quân đến Mỗi Xui (Mô Xoài) để  đánh phá, bắt vua Nặc Ông Chân giải về Quảng Bình. Khi ấy ở Mỗi Xui (vùng Bà Rịa ngày nay) và ở Đồng Nai, “đã có lưu dân của nước ta đến sống chung lộn với người Cao Miên khai khẩn ruộng đất. Người Cao Miên khâm phục oai đức của triều đình đem nhượng hết cả đất  ấy rồi đi lánh chỗ khác, không dám tranh trở chuyện gì”.

Năm 1672, tình hình vô cùng thuận lợi cho Hiền Vương, ngài đã thắng chúa Trịnh, lấy  sông Gianh làm ranh giới. Năm 1764, Cao Miên có loạn, thêm lý do để quân chúa Nguyễn  can thiệp, lần này phá luôn được các đồn binh Cao Miên ở Sài Gòn, Gò Bích và Nam Vang  sau khi thắng ở Mô Xoài.

Bảy năm sau, 1679, Trần Thắng Tài và Dương Ngạn Địch đem binh biền và gia quyến hơn 3000 người và chiến thuyền hơn năm chục chiếc đến gần kinh đô.

Hiền Vương cho phép bọn di thần nhà Minh vào Nam. Chi tiết đáng chú ý là đoàn  chiến thuyền này được đưa vào Nam có người hướng dẫn. Đây là cuộc hướng dẫn thần tình,  chứng tỏ thời chúa Nguyễn bản đồ và khung cảnh ở đồng bằng sông Đồng Nai và Cửu Long  được nghiên cứu khá tường tận. Chúa Nguyễn và người hướng dẫn đã đánh giá đúng mức  giá trị chiến lược của vùng Mỹ Tho và vùng Biên Hòa -  nơi bọn di thần nhà Minh được phép  đến định cư -  sự đánh giá ấy mãi đến sau này vẫn còn là đúng.

Miền Nam vẫn còn hai nơi quan trọng khác ở phía Tây và Tây Nam. Năm 1699,  Nguyễn Hữu Cảnh đem binh lên tận Nam Vang để can thiệp về quân sự. Chuyến về vào  khoảng tháng tư năm canh thìn (1700), ông cho quân sĩ theo dòng Tiền Giang, trú đóng tại  Cái Sao (vùng chợ Thủ của Long Xuyên) “Ba quân bị phát bịnh dịch và ông cũng bị nhiễm  bịnh”. Thời gian trú quân ở đây là hơn nửa tháng, binh kéo đi hai ngày sau là ông mất.  “Ông có công dẹp yên Cao Miên rồi khai thác đất này”. Ai trực tiếp khai thác? Chắc chắn là số binh sĩ bị bịnh, hoặc một số tình nguyện ở lại vùng Cái Sao mà khai thác trước khi đất  đai này được vua Cao Miên nhượng cho. Bấy giờ nhóm này sống cheo leo bên kia sông Tiền.  họ được gọi là dân Hai Huyện, trực thuộc phủ Gia Định từ xưa.

Năm 1705, Nguyễn Cửu Vân thừa lịnh hành quân lên Cao Miên để đánh quân Xiêm,  khi trở về lại cho trú quân ở Vũng Gù (nay là Tân An) lập đồn điền, “làm thủ xướng cho  quân dân”, đắp đồn và đào kinh cho rạch Vũng Gù và rạch Mỹ Tho ăn thông với nhau, nối  liền sông Vàm Cỏ Tây qua Tiền Giang.

Về phía Vịnh Xiêm La, khoảng năm 1680, Mạc Cửu đã lập ấp rải rác từ Vũng Thơm, Trủng Kè, Cần Vọt, Rạch Giá, Cà Mau. Hà Tiên trở thành thương cảng quan trọng, thôn ấp  định cư nằm sát mé biển, thuận tiện cho ghe thuyền tới lui, hoặc ở đất cao theo Giang  thành, sông Cái Lớn, sông Gành Hào, Ông Đốc để canh tác.

Trần Thắng Tài (Đồng Nai), Dương Ngạn Địch (Mỹ Tho), Nguyễn Hữu Cảnh (Tiền  Giang), Nguyễn Cửu Vân (Vàm Cỏ), Mặc Cửu (Hà Tiên) và quân dân đã đi những bước tiên  phong trong thời gian ngắn. Nhóm di thần nhà Minh và dân Việt thật sự làm ruộng và định  cư  nơi đất lạ. Bao nhiêu khó khăn dồn dập xảy tới: cuộc tranh chấp về quân sự với người  Cao Miên, người Xiêm. Mãi đến 134 năm sau (1834), vùng đất mà ông Nguyễn Hữu Cảnh khai sáng còn gặp chinh chiến với quân Xiêm, mặc dầu cuộc Nam tiến hoàn tất vào năm  1759. Lại còn việc tranh chấp dằng dai với anh em Tây Sơn, khiến việc khẩn hoang bị đình  trệ hoặc hư hại.

Chúa Nguyễn nắm nguyên tắc căn bản là phát triển các đơn vị hành chính liền ranh  nhau. Thoạt tiên dinh Trấn Biên đóng ở vùng Phú Yên. Năm 1698, chưởng cơ Nguyễn Hữu  Cảnh đặt ra Gia Định phủ gồm có:

-  Xứ Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên.

-  Xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn;

Rồi lần hồi, vùng Long Hồ nối vào đất Gia Định, vùng Mỹ Tho nối vào Gia Định, vùng  An Giang nối vào Long Hồ (Vĩnh Long). Lúc Hà Tiên quá suy sụp, năm 1805 (đời Gia Long)  dinh Vĩnh Trấn (Vĩnh Long) cai quản từ hữu ngạn Tiền Giang đến Rạch Giá, Cà Mau, tức  Vịnh Xiêm la để rồi năm 1810 trả lại cho trấn Hà Tiên như cũ.

Từ ngàn xưa, dân Việt học được kinh nghiệm về định cư: miền rừng núi bao giờ cũng  bất lợi, ít đất thịt, nhiều sỏi đá, nhứt là bịnh rét rừng (sơn lam chướng khí) nguy hại có thể  gây nạn diệt chủng. Nhà cửa nên cất nơi đồng bằng, nhưng đất phải cao ráo, gần sông rạch  càng tốt, tránh nơi nước đọng ao tù. “Sông sâu nước chảy” là cuộc đất lý tưởng về phong  thủy (tài lợi dồi dào) nhưng trong thực tế là ngừa được bịnh rét, giao thông thuận lợi, có  nước để làm ruộng, có nước để uống, nếu là nơi nước mặn gần biển thì trên giồng cao vẫn  đào giếng được.

Năm 1698, khi Nguyễn Hữu Cảnh đặt hai huyện đầu tiên, tình hình khẩn hoang được  mô tả như sau:

-  Đất đai mở rộng 1000 dặm, dân số được hơn 40000 hộ, chiêu mộ lưu dân từ Bố  Chánh châu trở về Nam đến ở khắp nơi, mọi người phân chiếm ruộng đất, chuẩn định thuế đinh điền và lập hộ tịch đinh điền. Từ đó con cháu người Tàu ở nơi Trấn Biên thì lập thành  xã Thanh Hà, ở nơi Phiên Trấn thì lập thành xã Minh Hương, rồi ghép vào sổ hộ tịch.

Nhóm di thần nhà Minh đến ở cù lao Phố và vùng Mỹ Tho gồm 3000 người khi tiên  khởi. Hai mươi năm sau, con cái của họ lớn lần. Một số người Trung Hoa khác lần hồi đến  làm ăn buôn bán, rồi định cư luôn. Ta thấy còn lại trên ba chục ngàn gia đình Việt Nam  gồm có:

-  Những người lập nghiệp từ trước ở Mô Xoài (Bà Rịa).

-  Những người từ Bố Chánh (Quảng Bình) trở vào đến lập nghiệp. Số người này sống  rải rác từ Bà Rịa đến cù lao Phố (Biên Hòa), vùng Sài Gòn, Mỹ Tho. Địa danh Trấn Biên  bao gồm một vùng rộng rãi từ ranh Bình Thuận đến tận Nhà Bè. Phiên Trấn bao gồm Tân  Bình đến phía Cần Giuộc, Cần Đước, Tân An. Phủ Gia Định thuở ấy ăn đến tận vùng Cái  Bè (tả ngạn Tiền Giang) sau này là châu Định Viễn. Đây là những lưu dân. Nhưng nên chú  ý số người “có vật lực” từ miền Trung đến. Không vốn liếng thì không làm ruộng được, người  có chút ít vốn nếu chịu mang vào “đất mới” sẽ dễ trở thành điền chủ, phú hào.

Lỵ sở thường đặt ở những nơi quan trọng, dân đông, kinh tế dồi dào, thuận lợi cho việc  thương mãi và là vị trí có giá trị chiến lược quân sự. ở lưu vực sông Đồng Nai và Cửu Long,  dân ta thiết lập được:

Vùng cù lao Phố: nòng cốt của Biên Hòa

Đây là vị trí xứng danh ải địa đầu (Trấn Biên) với đường bộ đường thủy nối liền về  miền Trung, đường bộ lên Cao Miên và đường thủy ăn xuống Sài Gòn. Nhóm dân Trung  Hoa theo chân Trần Thắng Tài gây cơ sở lớn ở cù lao Phố, chọn vị trí thuận lợi, sát mé sông. Năm năm sau khi định cư, chùa Quan Đế dựng lên.

Trần Thắng Tài chiêu nạp được người buôn nước Tàu, xây dựng đường phố, lầu quá đôi  từng rực rỡ trên bờ sông, liên lạc năm dặm và phân hoạch ra ba nhai lộ, nhai lớn giữa phố lát đá trắng, nhai ngang lát đá ong, nhai nhỏ lát đá xanh, đường rộng, bằng phẳng, người  buôn tụ tập đông đúc, tàu biển, ghe sông đến đậu chen lấn nhau, còn những nhà buôn to ở  đây thì nhiều hơn hết, lập thành một đại đô hội.

“Đại Phố” bấy giờ là đệ nhứt thương cảng ở miền Nam, phồn thịnh nhờ lý do sau đây:

-  Việc thương mãi tổ chức khéo léo, Trần Thượng Xuyên chiêu tập người buôn nước  Tàu đến kiến thiết, đây là bọn thương buôn chuyên nghiệp, có vốn to và giàu kinh nghiệm,  đến sau chớ không phải là người đi theo Trần Thượng Xuyên trong đợt tiên phong (số người  đi đầu gồm đa số là quân sĩ, tức là nông dân nghèo, không vốn).

-  Sông sâu có chỗ thuận lợi cho tàu biển đậu (đây là vực sâu gần đền thờ ông Nguyễn  Hữu Cảnh).

-  Việc tồn trữ và phân phối hàng hóa được điều hành hợp lý. Nhà lầu, phố xá bên các  nhai lộ lát đá là kho hàng và cũng là nơi nghỉ giải trí của chủ tàu và thủy thủ. Tàu chạy  buồm gặp gió thuận thì mới đến hoặc đi được. “Xưa nay thuyền buôn đến hạ neo xong là lên  bờ thuê phố ở, rồi đến nhà chủ mua hàng, lại đấy kê khai những hàng hóa trong thuyền và khuân cất lên, thương lượng giá cả, chủ mua hàng định giá mua bao tất cả hàng hóa tốt xấu  không bỏ sót lại thứ gì. Đến ngày trương buồm trở về gọi là “hồi đường”, chủ thuyền có yêu  cầu mua giúp vật gì thì người chủ buôn ấy cũng chiếu y ước đơn mua dùm chở đến trước kỳ  giao hẹn, hai bên chủ khách chiếu tính hóa đơn thanh toán rồi cùng nhau đờn ca vui chơi, đã được nước ngọt tắm rửa sạch sẽ lại không lo sự trùng hà ăn lủng ván thuyền, khi về lại  chở đầy thứ hàng khác rất là thuận lợi”.

Chưa thấy tài liệu cụ thể về các sản phẩm mua bán lúc ấy, nhưng ta đoán là thương  gia Huê kièu nắm độc quyền về xuất nhập cảng từ khi bắt đầu khẩn hoang, ngoài những  sản phẩm đất Đồng Nai như gạo, cá khô, còn một số sản phẩm từ Cao Miên đem xuống: các  loại thảo dược, ngà voi. Sản phẩm nhập cảng gồm tơ lụa, vải bô, dược phẩm cho đến những  xa xí phẩm. Người Tàu thích dùng đồ bên Tàu: gạch ngói, đá xây cột chùa, nhang đèn, giấy  tiền vàng bạc. Họ cưới vợ Việt Nam, bày ra những thói ăn xài, phung phí vào dịp Tết.

Những địa điểm định cư lúc ban đầu là vùng Bà Rịa, Đồng Môn, Long Khánh, Tân  Uyên, những cánh đồng ở hai bên bờ sông Đồng Nai gần cù lao Phố. Đất Trấn Biên lúc bấy  giờ ăn đến Thủ Đức, Giồng Ông Tố, vùng Thủ Thiêm, Nhà Bè; phía Tây thì ăn qua vùng Thủ Dầu Một, Lái Thiêu.

Vùng Bến Nghé Sài Gòn: nòng cốt của Gia Định

Đây là vùng đất giồng ở sông Sài Gòn, rạch Thị Nghè lên Hốc Môn, Gò Vấp; vùng Chợ  Lớn ngày nay ăn xuống Bình Điền, Bình Chánh; Gò Đen, nối liền đến Cần Đước, Cần Giuộc,  những giồng thuận lợi để làm ruộng và làm rẩy. Nếu vùng cù lao Phố được ưu thế là có nước  ngọt quanh năm, thì vùng Sài Gòn lại bị ảnh hưởng nước mặn từ biển tràn vào, giồng cao  ráo, đào giếng có thể gặp mạch nước ngọt, phần còn lại là đất quá thấp.

Vùng Sài Gòn là Prei Nokor (chùa Cây Mai được gọi là Vat Prei Nokor) nằm trên  giồng, phía Chợ Lớn ngày nay. Năm 1739, đồn Dinh đóng ở thôn Tân Mỹ, có tài liệu ghi là Tân Thuận, phải chăng vì quân sĩ muốn ở gần bờ sông lớn (gần Nhà Bè) để dễ di chuyển và  kiểm soát an ninh? Thoạt tiên từ cù lao Phố đến Bến Nghé -  Sài Gòn chỉ dùng đường thủy,  chợ Nhà Bè thành hình, ứng dụng vào nhu cầu như một chợ nổi ở giữa ngã ba. Hanh Thông  xã (Gò Vấp) trở thành đơn vị hành chánh từ năm 1698, Phú Thọ năm 1747, Tân Sơn Nhứt năm 1749. Ngay từ năm 1698, người Hoa kiều lập xã Minh Hương ở vùng Sài Gòn, nơi đây  họ cũng nắm việc thương mãi. Năm 1770, sử chép chuyện ông Tăng Ñn đánh cọp tại chợ  Tân Kiểng (Tân Cảnh), năm 1774 chùa Giác Lâm dựng lên, trên gò đất cao ráo (do người  Minh Hương là Lý Thụy Long quyên tiền), chùa Kim Chương lập năm 1775. Phú Lâm, vùng Bình Điền là đất giồng. Nhưng nơi thuận tiện cho việc canh tác phải kể là vùng Cần Giuộc, Cần Đước. “Gạo Cần Đước nước Đồng Nai” nổi danh là ngon và trong mát. Vùng ven biển  Nam kỳ (trừ ra rừng Sác -  Cần Giờ và rừng Đước mũi Cà Mau) còn nhiều đất rất tốt. Bên  kia Cần Đước là Gò Công với nhiều giồng và đất phù sa ở bờ Cửa Đại, Ba Lai (trở thành vựa  lúa quan trọng đời Gia Long).

Đất đã tốt lại ở ven biển, lưu dân có thể đi ghe bầu từ miền Trung vào vàm mà lập  nghiệp, ngoài huê lợi ruộng nương còn huê lợi cá tôm. Đánh lưới ngoài biển vốn là sở trường  của dân Việt. Làm ruộng ở những nơi xa lỵ sở thì dễ trốn thuế, tha hồ chọn lựa đất tốt. Nhờ  đường biển, việc liên lạc về quê xứ miền Trung được thuận lợi.

Trấn Biên và Phiên Trấn khi mới khẩn hoang tuy đất không tốt bằng phía Cửu Long  nhưng vẫn là phì nhiêu so với vùng Bình Thuận. Vì ở gần lỵ sở, gần thương cảng nên lúa gạo bán có giá. Về mặt an ninh vì xa sông Tiền sông Hậu nên khỏi sợ nạn chinh chiến khi  chúa Nguyễn và Xiêm La gây hấn.

Vùng Ba Giồng: nòng cốt của Định Tường

Sông Cửu Long khác hơn sông Đồng Nai và sông Vàm Cỏ. Hằng năm, Cửu Long có nơi  nước lụt tràn bờ. Đất giồng ven bờ sông, đất cù lao ở Cửu Long khác hơn mấy gò ở gần Đồng  Nai. Vùng Cửu Long đất thấp, đào xuống vài lớp xuổng là gặp nước, việc trồng cây ăn trái lại dễ dàng, khỏi tưới. Múc nước giếng, hay gánh nước từ mé rạch lên nhà, lên rẫy lại ít tốn  công. Bờ Cửu Long thường có bãi bùn, bồi đắp nhanh chóng, đất cù lao lan ra trong vài năm là thấy cuộc biển dâu. Việc vận tải, giao thông dùng ghe xuồng thay vì dùng xe bò hoặc đi  bộ, khiêng gánh. Kỹ thuật cày bừa cùng là ngày tháng cấy hái phải thay đổi cho thích ứng  với hoàn cảnh mới.

Dương Ngạn Địch “đem binh lính ghe thuyền chạy vào cửa Soi Rạp và Đại Tiểu hải  khẩu rồi lên đồn trú ở xứ Mỹ Tho”. Đây là cuộc định cư có sắp đặt, “xá sai Văn Trinh và tướng thần lại Văn Chiêu đưa dụ văn sang Cao Miên bảo Thu Vương chia đất để cho bọn  Dương Ngạn Địch ở. Tháng 5, Văn Trinh dẫn cả binh biền Long Môn và đưa ghe thuyền đến  đóng dinh trại ở địa phương Mỹ Tho rồi dựng nhà cửa, tụ tập người Kinh, người Thượng  (người Miên) kết thành chòm xóm”, “sau này mới lập dinh trấn, đều là tùy thời dời đổi, hoặc  hướng Nam, hoặc hướng Bắc, hoặc đem tới, hoặc rút lui cũng chẳng ngoài địa cuộc ấy”.

Trên 1000 binh sĩ của Dương Ngạn Địch làm ăn tại đâu?

Họ không rời khỏi “địa cuộc” tốt chọn lựa lúc ban đầu như tài liệu trên cho biết. Chúng  ta có thể xác nhận là giồng Cai Yến ăn đến vùng Ba Giồng, khởi đầu là Tân Hiệp (nay còn  gọi là giồng Trấn Định) đến Thuộc Nhiêu, Cai Lậy, giữa Tiền giang và Đồng Tháp Mười.

Lúc mới khẩn hoang, hai lỵ sở chính là Biên Hòa và Phiên An ở gần nhau phía Đồng  Nai. Các quan thì muốn cho dân chúng phân tán ra chiếm cứ đất phía Tây Nam nên đặt  quy chế rộng rãi, không câu thúc. Về nguyên tắc, người khẩn hoang ở Vũng Gù (Tân An,  sông Vàm Cỏ) hoặc Mỹ Tho, đều là dân của hai huyện Phước Long và Tân Bình. Để khỏi  chuyên chở đường xa khi đóng thuế bằng lúa và bằng tiền mặt, họ có thể nạp tại các kho  thuế ở địa phương, vừa thuận lợi cho dân, cho các quan cũng khỏi lo sợ nạn thất thâu. Một  số người làm nghề rừng, nghề biển hưởng quy chế riêng khỏi lập thôn ấp, chỉ cần đôi người  thay mặt đứng ra chịu trách nhiệm để kết họp thành trang trại, man, thuộc, nậu. Họ sống  định cư hoặc lưu động, với người cai trại hoặc người bộ trưởng, người đầu nậu cầm đầu.

Chín kho thâu thuế (cửu khố trường) dành cho các trại, các nậu, mang tên sau đây  (đặt ra từ năm 1741):

-  Quy An

-  Quy Hóa

-  Cảnh Dương

-  Thiên Mụ

-  Gian Thảo

-  Hoàng Lạp

-  Tam Lịch

-  Bả Canh

-  Tân Thạnh

Ba kho Tân Thạnh, Cảnh Dương, Thiên Mụ, làm chỗ cho dinh Trấn Biên trưng thâu tô  thuế để nạp tải về Kinh, đều ở phía bắc Hậu giang tức là sông Cát, phía đông cù lao Phố.

Kho Tam Lạch (Tam Lịch) ở vùng Mỹ Tho (theo cha Jean de Jésus thì Tam Lạch là nơi  mà quân Đông Sơn khởi sự xưng danh tánh), ta hiểu là vùng Ba Giồng.

Kho Bả Canh ở vùng Cao Lãnh ngày nay.

Kho Gian Thảo ở cách phía nam thành Gia Định 4 dặm rưỡi, sau sửa lại gọi là kho Bốn  Trấn.

Kho Hoàng Lạp ở huyện Phước Long (Biên Hòa). Phải chăng kho này dùng để thâu  sáp ong và lâm sản do thợ rừng phía biên giới Việt Miên đóng góp?

Kho Quy An và Quy Hóa ở đâu? Có nên suy luận là vùng An Hóa ở cửa Đại ngày nay,  lấy hai tiếng sau chót nhập lại? Nguyễn Khoa Thuyên ghi rằng ở Quy An có hơn 100 thôn,  tên Quy An được nhắc tới theo thứ tự sau Tam Lạch và Tân Bình. Bả Canh được Nguyễn  Khoa Thuyên ghi lại như là một trại, cùng với hai trại khác là Ba Lai và Rạch Kiến.

Trên bản đồ, ta thấy có đến 4 kho tập trung ở cù lao Phố và Bến Nghé để thuận đường  chở chuyên về kinh đô Huế và các tỉnh miền Trung khi chúa Nguyễn còn nắm chủ quyền.  Mấy kho kia ở Ba Giồng (Tam Lạch), Cao Lãnh (Bả Canh), Qui An có lẽ gần một vàm sông  nhánh của Cửu Long, hoặc Ba Lai, hoặc cửa Đại.

Đời vua Hiển Tôn (1691- 1725), lập phủ trị ở phía bắc chợ. Năm 1772 lập Trường Đồn  đạo, năm 1779, lấy phần đất nằm giữa trấn Biên, Phiên trấn và Long Hồ đặt làm Trường  Đồn dinh có Lưu thủ, Ký lục và Cai bộ coi việc quân sự, hành chánh, thuế vụ và bãi bỏ các  kho trên. Trường Đồn dinh đóng ở giồng Cai Yến (giồng này bắt đầu từ vùng Khánh Hậu  thuộc Tân An ngày nay), rồi lại đổi tên là Trấn Định, đóng ở Tân Hiệp. Hai tiếng Định  Tường chỉ xuất hiện từ năm Gia Long thứ 7 (1808).

Vùng Long Hồ: nòng cốt của Vĩnh Long, An Giang

Kiểm soát sông Tiền, sông Hậu là vấn đề mà các chúa Nguyễn quan tâm nhứt, về mặt  quân sự và về canh tác. Muốn dùng binh lên Cao miên, phải cho chiến thuyền đi ngược dòng  Tiền giang để đến Ba Nam rồi Nam Vang. Tiền giang là sông nhiều nhánh, gần vàm biển  mỗi nhánh khá rộng với bờ đất phù sa cao ráo, thuận lợi để trồng đậu, trồng khoai, đặc biệt  là trồng dâu nuôi tằm, trồng cau, trồng trầu, trồng dừa, các loại cây ăn trái. Đất còn lại là ruộng tốt. Đây là cuộc đất lý tưởng “sông sâu nước chảy”. Thoạt tiên, hai tiếng Long Hồ  phát xuất từ tả ngạn Tiền giang. Năm 1732 chúa Nguyễn sai quan khổn súy Gia Định chia phần đất của Gia Định (sau này là của Định Tường) lập châu Định Viễn, dựng dinh Long  Hồ tại Cái Bè, gọi là Cái Bè dinh.

Năm 1756 và 1757, cuộc Nam tiến hoàn tất về mặt chính trị. Trước mặt dinh Cái Bè -   ở vàm rạch Cái Bè phì nhiêu, bên cạnh rạch Cái Thia nhiều phù sa -  là những cù lao lớn  giữa các sông Ba Lai, Hàm Luông và Cổ Chiên, chưa kể đến mấy cù lao tuy nhỏ nhưng quan trọng ở giữa Tiền giang. Bên kia Tiền giang là nơi tập trung nhiều sốc Miên, vùng Trà Vinh.  Có thể là trước khi sáp nhập vào lãnh thổ Việt Nam, lưu dân đã đến làm ăn rải rác nhưng  cuộc khẩn hoang được xúc tiến quy mô hơn từ khi trở thành lãnh thổ Việt Nam, danh chánh  ngôn thuận. Hai địa danh cù lao Bảo, cù lao Minh xuất hiện sau này, xứng danh là trái châu của Cửu Long.

Phía cù lao Bảo có tám giồng, phía cù lao Minh có 11 giồng. Đặc điểm của những giồng  này là chịu ảnh hưởng nước lớn nước ròng do thủy triều, nhưng không bao giờ bị ngập vào  mùa lụt của sông Cửu Long.

Nguyễn Cư Trinh và Trương Phúc Du xin dời dinh Long Hồ từ Cái Bè qua đất Tầm  Bào, tức là vùng chợ Vĩnh Long ngày nay, đồng thời đặt những đồn ở Tây Ninh, Hồng Ngự,  cù lao Giêng, Sa Đéc, Châu Đốc.

Dinh Long Hồ kiểm soát Tiền giang và hai bên bờ Hậu giang. Đồng thời dinh này cũng  bao trùm luôn vùng biên Vịnh Xiêm La với Long Xuyên đạo (Cà Mau), Kiên Giang đạo  (Rạch Giá). Riêng về vùng Ba Thắc (Sóc Trăng) nơi người Miên sống quá tập trung thì việc cai trị vẫn thuộc về họ.

Dụng ý của chúa Nguyễn là dùng nơi này để khống chế Cao Miên. Sông Cửu Long là biên giới Việt Nam ở miền ba biên giới.

Năm 1779, chúa Nguyễn duyệt xem bản đồ, nâng vùng Mỹ Tho làm dinh (Tường Đồn  dinh) đồng thời cũng thử bày một chuyến phiêu lưu: dời dinh Long Hồ đến cù lao Hoằng  Trấn, ở giữa Hậu giang. “Đương thời có người bàn rằng địa thế Hậu giang rộng lớn, rừng  núi mù mịt, vùng Ba Thắc, Cần Thơ, Trà Vinh có nhiều sốc của Cao Miên mà cách xa dinh  Long Hồ, nên đặt một đai trấn để khống chế, mộ dân đến khai khẩn ruộng đất”. Dinh Long  Hồ dời đến Hoằng Trấn năm trước là năm sau (1780) lại lui về chỗ cũ (tức là vùng chợ Vĩnh  Long), đổi tên là Vĩnh Trấn dinh.

Kinh nghiệm cho thấy rằng con đường từ Hậu giang lên Cao Miên quá xa, không  thuận bằng đường Tiền giang, phía Vĩnh Long. Cù lao Hoằng Trấn ở Hậu giang được khai  thác sớm, còn mang tên là cù lao Tân Dinh, gợi lại hình ảnh của dinh Long Hồ ngày trước.  Giữa Tiền giang và Hậu giang, có s≥n nhiều sông rạch lớn nhỏ liền lạc nhau lại còn nhiều  giồng đất tốt, quanh năm nước ngọt, mùa nước lụt không ngập (vùng Sa Đéc). Những cù lao  trên sông Tiền, sông Hậu đều đáng giá, nhiều cù lao vừa rộng vừa dài, đất biền chung  quanh cù lao rất màu mỡ, năng xuất cao: cù lao Dung, cù lao Trâu, cù lao Dài, cù lao  Giêng, cù lao Mây, cồn Bình Thủy, cù lao Năng Gù. So với sông Vũng Gù (Vàm Cỏ Tây) luôn  cả sông Đồng Nai thì Tiền giang và Hậu giang đất tốt hơn, khí hậu khá lành. Dân cư còn  thưa thớt, đòi hỏi nhiều đợt lưu dân đến khai thác. Duy có điều bất lợi là xa Gia Định, người  Miên sống tập trung tại nhiều vùng lớn rộng có thể khuấy rối an ninh; vùng Thất Sơn chưa  thám hiểm được, lại còn cánh đồng bát ngát (Rạch Giá, Cần Thơ) nằm giữa hữu ngạn Hậu  giang và vịnh Xiêm la. Nước Xiêm đang hồi hăng sức, có thể đột nhập miền biên giới -  một  biên giới chưa rõ rệt, khó định cư vì nước ngập quá sâu, không thích hợp với lối cày cấy  đương thời (đồng Châu Đốc, Láng Linh, Tháp Mười).

Những chuyến đi về “tẩu quốc và phục quốc” của vua Gia Long được thực hiện dễ dàng là nhờ ngài am hiểu địa thế của vùng đất rộng ấy hơn quân Tây Sơn. Nào là sông Mân Thít  nối ngang Ba Kè tới vùng Trà Ôn, nơi nhiều người Miên sống tập trung. Nào vùng Nước  Xoáy tấn thối dễ dàng, lại còn vùng Cần Thơ với rạch Cần Thơ ăn thông qua sông Cái Bè rồi sông Cái Lớn với vùng U Minh. Sông Gành Hào, sông Ông Đốc ở tận mũi Cà Mau. Thời  thạnh trị của họ Mạc quá phù du vì không đủ dân và không đủ quân để kiểm soát một vùng  Hậu giang quá rộng mà trên danh nghĩa thì họ Mạc được chúa Nguyễn giao cho cai quản.

Sơ kết thành quả:

Thương cảng Sài Gòn thành hình và phát triển

Người Hoa kiều nắm nội và ngoại thương ngay từ buổi đầu, họ lại có thế lực quân sự. ở  cù lao Phố, Trần Thắng Tài sống thuận hòa với chúa Nguyễn, năm 1700, ông cùng quân sĩ tùy tùng tham gia trận đánh quyết định, chiến thắng tại Nam Vang. Con Trần Thắng Tài là Trần Đại Định cưới con gái Mạc Cửu, tức là em gái của Mạc Thiên Tứ (vợ Mạc Cửu là người Việt Nam, quê ở Đồng Môn, thuộc Biên Hòa), về sau Trần Đại Định vì bị hiểu lầm nên buồn  tủi, chết trong ngục. Dương Ngạn Địch chết vì phó tướng là Hoàng Tấn làm phản, Hoàng  Tấn lại bị quân sĩ Việt Nam trừng trị. Họ Mạc ở Hà Tiên được chúa Nguyễn cho hưởng quy  chế tự trị. Dòng họ này trung thành với chúa Nguyễn nhưng lại bị Xiêm Vương là Phi Nhã Tân quấy rối (ông vua Xiêm này gốc người Triều Châu). Một viên tướng Triều Châu tên là Trần Liên đã đem binh qua đốt phá Hà Tiên, quyết sanh tử với Mạc Thiên Tử. Hai tên cướp  Triều Châu khác là Hoắc Nhiên và Trần Thái cũng gây khá nhiều rắc rối cho họ Mạc ở Hà  Tiên.

Có người cho rằng người Trung Hoa hải ngoài thường tự tôn, ôm ấp giấc mơ làm bá  chủ một cõi. Nếu có thật vậy, thì những giấc mơ ấy không bao giờ thực hiện được ở đất Đồng  Nai, ít ra là về mặt chánh trị và quân sự. Chỉ một lần hồi năm 1747 khi có thương gia người  Phước Kiến là Lý Văn Quang đến cư ngụ tại cù lao Phố, nhân thấy việc phòng bị lơ là nên  cấu kết với hơn 300 bè đảng, xưng là đại vương. Cuộc khởi loạn bị dập tắt, Lý Văn Quang và  đồng bọn bị áp giải về Phước Kiến (bấy giờ, ta ngại rắc rối về ngoại giao với nhà Thanh).

Năm 1772, chúa Nguyễn suy yếu, Trương Phúc Loan lộng quyền nhưng quân sĩ Đàng Trong vẫn còn mạnh, 10000 quân ở dinh Bình Khương, Bình Thuận cùng 300 chiến thuyền  hợp với quân ở dinh Long Hồ kéo lên Cao Miên đánh thắng một trận lớn để cứu vãn tình thế nguy ngập ở Hà Tiên, cứu Mạc Thiên Tứ khi quân Xiêm chiếm cứ thành này;

Tình thế ở Đàng Trong trở nên bi đát khi anh em Tây Sơn khởi nghĩa. Tháng hai năm  1776, Nguyễn Lữ léo vào đất Gia Định. Tháng năm năm ấy, Nguyễn Lữ rút lui sau khi cướp  lấy lúa kho, chở hơn 200 thuyền chạy về Quy Nhơn. Con số này giúp chúng ta thấy phần  nào thành quả của việc khẩn hoang ở Đồng Nai và Cửu Long.

Một viên cai bộ ở phủ Gia Định là Hiến đức hầu Nguyễn Khoa Thuyên báo cáo lại  những con số cụ thể về lực lượng quân sự và tình hình chánh trị, kinh tế. Sau đây là vài chi  tiết về xứ Đồng Nai:

-  Huyện Phước Long (vùng Trấn Biên) có hơn 200 thôn, dân số 8000 người, lệ thuế ruộng hơn 2000 hộc.

Các thuộc Cảnh Dương, Thiên Mụ, Hoàng Lạp có phỏng 40 thôn nậu, dân số 1000  người phải nạp thuế.

Thuộc Ô Tất gồm phỏng 30 nậu, dân số ước 500.

-  Huyện Tân Bình có hơn 350 thôn, số dân hơn 15000 dinh, thuế ruộng hơn 3000 hộc.

Quy An có hơn 100 thôn, số dân 3000 đinh, ruộng hơn 5000 thửa.

Tam Lạch có hơn 100 thôn, số dân 4000 đinh, ruộng hơn 5000 thửa.

Các trại Bả Canh, Ba Lai, Rạch Kiến, có 100 thôn, dân 4000 đinh, ruộng hơn 4000  thửa.

-  Châu Định Viễn có lối 350 thôn, dân 7000 đinh, ruộng 7000 thửa.

Nhìn con số trên, ta thấy Cửu Khố (còn gọi 9 trường biệt nạp), dành cho vùng đất ở xa  Trấn Biên và Phiên Trấn (sau này là Trấn Định, trở thành Mỹ Tho), gồm các thuộc:

Cảnh Dương, Thiên Mụ, Hoàng Lạp, Ô Tất (đóng thuế về Phước Long).

Tam Lạch, Quy An, Bả Canh, Ba Lai, Rạch Kiến (đóng thuế về huyện Tân Bình, vùng  Sài Gòn).

Tài liệu của Nguyễn Khoa Thuyên cũng nêu rõ quân số, các nơi trú quân của chúa Nguyễn. Nhiều thủ ngự đặt ở Tiền giang và Hậu giang gần vàm rạch mà ta tin rằng ở vùng  phụ cận có thôn xóm khá sung túc: vàm Ông Chưởng, Tân Châu, chợ Thủ, Sa Đéc, Vũng  Liêm, Láng Thé, Lấp Vò, Trà Ôn, Cần Chung (Cần Chong nay là Tiểu Cần), cù lao Tân  Dinh, Bắc Trăng (thuộc Trà Vinh).

Thành tích này khá lớn lao: những vùng đất phù sa ven sông rạch, những cù lao  thuận lợi cho việc canh tác cổ truyền (ruộng cày, mỗi năm một mùa gặt) đều có người chú ý đến, không bỏ sót. Đồng bằng Cửu Long hơn đồng bằng Đồng Nai rõ rệt về mặt canh tác, sản xuất lúa gạo, với nhiều triển vọng tươi sáng hơn.

Trước 1776, thương cảng lớn nhất của miền Nam là cù lao Phố.

Năm 1776 và 1777 quân Tây Sơn tràn vào Gia Định, đánh cù lao Phố “chiếm dỡ lấy  phòng ốc, gạch đá, tài vật chở về Quy Nhơn”.

Nông Nại Đại Phố tức là thương cảng cù lao Phố suy sụp luôn, thương gia Hoa kiều  bèn kéo nhau xuống vùng Chợ Lớn ngày nay để lập chợ Sài Gòn, sát với chợ Tân Kiểng  thành hình từ trước 1770.

Thương cảng Sài Gòn (nên hiểu là Chợ Lớn ngày nay) thành hình và phát triển nhanh  từ năm 1778. “Từ khi Tây Sơn nổi lên, quan quân hội cả ở trấn Phiên An, thuyền buôn cũng  dời đậu ở sông Tân Bình (sông Sài Gòn)”. Nhưng 4 năm sau, năm 1782, Nguyễn Nhạc tới 18  thôn Vườn Trầu, bị phục kích thua thảm bại, hộ giá Ngạn của Tây Sơn tử trận. Nhạc nhận  ra bọn phục kích là đạo binh Hòa Nghĩa gồm nhiều người Tàu theo giúp Nguyễn ánh. “Nhạc  bèn giận lây, phàm người Tàu không kể mới cũ đều giết cả hơn 10000 người. Từ Bến Nghé  đến sông Sài Gòn, tử thi quăng bỏ xuống sông làm nước không chảy được nữa. Cách 2, 3  tháng người ta không dám ăn cá tôm dưới sông. Còn như sô, lụa, chè, thuốc, hương, giấy,  nhất thiết các đồ Tàu mà nhà ai đã dùng cũng đều đem quăng xuống sông, chẳng ai dám  lấy. Qua năm sau, thứ trà xấu một cân giá bán lên đến 8 quan, 1 cây kim bán 1 quan tiền,  còn các loại vật khác cũng đều cao giá, nhân dân cực kỳ khổ sở”.

Ngoài việc trả thù riêng người Tàu, Nguyễn Nhạc còn có dụng tâm tiêu diệt đầu não  kinh tế của miền Nam, nơi chúa Nguyễn nắm được nhân tâm từ lâu.

Suốt thời gian tẩu quốc và phục quốc, Sài Gòn được xem là kinh đô của Nguyễn ánh  (1779- 1801).

Sài Gòn được ưu thế là gần vùng Mỹ Tho và Long Hồ. Việc chuyên chở lúa gạo và sản  phẩm từ Tiền giang tuy khó khăn nhưng lúc bấy giờ kinh rạch vẫn tương đối thuận lợi cho  loại ghe có sức trọng tải nhẹ. Nhìn trên bản đồ, ta thấy sông rạch chằng chịt; vào mùa mưa  nước sông tràn đầy, nhưng mùa nắng thì nhiều khúc không lưu thông được, hoặc lưu thông  khó khăn phải sang qua ghe nhỏ, kéo bằng sức người hoặc sức trâu, sông rạch lại quanh co,  không đủ nhân công để vét. Công trình đào kinh khởi đầu với sáng kiến của Nguyễn Cửu  Vân để cố gắng nối liền sông Vũ Gù (Vàm Cỏ Tây) qua sông Mỹ Tho tức là Vàm Cỏ Tây qua  Tiền giang, sau lại đào sâu thêm. Tuy nhiên, vì có giáp nước khiến phù sa hai đầu dồn vào  nên bị cạn, thuyền to phải chờ khi nước lớn mới qua lại được. Đã có tạm đường thông thương  từ Mỹ Tho qua Vũng Gù. Vũng Gù thông qua Vàm Cỏ Đông đến Bến Lức, theo đường nước  đến Ba Cụm rồi theo sông Bình Điền đến Chợ Lớn. Năm 1772, Nguyễn Cửu Đàm (con của  Nguyễn Cửu Vân) đào kinh Ruột Ngựa, nối liền Rạch Cát đến kinh Lò Gốm mà trước kia  ghe thuyền không qua lại được, chỉ có “một đường nước đọng móng trâu”. Phía Gò Công,  Cần Giuộc cũng có đường thủy lên Rạch Cát. Phía Hậu giang, khi tranh chấp bằng quân sự với Tây Sơn, Nguyễn ánh vẫn tấn thối theo đường sông từ Sài Gòn Gia Định đến tận Sa Đéc, Cần Thơ, Cà Mau, Rạch Giá.

Dời đến Sài Gòn thì thể thức phân phối và tích trữ hàng hóa không được thuận lợi như lúc ở cù lao Phố: “Khi thuyền cặp bến, không có chủ lớn bao trữ nên phải gánh đến các chợ  bán lẻ linh tinh, kịp khi muốn mua thổ hóa đem về, thì đi tìm đông hỏi tây rất nhọc sức. Lại  có bọn thổ côn giả dạng làm người giàu có nói dối, mua xong rồi tìm nơi trốn tránh, nếu mất  số vốn một ít thì còn gắng chịu mà về, thảng hoặc mất vốn quá nhiều thì phải cầm ghe lấy  tiền ở đến mùa đông để truy tầm bọn ấy, làm cho kẻ viễn thương ngày càng cực khổ”.

Tệ đoan xảy ra vì địa bàn hoạt động của Sài Gòn rộng hơn cù lao Phố, nhưng chỉ là lúc  giao thời. Về sau, cũng chính thương gia Huê kiều đứng ra tổ chức hệ thống mua bán hoàn hảo hơn.

ở vàm Hậu giang, từ lâu người Miên sống tập trung tại vùng Ba Thắc (Sóc Trăng) trên  đất giồng cao ráo, làm ruộng khéo léo, gạo nổi tiếng là ngon. Thay vì chở lên Sài Gòn,  thương gia địa phương đứng ra chịu mối với các ghe buôn từ nước ngoài đến. Một thương  cảng thành hình từ xưa, phỏng đoán là ở vùng Bãi Xàu (Mỹ Xuyên ngày nay) nơi sông Ba Xuyên ăn thông ra Hậu giang. Theo nhựt ký của cố đạo Levavasseur vào năm 1768, thì thương cảng này mang tên là Bassac thành lập ở mé sông, nơi đất thấp với nhà lợp lá. ở đây  dùng tiền quan (quan 600 đồng của Việt Nam); một đồng bạc Con ó trị giá 5 quan tức là 3000 đồng. Chợ bán gạo, nhiều loại trái cây, rau, gà vịt, heo. Phải chờ nước lớn ghe thuyền  mới vào được. Thuyền chủ toàn là Trung Hoa, dân ở chợ đa số là người Trung Hoa, quan cai trị là người Cao Miên. Thuyền buôn đều của người Trung Hoa, đậu san sát từ 100 đến 150  chiếc để mua gạo và mua đường. Không hiểu họ đem tới đây bán những món gì.

Nên nhắc đến thương cảng Hà Tiên mà các thương gia ngoại quốc thường đề cập tới, được phồn thịnh một thời nhờ xuất cảng sản phẩm của Cao Miên phần lớn, khi Mạc Cửu và Mạc Thiên Tử còn hưng thời.

Việc tổng động viên năm 1789

Cuộc tranh chấp bằng võ lực giữa Tây Sơn và Nguyễn ánh làm nguy hại cho nông  nghiệp. Nói chung thì quân Tây Sơn không thâu phục được nhân tâm, trừ một trường hợp là  cuộc chiến thắng quân Xiêm ở rạch Gầm, Xoài Hột vào năm 1874. Quân Xiêm do hai tướng  Chiêu Tăng và Chiêu Sương với lực lượng hùng hậu kéo đến nhưng Trịnh Hoài Đức, người  viết sử thiên vị rõ rệt về phe Nguyễn ánh cũng đã thú nhận: “Binh Tiêm đến đâu đều cướp  bóc khó bề hạn chế nên vua (Nguyễn ánh) lấy làm lo. Đã vậy mà binh Tiêm lại kiêu hãnh,  lòng dân bất phục”. ở trấn Vĩnh Thanh, trong lúc Tây Sơn vào chiếm cứ thì dân chúng “đều  chôn cất của cải không dám phơi bày ra, cho nên bọn cường đạo không cướp lấy được vật gì”.  “Chợ phố lớn Mỹ Tho, nhà ngói cột chàm, đình cao chùa rộng, ghe thuyền ở các ngả sông  biển đến đậu đông đúc làm một đại đô hội rất phồn hoa huyên náo. Từ khi Tây Sơn chiếm  cứ, đổi làm chiến trường, đốt phá gần hết, từ năm 1788 trở lại đây, người ta lần trở về, tuy  nói trù mật nhưng đối với lúc xưa chưa được phân nửa”.

Chánh sách của Tây Sơn ở miền Nam là phá căn cứ địa, chận các đường thủy từ Sài  Gòn, Cần Giờ đến vùng vàm sông Cửu Long, chận các vị trí chiến lược nối Tiền giang qua  Hậu giang, Hậu giang đến vịnh Xiêm La, từ vùng Long Xuyên (Cà Mau) ra Phú Quốc, qua Xiêm. Thủy quân của Tây Sơn đồn trú hoặc tuần tiểu tới lui vùng Băng Cung, Ba Thắc, Phú  Quốc, vàm sông Mân Thít, Trà Ôn, Sa Đéc, sông Ba Lai. Khi chiếm đóng, chính sách kinh tế và việc tổ chức hành chính thay đổi như thế nào? Nguyễn Huệ chịu trách nhiệm từ Huế ra Bắc phần. Nguyễn Lữ, phò mã Trương Văn Đa, lưu thủ Hóa ở đất Gia Định khong biểu  dương được tài năng gì lạ ngoài những hàng động quân sự.

Quân Tây Sơn bị cô lập ở đất Gia Định vì những lý do sau đây:

-  Dân khẩn hoang mang ơn các chúa Nguyễn, họ được khá giả hơn lúc ở miền Trung,  đất tốt còn nhiều, chưa cần một chánh sách điền địa mới, hoặc một sự thay trào đổi chúa.

-  Quân Tây Sơn không thâu phục được người Huê kiều (đốt chợ cù lao Phố, đốt chợ Sài  Gòn, Chợ Lớn, phá chợ Mỹ Tho), là hậu thuẫn kinh tế cho Nguyễn ánh.

-  Người Cao Miên ở Trà Ôn, người Đồ Bà (Chà Châu giang) đều có cảm tình và tích cực  ủng hộ Nguyễn ánh, nhờ đường lối chính trị mềm dẽo. Lúc bấy giờ quân Tây Sơn nặng lo những vấn đề ở Bắc hà (cựu thần nhà Lê) và còn lo đối phó với quân nhà Thanh. Quân Tây  Sơn đánh giá quá thấp sức chịu đựng của Nguyễn ánh, nhứt là chuyện Nguyễn ánh cầu viện với nước Pháp. Pháp quốc lúc bấy giờ đang nuôi nhiều tham vọng, việc tổ chức quân đội  của Pháp đạt kỹ thuật cao, với hải quân mạnh và võ khí tốt. Hành động của Bá Đa Lộc tuy phiêu lưu nhưng gây nhiều hậu quả trầm trọng. Tháng 9 năm 1788, chiến thuyền và sĩ  quan Pháp đến trong khi Nguyễn Huệ lo ứng phó với Tôn Sĩ Nghị ở Thăng Long.

Tháng 8 năm 1788, Nguyễn ánh thâu phục thành Gia Định. Tại Gia Định năm ấy lập  ra kho Bốn Trấn làm kho chung cho cả bốn trấn Phiên An, Biên Hòa, Vĩnh Thanh và Định  Tường để thâu trữ thuế khóa, chi cấp bổng hướng. Tháng sáu năm 1789, Nguyễn ánh đưa  ra chánh sách rõ rệt, lấy việc tăng gia sản xuất làm trọng, đặt ra các điền toán gồm 12  người (trong đó có Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định, Ngô Tùng Châu, Hoàng Minh Khánh)  đi khắp bốn dinh Phiên Trấn, Trấn Biên, Trấn Vĩnh, Trấn Định để đốc xuất dân chăm làm  việc ruộng. Ai không làm ruộng phải đi lính. Ai làm ruộng đất tốt được 100 thúng lúa, hoặc làm ruộng đất xấu được 70 thúng lúa trở lên thì được tưởng thưởng, nếu là phủ binh (binh  lính phục vụ tại các công sở) được miễn một năm khỏi làm việc quan (làm xâu). Những  người dân lậu (không vô sổ bộ) có thể làm ruộng dưới quyền chăm sóc của các quan điền  toán, xem như là lính, nếu thiếu vốn thì được vay trước, sau sẽ trả.

Vào tháng 10 năm 1890, ngài đặt thêm sở Đồn Điền nhằm khuyến khích quân sĩ tại  ngũ tích cực cày cấy, bấy lâu vì chiến tranh nhiều vùng đất phải bỏ hoang. Binh sĩ thuộc  dinh Trung quân và quân các vệ thuyền đến khẩn ruộng tại Tháo Mộc Câu (sông Vàm Cỏ)  gọi là trại Đồn Điền, nhà nước cấp ngưu canh điền khí và lúa giống, đậu, bắp giống, hễ cắt  hái xong rồi đem nạp vào kho, chánh cơ Nguyễn Bình coi việc ấy.

Các quan địa phương phải lập đội đồn điền, mỗi năm một người trong đồn điền nạp 6 hộc lúa, ai mộ được 10 người trở lên cho làm quản trại, trừ tên trong sổ làng (khỏi đi lính).

Về mặt quân sự, ngài sai lựa quân chiến tâm, tức là quân tinh nhuệ, hết lòng đánh  giặc, tập luyện kỹ càng được cấp lương và tiền rất hậu.

Để tích trữ thêm lúa gạo phòng khi hành quân tái chiếm các thành ở miền Trung, ngài đặt ra lúa thị túc, thị nạp, tức là thứ thuế phụ thu (ngoài thuế điền).

-  Năm 1792, mỗi người nộp thuế thị túc từ 1 đến 5 phương.

-  Năm 1799, vùng Bình Định, Phú Yên mỗi mẫu ruộng nộp 17 thăng gạo.

-  Năm 1800 ở Gia Định, mỗi người nạp 2 phương, người già tàn tật nộp phân nửa.  Ruộng một mẫu nộp một phương gạo; một phương gạo bấy giờ trị giá 7 tiền 30 đồng. Những  năm dùng binh, số thuế và số thị túc phụ thu vẫn không đủ để chi tiêu, nhà nước thu trước  thuế năm tới. Về thuế ruộng, mỗi năm nhà vua thâu hai kỳ.

Nhà nước giữ độc quyền mua những hóa hạng liên hệ tới nhu cầu quân sự như kẽm,  sắt, đồ đồng, diêm, lưu hoàng. Năm 1791, đặt thêm lệ về việc khẩn hoang: sau khi khẩn, 3 năm mới thâu thuế, ai muốn khẩn thì nộp đơn trong thời hạn ngắn là 20 ngày, quá thời gian ấy, đất hoang sẽ giao cho quân sĩ cày cấy, dân không được giành nữa.

Lúa gạo đất Gia Định tích cực góp phần vào việc phản công của Nguyễn ánh. năm  1795 và 1796, chở tiền gạo ở Gia Định ra trữ tại thành Diên Khánh. Năm 1799 lúc ngài ra Quy Nhơn, quân lính lại chở thêm quân lương, “chẳng hề thiếu thốn”. Năm 1802, sử chép là Gia Định đói lắm, ngài sai quan trấn phát gạo kho cho dân mượn, cùng ra lịnh giảm thuế ruộng cho tỉnh Gia Định. Phải chăng vì lúa gạo dùng vào việc quân quá nhiều?

Tháng 2/1790, Nguyễn ánh cho xây thành Sài Gòn, theo hình bát quái (còn có tên là Quy Thành) kiểu thành Vauban của Pháp (do Olivier de Puymanel vẽ kiểu và coi xây cất).  Đây là Gia Định kinh, Nguyễn ánh xem như kinh đô của mình, với thái độ tự tin. Từ thành  này có đắp quan lộ lên Biên Hòa, và quan lộ xuống Trấn Định (Mỹ Tho) đến Cai Lậy, đường  rộng 6 tầm, hai bên đường có trồng cây mù u và cây mít là thứ cây thổ nghi.

Nguyễn ánh tự tin là phải. Bấy giờ lúa gạo Gia Định có nhiều, quân sĩ đang thừa thắng, một số sĩ quan Pháp lại trực tiếp giúp đỡ. Ngài ra lịnh tấn công Quy Nhơn lần thứ  nhất (1790). Nguyễn Huệ băng hà, lại có cuộc tấn công lần thứ hai, lần thứ ba để rồi năm  1801, đến Huế.

Về sau, năm 1814, vua Gia Long còn nhắc nhở: “Gia Định là nơi trung hưng, ngày xưa  chỉ có một đám đất và một toán quân mà khôi phục đất cũ”. Nên nói thêm rằng đó là “đám  đất” tuy diện tích nhỏ hẹp nhưng tốt, gồm đất giồng và đất cù lao của Đồng Nai và Cửu  Long, và toán quân không quá đông đảo nhưng gồm toàn những nông phu đã chịu cực khẩn  hoang, đến khi đi lính cầm gươm rồi mà còn phải cày cấy, phải đóng thuế. Đó là hình ảnh  của Võ Tánh với 10000 quân ở vựa lúa Gò Công xin theo chân ngài.

Nguyễn ánh vĩnh viễn rời đất Đồng Nai để về Huế đô, nhưng đất Đồng Nai, Gia Định  vẫn còn giữ vai trò cũ: vai trò vựa lúa, vai trò tiền đồn của nước Việt. Vua Cao Miên và vua  Xiêm càng thèm thuồng vùng đất phì nhiêu này.

Những năm thái bình đời Gia Long

Gia Long xưng Hoàng đế ở Huế, vùng Gia Định dứt nạn binh đao trong khoảng thời  gian ngắn, nhưng là khá dài so với thời chúa Nguyễn và các trào vua kế tiếp. Từ Bình  Thuận trở vào, về mặt hành chánh đặt ra Gia Định thành với quan Tổng trấn cầm đầu,  nắm khá nhiều quyền hạn, lãnh coi các việc binh dân, xâu thuế và hình phạt của năm trấn:  Phiên An, Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Thanh và Hà Tiên. Lại coi luôn trấn Bình Thuận về  mặt quân sự. Dân số lần hồi đông đúc, các tổng trước kia đa số đều thăng làm huyện, huyện  thăng làm phủ.

Việc phồn thịnh của thương cảng Sài Gòn và lỵ sở của các trấn được ghi khá đầy đủ  qua Gia Định thành Thông chí do Trịnh Hoài Đức, người đương thời biên soạn. Đường giao  thông vận tải nắm ưu thế vẫn là đường thủy. Du khách Hoa Kỳ là John White năm 1819 có đến Sài Gòn, ghi lại trong quyển sổ tay như sau:

-  Thành lũy Sài Gòn xây bằng đá ong, kế bên một cơ thủy trại, gần đó là xóm nhà của dân cư gồm những lều lụp xụp, thấp hẹp. Xóm buôn bán ở về hướng Đông. Khi đức Gia Long  dẹp yên giặc Tây Sơn thì dân chúng tụ về thành rất đông. Họ sửa sang nhà cửa lại mới, một  phần lớn các gia đình này dồn về hướng Tây của thành lũy nhà vua”.... “Thời buổi ấy, dọc theo hai bên bờ sông và bờ kinh rạch có vài chỗ đã được cẩn đá hay xây gạch kỹ càng, chạy  nối dài non ngàn thước tây. Về công lộ, có đường đã lót đá nguyên miếng lớn dễ coi, nhưng  phần nhiều vẫn quanh co uốn khúc và không được săn sóc tu bổ nên không được sạch”.

Về nhân số thì thành Sài Gòn phỏng độ lối:

-  180 000 dân bổn thổ

-  10 000 người Trung quốc.

Năm 1822 “lại có một thú y sĩ qů danh là ông Finlayson tháp tùng phái đoàn  Crawfurd cũng có đến viếng Sài Gòn. Finlayson viết: Sài Gòn gồm hai thành phố, mỗi cái đều rộng lớn bằng kinh đô nước Xiêm La, ấy là:

-  Sài Gòn.

-  Pingeh.

Nên hiểu Pingeh là Bến Nghé (Sài Gòn ngày nay), còn Sài Gòn là Chợ Lớn ngày nay.

Mức sản xuất lúa gạo lúc bấy giờ gia tăng như thế nào?

Chúng ta không có con số cụ thể. Chỉ biết là năm 1804, vua Gia Long sai các quan địa phương trữ lúa thuế vào kho cho nhiều. Kho Đồn Điền của Gia Định thành dựng năm 1805  gồm hai dãy kho ngói, mỗi dãy gồm sáu gian, trữ số lúa đồn điền để làm số lưu trữ, còn dư thì trữ theo kho ở các trấn.

Năm 1804, nước Lữ Tống (Phi Luật Tân) đói, xin đong gạo Gia Định, vua cho đong  500000 cân gạo, năm 1817 vùng Long Hồ, Sa Đéc đủ sức bán cho Cao Miên, nhân nạn đói  đến 10000 hộc lúa. Năm 1816, có lịnh cấm thuyền buôn không được chở lúa gạo ra nước ngoài. Đường thủy cũng được tu chỉnh lại, nhằm chuyên chở lúa gạo từ sông Cửu Long lên  Sài Gòn: năm 1819, sửa lại cho rộng và cho sâu con kinh nối liền từ Vũng Gù (Tân An) đến  rạch Mỹ Tho mà Nguyễn Cửu Vân đã cho đào từ năm 1705, dùng non 10000 dân phu trong  trấn Định Tường. Đào xong, vua đặt tên là Bảo Định Hà.

Cũng năm 1819, sai Huỳnh Công Lý đốc xuất dân phu đào con kinh nối liền từ cầu Bà Thuông (Thị Thông) đến kinh Ruột Ngựa (kinh Ruột Ngựa đào từ năm 1772), vua đặt tên là An Thông Hà vừa rộng, vừa sâu, hai bên bờ để đất trống, đưa sản phẩm từ Tiền giang lên  Sài Gòn “dòng sông sâu rộng, ghe thuyền đậu dài 10 dặm, theo hai con nước lên, nước ròng,  thuyền bè qua lại chèo chống ca hát, ngày đêm tấp nập, làm chỗ đô hội lưu thông khắp ngả, thật là tiện lợi”.

Hương binh được bãi cho về cày ruộng (1810). Lúc chiến tranh, nhiều cường hào lợi  dụng thời cơ, chiếm đất của dân nên vua định lệ quân cấp công điền công thổ (1804), và  công điền công thổ không được bán vì bất cứ lý do gì. Ai làm ruộng ẩn lậu, không khai báo  để đóng thuế thì có thể mất đất, đất giao cho người tố giác.

Vấn đề cho vay được đặt ra, trên nguyên tắc một vốn một lời (tức bất quá bổn), người  cho vay trái phép và con nợ lường gạt đều có tội. Từ năm 1806, khi mất mùa vì thiên tai,  hạn hán, lụt lội thì có lệ là chủ ruộng phải khai báo trước khi gặt để được miễn thuế. Khai báo gian hoặc quan lại mà giấu không chịu khai báo thì tội đồng nhau. Khi thâu thuế có  người đáng tin cậy ngồi coi, đề phòng nạn người coi kho làm khó dân, chê lúa xấu tốt, đong  ít đong nhiều để ăn hối lộ.

Trịnh Hoài Đức ghi chép rằng người địa phương ít dùng những địa danh về hành  chánh. Họ dùng tên của “những lỵ sở hoặc chỗ nhóm họp đông lớn, hoặc chỗ địa đầu” mà gọi  đại khái, tổng quát.

Trong dân gian gọi trấn Biên Hòa là Đồng Nai Bà Rịa, trấn Phiên An là Bến Nghé Sài  Gòn, trấn Định Tường là Vĩnh Gù Mỹ Tho, trấn Vĩnh Thanh là Long Hồ Sa Đéc, trấn Hà Tiên là Cà Mau Rạch Giá.

Trong một trấn tại sao chỉ chọn lựa hai vị trí, và tại sao lựa vị trí này mà không lựa vị trí khác? Dân gian nói thành thói quen ắt có lý do riêng. Theo chúng tôi nghĩ đó là họ muốn  xác nhận nơi làm ăn sung túc, “làm ăn“ có nghĩa là mua bán, cày cấy.

Sài Gòn là thành phố của người Trung Hoa dựng lên lúc ban đầu, nặng về bán sỉ,  trong khi thành phố Bến Nghé do người Việt xây dựng về sau, nặng về bán lẻ và là khu  hành chính. Vũng Gù tức là chợ Tân An ngày nay, tuy không có chợ lớn nhưng đáng chú ý nhờ khẩn hoang lâu đời, đất khá tốt. Sa Đéc nằm trong trấn Vĩnh Thanh, là nơi sung túc  dân cư trù mật, sống nhờ huê lợi ruộng tốt và vườn cây ăn trái. Trấn Hà Tiên, với lỵ sở nổi  danh là đẹp nhưng nghèo, không thể sản xuất đủ lúa gạo, cá mắm, chỉ có vùng chung quanh  chợ Cà Mau và chợ Rạch Giá là dễ đánh lưới và làm ruộng dễ trúng mùa, tàu buồm Hải Nam ra vào chở cá khô, gạo.

Gia Định thành Thông chí (trong mục Cương Vực Chí) đã nêu rõ danh sách các huyện, tổng, thôn ở toàn cõi Gia Định thành hồi đời Gia Long. Vùng nào tập trung nhiều làng xã trên diện tích nhỏ thì nhứt định là đất tốt, khẩn hoang có kết quả. Vùng nào có quá ít làng xã trên diện tích quá rộng thì đất xấu. Nguyên tắc lập làng xã là có người, tức là dân bộ.  Dân bộ phải nhiều đến mức nào đó (thường là 10 người) mới lập được một làng.

Mục Cương Vực Chí giúp ta thấy hình ảnh khá rõ rệt về tình hình khẩn hoang lúc bấy  giờ. Một thí dụ cụ thể là vùng Kiến Hòa ngày nay (tức là khái quát vùng cù lao Bảo và cù  lao Minh của Bến Tre thời Pháp thuộc) tuy diện tích nhỏ nhưng là một huyện, lấy tên là huyện Tân An với hai tổng Tân Minh 72 thôn và An Bảo 63 thôn. Riêng tổng Hòa Bình  (vùng Gò Công, Chợ Gạo và An Hóa) có đến 86 thôn, không kém vùng đông dân Sài Gòn,  Chợ Lớn.

Trong khi ấy, một huyện ở vùng khó khẩn hoang với diện tích to rộng chỉ có 37 thôn:  huyện Vĩnh Định, bao gồm phía hữu ngạn Hậu giang, từ biên giới Châu Đốc đến vàm Ba Thắc ở biển Nam Hải và chưa phân ra thành tổng như ở miệt trên;

Một nơi khác, đất phèn và nước mặn là mũi Cà Mau (nay là An Xuyên và một phần  của Bạc Liêu) chỉ có 40 xã thôn. Vùng Rạch Giá (Kiên Giang ngày nay, trừ Hà Tiên) gồm  một huyện với 2 tổng, tổng thứ nhứt là Kiên Định có 7 thôn, tổng thứ nhì là Thanh Giang có  4 thôn. Trong số này lại có những nậu, những thuộc, tức là xã thôn chưa thành hình đầy đủ.

Đồng ruộng ở Sài Gòn gồm dân số đông đúc, lúa bán cao giá, hoa màu phụ dễ khai thác: Hóc Môn, Bà Điểm, Gò Vấp, hoặc phía Phú Lâm, Bình Tiên, Bình Tây, Bình Đông.

Những con số trên chỉ ghi những thôn xã do người Việt Nam thành lập. Phía Hậu  giang, ruộng nương chưa đến đổi ít oi, dân số không quá thưa thớt, chỉ vì phần Cương Vực  Chí không ghi lại nhân số, diện tích các sốc Cao Miên, tập trung ở vùng Trà Vinh, Rạch Giá,  Bạc Liêu, Cần Thơ, Sóc Trăng.

Riêng về vùng gần chợ Hà Tiên ghi 6 phố, sở của người Tàu, 26 sốc Cao Miên và 19 xã  thôn Việt Nam (trong số này có 12 thôn ở đảo Phú Quốc).

“Huyện Kiến Hòa đất ruộng phì nhiêu, mênh mông bát ngát. Nhiều người lo việc canh  nông làm gốc, trong nhà có chứa vựa lúa gạo đầy dẩy”. Mục Phong Tục Chí của Trịnh Hoài Đức ca ngợi trường hợp huyện Kiến Hòa (trấn Định Tường). Định Tường lúc bấy giờ khá  rộng rãi, huyện Kiến Hòa nói trên bao gồm trọn vùng Gò Công, vùng Chợ Gạo, luôn cả vùng  đất giữa sông Ba Lai và Cửa Đại (tức là An Hóa ngày nay). Vùng Gò Công nổi danh đất tốt,  gạo ngon. Đất ở bờ Cửa Tiểu và Cửa Đại là phù sa cao ráo. Nói riêng về từng trấn, Định  Tường (với Gò Công làm nòng cốt) là vựa lúa quan trọng nhất của xứ Gia Định.

Về đất ruộng, ở nơi có núi đồi và có đồng bằng như miền Trung, theo lệ từ lâu, cứ phân  chia ra sơn điền và thảo điền. Sơn điền có năng xuất kém, thảo điền năng xuất cao, vì vậy  mà trong việc quy định thuế điền, luôn luôn thảo điền chịu thuế cao hơn.

ở vùng đồng bằng Cửu Long, để tiện việc thuế khóa, nơi nào đất mới trưng khẩn thì  khai là sơn điền (mặc dầu không có núi) để chịu thuế nhẹ, vài năm sau khi đất đã thành thục (trở thành đất thuộc) thì nâng lên làm thảo điền.

Ruộng ở đồng bằng Đồng Nai và Cửu Long chia ra hai loại, đứng về mặt kỹ thuật cày  bừa mà xét (sự phân biệt này qua thời Pháp thuộc vẫn còn):

-  Đất cày

-  Đất phát

Ruộng đất cày thường là tương đối cao, chờ mưa mới cày, thường là khai thác lâu năm,  nếu không cày thì mặt đất quá cằn cỗi thiếu chất màu mỡ, cày để trộn đất lên.

Vùng Phiên An, Biên Hòa gồm loại ruộng cày.

Ruộng đất phát là đất thấp, còn mới, ít khai thác, mặt đất còn nhiều cỏ và phân, nếu  cày thì đất phèn phía dưới lại trồi lên làm hư lúa (Trịnh Hoài Đức ghi là “trạch điền” để chỉ loại đất phát này).

Muốn làm ruộng đất phát, khi sa mưa, nước lên cỡ ba tấc tây thì phát cỏ (Trịnh Hoài Đức dùng chữ trảm phạt, nhưng không nói rõ là phát bằng thứ dụng cụ gì). Theo ý kiến  chúng tôi, nông dân thời ấy dùng cây phãng mà người Miên đã dùng từ trước. Phãng giống  như cây mã tấu, cán phãng uốn lại theo góc thước thợ, lưỡi phãng dài cỡ bảy, tám tấc tây. Người phát cứ đứng nghiêng mình mà chém, dùng cây cù nèo gạt cỏ qua một bên rồi chém tiếp. Phát cỏ xong xuôi, dùng cây bừa cào thứ to mà dọn cho đất trống trải, sau đó là cấy với cây nọc (đất không cày nếu dùng tay mà cấy thì không tài nào khoét lỗ để nhét cây mạ được).

Ruộng đất phát (trạch điền) ở Vĩnh Thanh một hộc giống thâu được 300 hộc, trong khi ruộng cày ở Phiên An, Biên Hòa một hộc lúa giống chỉ đem lại 100 hộc.

Giống lúa sạ (lên cao theo nước lụt) tuyệt nhiên không thấy nhắc tới. Lúc bấy giờ, việc mua bán, liên lạc với Cao Miên cũng khá thường xuyên. Lúa sạ có nhiều ở Cao Miên, tại sao  ta không cho du nhập để giải quyết việc trồng tỉa ở phần đất rộng mênh mông phía Đồng  Tháp Mười và phía Châu Đốc? Theo thiển ý chúng tôi, bấy giờ đất giồng ở bờ sông còn  nhiều, chưa cần khai thác quá xa tận vùng Châu Đốc và Đồng Tháp. Vả lại, lúa sạ không ngon cơm, bán thấp giá trên thị trường.

Trong Gia Định thành Thông Chí, không lời lẽ nào đề cập đến lối canh tác một năm  hai mùa ruộng (khi người Pháp chiếm nước ta hồi cuối thế kỷ 19, ở Nam kỳ vẫn chưa làm  một năm hai mùa). Ruộng hai mùa đòi hỏi đất cao ráo, để có thể đắp bờ mà giữ nước hoặt  tát nước vào ruộng cạn. Đắp bờ và tát nước đòi hỏi nhân công, các thửa ruộng phải liền lạc, gần nhau. Người nông phu lúc bấy giờ vì đất còn tốt và rộng nên chưa nghĩ đến cách khai thác thâm canh ấy. Lúc rảnh rỗi, họ trồng đậu, bắp khao dễ sinh lợi và ít tốn công hơn.

Doãn Uẩn từng là thự án sát tỉnh Vĩnh Long vào năm 1833 (sau làm đến Tổng đốc An  Hà) ghi lại vài chi tiết về cách làm ruộng: “Việc trồng lúa thì cứ phát rạp lau sậy, bừa cỏ hai ba lần rồi cấy, không phí sức nhiều. Như đã cấy rồi thì không cần trông nom tới, cũng  khỏi phải lo nước hạn. Vào những tháng 7, 8, 9 lục tục cày cấy, đến những tháng 11, tháng  chạp mới lần lượt gặt hái, rồi gom nhóm lại để ngay ngoài ruộng, tới ra giêng lối tháng 2, tháng 3 mới cho trâu đạp lấy lúa hột”. “Cổ nhân nói: Xuân canh, hạ vân, thu thâu, đông  tàng xét ra không thể hoàn toàn đúng với mọi vùng, hoặc thổ ngơi không điều hợp, thổ tục  thì theo thói quen mà làm, hoặc giả khí hậu có sớm có tối khác nhau, riêng tôi cũng chưa  thấu đạt được vậy. Cũng như nói về hoa quả, tại nhiều tỉnh dưa đều đại khái chín vào mùa hạ, mà Nam Kỳ lại chín vào đông xuân. Tại Bắc kỳ, sen nở mùa hạ, mà Kinh kỳ (Huế) lại  trỗ bông vào giữa thời gian giao mùa đông xuân, còn Nam kỳ thì bốn mùa sen đều có hoa  cả”.

Về phong tục ở miền Nam lúc bấy giờ, Trịnh Hoài Đức ghi lại khá nhiều chi tiết, xin  lược kê vài đoạn, chứng tỏ việc khẩn hoang đem lại mức sống sung túc: “ở Gia Định, có  khách đến nhà đầu tiên gia chủ dâng trầu cau, sau dâng tiếp cơm bánh, tiếp đãi trọng hậu,  không kể người thân sơ, quen lạ, tông tích ở đâu, ắt đều thâu nạp khoản đãi, cho nên người  đi chơi không cần đem tiền gạo theo, mà lại có nhiều người lậu xâu, trốn thuế đi đến xứ này  ẩn núp, bởi vì có chỗ dung dưỡng vậy”. “Đất Gia Định nhiều sông, kinh, cù lao, bãi cát nên  trong 10 người đã có 9 người biết nghề bơi lội, chèo thuyền, lại ưa ăn mắm, ngày ăn ba bữa  cơm mà ít khi ăn cháo”. Lại có thói đùa cợt, bằng cách thách đố nhau ăn hoặc uống thật  nhiều. Doãn Uẩn chép: “Cũng có kẻ nghèo phải đi ăn xin, nhưng mỗi tháng họ chỉ đi xin  một lần cũng đủ sống rồi. Họ thường tựu nhau nơi đình miếu, mỗi người đều có mùng màn  riêng. Trộm cắp cũng ít xảy ra, trâu thì có chuồng nhốt ngoài đồng”. Họ rất thích ca hát,  không ngày nào là không có múa hát.

 

Người Tàu còn khai thác ruộng muối ở vùng biển Sóc Trăng (Ba Thắc). Biên Hòa nổi  danh với nghề trồng mía, làm đường. Rừng Tây Ninh sản xuất nhiều gỗ tốt, đặc biệt là dầu  rái để trét ghe, làm đuốc.

 


Chương 1.2. Nhu cầu xác định vùng biên giới Việt Miên

Đời Gia Long, vấn đề biên giới ở Gia Định thành được tạm ổn định. Các hải đảo quan trọng đều có người Việt đến khai thác. Tại đảo Côn Lôn lúa, bắp, khoai, đậu tuy không đủ  dùng nhưng dân ở đảo kết đoàn làm binh sĩ, gồm 3 đội, khai thác hải sản, trồng cau. Giặc cướp Mã Lai chỉ đến khuấy rối tạm thời. Đảo Phú Quốc phía vịnh Xiêm La được bố trí  phòng thủ cẩn thận, dân Phú Quốc đã từng hết lòng ủng hộ lúc Gia Long tẩu quốc, gồm 12  thôn xã và thuộc. Hòn Sơn Rái có dân, lập thành một thôn.

Riêng về Hà Tiên thì không còn quan trọng, từ khi bị giặc Xiêm đốt phá năm 1771.  Hậu duệ của họ Mạc tuy được Gia Long chiếu cố nhưng thiếu tài kinh bang tế thế, vả lại, trọng tâm việc thương mãi đã nghiêng hẳn về phía Sài Gòn, Đà Nẵng; việc mua bán với Cao Miên thì đã có Sa Đéc, Cái Bè. Vua Gia Long cho các tàu buôn và ghe buôn ở hạt Hà  Tiên được miễn thuế (1810), đồng thời di chuyển một số quan lại, viên chức ở bốn trấn miền  trên đến tăng cường cho trấn Hà Tiên, gia tăng binh sĩ để lo việc tuần phòng giặc biển. Năm  sau (1811) vua cho Trương Phước Giáo và Bùi Đức Mân đến Hà Tiên để tu chỉnh thành phố,  chiêu dụ lưu dân: người Trung Hoa, người Cao Miên, ngườiChà (gọi là chà Châu Giang),  đều có dành khu vực cư trú riêng, khá phân minh. Tuy nhiên, thương cảng Hà Tiên không  sao hưng thịnh được như trước.

Vua Gia Long đặt quan bảo hộ ở Cao Miên, nhưng như đã nói, đối thủ của dân Việt  Nam vẫn là vua Xiêm với chính sách hung hăng đang tìm cách mở rộng biên giới. Từ năm  1795, Xiêm chiếm cứ luôn vùng Battambang và Siemrap của Cao Miên. Năm 1814, lấn luôn  vùng Mélouprey và Stungtreng thuộc tả ngạn sông Cửu Long, thọc sâu giữa lãnh thổ Lào và  Miên. Vua Xiêm còn có tham vọng “Nam tiến” xuống bán đảo Mã Lai.

Về mặt nội an, từ lúc tẩu quốc, Gia Long nắm được tình thế đối với các vùng tập trung  sốc Miên. Năm 1780, người Miên ở Trà Vinh làm loạn, nhưng tướng Đỗ Thanh Nhân dẹp  được với chiến thuật khá tinh vi. Năm 1757, nhờ lãnh tụ Miên là Nguyễn Văn Tồn theo  chúa Nguyễn nên vùng Trà Ôn sống yên lành, chẳng có mầm mống phản loạn. Người Miên  trở thành dân binh giữ an ninh, đóng đồn tại địa phương, họ hưởng chế độ tự trị khá rộng  rãi, nhờ đó mà “những chỗ gò hoang đất trống đã được khai khẩn thành ruộng vườn trồng  tỉa”. Vua Gia Long cũng ra lịnh cho quân và dân trong đất Gia Định trả lại những phần  ruộng đất chiếm của người Cao Miên và không tán thành việc dùng người Miên làm đầy tớ  (1816).

Việc bảo vệ biên giới Việt Miên

Địa thế Châu Đốc, Hà Tiên không kém Bắc thành. Vua Gia Long đã quan niệm rõ rệt như thế. Bắc thành để ngăn ngừa nạn xâm lăng của Trung Hoa; Hà Tiên, Châu Đốc để  ngăn ngừa giặc Xiêm và giặc Cao Miên.

Giữa ta và Cao Miên, biên giới có phần giáp vào trấn Phiên An và Đồng Tháp Mười,  nhưng con đường chiến lược bấy lâu vẫn là sông Cửu Long, cụ thể là Tiền giang, nơi đối  phương có thể từ Nam Vang đổ xuống nhanh chóng rồi thọc vào Định Tường. Về phía vịnh  Xiêm La, còn Rạch Giá, Hà Tiên ở sát mé biển.

Đồn lũy ở Hà Tiên và Châu Đốc đã có từ lâu, kể cả đồn Tân Châu, đồn Sa Đéc.

Lằn ranh biên giới giữa ta và Cao Miên khi Cao Miên dâng đất Tầm Phong Long là vùng người Miên gọi là Méat Chruk (tức là mõ của con heo, ta âm lại là Ngọc Luật, Mật  Luật), đại khái lấy sông Châu Đốc làm ranh giới. Đồn Châu Đốc ở phía tây sông Châu Đốc, thủ sở phủ Mật Luật Cao Miên ở bờ phía đông sông Châu Đốc, ấy là địa đầu quan ải trấn  Vĩnh Thanh và nước Cao Miên. Vua Gia Long đặt tên vùng Châu Đốc là Châu Đốc Tân Cương, đặt chức Quản đạo. Từ đồn Châu Đốc đến vịnh Xiêm La, đường ranh giới quá mơ  hồ: Vàm sông Châu Đốc (ngược về phía bắc) tiếp đến vùng Thất Sơn và rạch Giang Thành. Năm thứ 14 (1815), Gia Long ra lịnh cho trấn thủ Vĩnh Thanh là Lưu Phước Tường đem  dân binh trong trấn hạt 3000 người để xây đồn, chung quanh có hào thông với sông cái, xây  vào tháng chạp. Ngài giải thích với vua Cao Miên rằng đắp đồn Châu Đốc là để giữ yên trấn  Hà Tiên, làm nơi tiếp ứng cho thành Nam Vang. Ngài muốn nói đến việc quân Xiêm sẽ can  thiệp vào Cao Miên. Ngài ra lịnh xây đồn cho nhanh kẻo bận rộn đến việc cày cấy của đám  người đi làm xâu. Đồn Châu Đốc vừa xây xong, vua Gia Long xem địa đồ, nêu ý kiến: “Xứ  này nếu mở đường thủy thông với Hà Tiên thời nông thương đều lợi cả, ngày sau dân ở càng  đông, đất mở càng rộng, sẽ thành một trấn to”. Nhưng Nguyễn Văn Nhân tâu can nên ngài bỏ ý kiến ấy.

Tuy nhiên đó chỉ là bỏ tạm thời. Ngài muốn lập một trấn mới, tách ra khỏi trấn Vĩnh  Thanh quá dài (trấn Vĩnh Thanh ăn từ biên giới Cao Miên đến biển Nam Hải). Ngài muốn  cho lưu dân quy tụ để mở đất. Một người Tàu làm quan cho ta bên Cao Miên tên là Diệp Hội được gọi về, bấy lâu Diệp Hội được tiếng là mẫn cán “xử việc gì dân cũng bằng lòng”. Diệp  Hội được cử làm Cơi phủ Châu Đốc, khiến chiêu tập người ta, người Thổ và người Tàu vào  đó cho đông, hễ có biết nghề trồng cây, nuôi súc vật, buôn bán hay làm nghề gốm, cho tùy  nghề nghiệp làm ăn, người nào thiếu vốn thì nhà nước cho vay. Lại truyền dụ quan Tổng trấn Gia Định rằng: dân mới phủ tập, nên dạy làm các việc lợi ích khiến dân được an cư lạc  nghiệp, chờ các việc thành rồi sẽ tâu lên.

Vua Gia Long hiểu rõ tình hình vùng biên giới Châu Đốc; xứ này có đồi núi, chăn nuôi  súc vật dễ dàng; từ xưa, người Miên giỏi về nghề làm đồ gốm, nên thử cải tiến lại. Rất tiết  là đất ở vùng Thất Sơn quá xấu, chỉ có thể làm nồi, cà ràn, gạch ngói, chớ không làm tô chén  được. Việc quy dân lập ấp lúc bấy giờ cũng khó vì dân Việt thưa thớt; ở phía nam, gần Cần  Thơ và gần Vĩnh Long còn nhiều đất tốt chưa khẩn hết, đi làm ăn ở tận biên giới Châu Đốc  là chuyện phiêu lưu. Người Tàu, người Cao Miên với nghề làm đồ gốm, nghề chăn nuôi,  trồng cây được nhắc tới là phải.

Trước khi muốn khơi động sinh hoạt kinh tế cho vùng Châu Đốc, ngài ra lịnh cho  Nguyễn Văn Thoại (Thoại Ngọc Hầu) đào con kinh sau này gọi là Thoại Hà (gọi nôm na là kinh Núi Sập) trong năm 1817, vào tháng 11, dùng 1500 dân xâu gồm người Việt và người  Cao Miên, đào hơn một tháng mới xong. Đây là con đường mà trước kia dân gian thường đi, nhưng chật hẹp, nay đào nới rộng thêm. Thoại Hà đã có sẵn ở khúc đầu và đoạn chót, chỉ vét lại phần giữ để nối liền từ Hậu giang qua Rạch Giá bên bờ vịnh Xiêm La (ngọn của Rạch  Giá là rạch Sốc Suông, địa danh Miên, sử ghi là Khe Song). Mục đích trước tiên của việc đào  kinh vẫn là quân sự. Ngài nghĩ: chỗ ấy gần Chân Lạp, địa thế rậm rạp lắm, đàng thủy đi  qua Kiên Giang thì lắm bùn và cỏ. Ngài ra lịnh cắm dân không được chặt cây trên núi Sập, nơi con kinh này đi ngang qua, chắc vì muốn giữ phong thủy.

Nhưng việc đào kinh nối liền Châu Đốc qua Hà Tiên ở biên giới vẫn là mối bận tâm  của ngài. Kinh Thoại Hà đào xong ở phía Nam cũng như con kinh Vĩnh Tế sắp đào ở phía  Bắc vẫn nhằm mục đích đưa thủy quân của ta từ Hậu giang ra vịnh Xiêm La thật nhanh,  để giữ Kiên Giang và chợ Hà Tiên, ngừa quân Xiêm đem binh đến thình lình. Khi vỗ về và động viên dân trong trấn Vĩnh Thanh, ngài nói thẳng là “công trình đào sông ấy (nối Châu  Đốc qua Hà Tiên) rất khó. Việc nhà nước và cách phòng giữ bờ cõi quan hệ rất lớn. Bọn  ngươi tuy là khó nhọc một lần mà ích lợi cho muôn đời về sau, phải bảo nhau biết, chớ nên  sợ nhọc”. Trước khi đào kinh, ngài cũng trấn an sứ giả của Cao Miên.

Kinh Vĩnh Tế đào năm năm mới xong, ngưng rồi lại tiếp tục. Có đoạn dễ đào vì nhằm  nơi đất ruộng, sình lầy (khúc kinh này qua vùng Bến Đổi), nhưng có khúc ở đất cứng, có đá,  sát chân núi. Mùa nắng phải ngưng lại vì thiếu nước uống cho dân phu. Vua Minh Mạng tiếp tục công trình do Gia Long đề xướng. Lê Văn Duyệt huy động đến 55000 dân công, gồm  người Việt ở Vĩnh Thanh, Định Tường và người Miên ở đồn Uy Viễn (Trà Ôn do Nguyễn  Văn Tồn cầm đầu).

Mãi đến nay, dân gian còn nhắc lại những khó khăn khi đào con kinh này, lớp thì chết  vì bịnh, lớp thì trốn về dọc đường bị sấu ăn thịt. Nói đến kinh Vĩnh Tế, vua Minh Mạng  không che giấu mục đích quân sự: “Đức Hoàng khảo Thế tổ Cao hoàng đế ta (Gia Long)  mưu sâu, nghĩ xa, chú ý việc ngoại biên...”. Việc ấy (việc đào kinh) không lợi gì cho Chân  Lạp.

Những thành quả đầu tiên

Nên nhớ trấn Vĩnh Thanh đời Gia Long và đầu Minh Mạng bao gồm các tỉnh thời Pháp thuộc: Bến Tre, Trà Vinh, Vĩnh Long, Sa Đéc, Sóc Trăng, Long Xuyên, Châu Đốc, Cần Thơ.

Nói chung thì phía Nam đã có dân cư, đất không bị ảnh hưởng ngập lụt hằng năm của sông Cửu Long và Hậu Giang, phía Bắc thì quá thưa thớt, trừ vùng Sa Đéc, Tân Châu.  Vùng ngày nay thuộc Cần Thơ (Phong Dinh), Long Xuyên, Châu Đốc chưa có người Việt đến  định cư nhiều. Tại Cần Thơ, Ô Môn, Thốt Nốt đất khá cao và tốt, dân ta đến lập thôn xóm,  nhưng người Miên còn chen chúc gần đấy. Hữu ngạn Hậu giang, phía biên giới hầu như không người ở, trừ mấy cù lao trên sông. Đây là vùng bị ngập lụt quá sâu, cấy lúa không  được, ai siêng năng thì chỉ có thể chọn vài giồng đất nhỏ, vài gò ở ven sông hay giữa đồng  mà làm ruộng kiểu “móc lõm” tức là theo hình thức “da beo”, nhưng lối làm ăn này quá phiêu lưu, khi nước sông lên quá mức bình thường là bị lụt, hoặc mùa màng bị chim chuột  cắn hại, đầu hôm sớm mai.

Kinh Vĩnh Tế đào chưa xon glà Thoại Ngọc Hầu cho phép dân lập làng với quy chế rộng rãi, từ cù lao Năng Gù đến Bình Thiên theo sông Hậu, và dọc theo bờ kinh Vĩnh Tế, từ  Châu Đốc đến Thất Sơn. Người khẩn đất cứ dâng đơn, Thoại Ngọc Hầu lúc bấy giờ được trọn  quyền ở biên giới (với chức vụ Khâm sai thống chế, án thủ Châu Đốc đồn, lãnh bảo hộ Cao  Miên quốc ấn, kiêm quản Hà Tiên trấn biên vụ), phê vào đơn rồi đóng ấn son “Bảo hộ Cao  Miên quốc chi dương” là xong. Tờ đơn được đóng dấu này có giá trị như tờ bằng khoán. Dọc theo kinh Vĩnh Tế, nhiều người thử làm ruộng trên phần đất phía Nam, bờ kinh đắp cao, dễ  cất nhà. Kinh rút bớt nước, lại thuận lợi giao thông. Một số lưu dân đến mấy vùng đất cao ở  chân đồi, chân núi phía Thất Sơn mà canh tác. Rải rác trên bờ kinh, quân sĩ xây nhiều đồn  bão nhỏ, giữ an ninh, lại còn đường lộ đắp từ bờ kinh chạy vòng quanh, liền lạc nhau (gọi là xa lộ). Để tiện việc di chuyển và để khi mùa lụt nước ruộng rút nhanh, người khẩn hoang  lúc bấy giờ nghĩ ra sáng kiến đào nhiều con kinh ngắn (gọi là cựa gà) đổ ra kinh Vĩnh Tế,  bên phần đất mới khẩn để thăm ruộng hoặc chở lúa từ ruộng về nhà dễ dàng hơn. Lịnh của triều đình cấm ngặt không được khẩn vào phần đất hiện có người Cao Miên làm chủ. Núi  Sam, gần Châu Đốc nối liền vào chợ với con lộ đắp đất. Làng Vĩnh Tế thành lập (gọi là Vĩnh  Tế Sơn thôn, làng ở núi Vĩnh Tế tức là núi Sam). Thoạt Ngọc Hầu tỏ ra xứng đáng, làm  đúng lời dụ mà vua Minh Mạng đưa ra vào năm thứ hai (1821) “Châu Đốc là một vùng xung yếu, nhà ngươi phải khéo léo trong mọi trường hợp, trấn an phủ dụ nhân dân địa phương.  Trước hết phải chiêu mộ dân buôn, xây dựng xóm làng, làm cho đinh số hộ khẩu ngày càng  tăng, ruộng đất ngày càng được khai khẩn thêm”. Thoại Ngọc Hầu mất năm 1829, thống  chế Nguyễn Văn Tuyên thay thế, rồi năm 1832 người lãnh bảo hộ Chân Lạp, giữ đồn Châu  Đốc là Ngô Bá Nhân. Tính đến năm Minh Mạng thứ 19 (1838), dọc theo kinh Vĩnh Tế qua  phía Thất Sơn, các thôn sau đây thành hình, lần hồi dân chúng xin khẩn thêm đất, đa số là vu đậu thổ, tức là đất làm rẫy:

-  Vĩnh Tế Sơn thôn (từ Châu Đốc vào)

-  Nhơn Hòa thôn

-  An Qů thôn

-  Thân Nhơn thôn (giữa An Qů và Vĩnh Bảo)

-  Vĩnh Bảo thôn (giữa Thân Nhơn và Long Thạnh)

-  Long Thạnh thôn (giữa Vĩnh Bảo và Vĩnh Nguơn)

-  Toàn Thạnh thôn (giữa Nhơn Hòa và An Thạnh)

-  Vĩnh Gia thôn (giữa Vĩnh Điền và Vĩnh Thông)

-  Vĩnh Lạc thôn (giáp với An Nông)...

Từ biển Nam Hải trở lên Châu Đốc, tức là hữu ngạn sông Hậu giang có vài khu vực  đáng kể không chịu ảnh hưởng nước lụt. Vùng Ba Thắc, Sóc Trăng đã có người Miên khai khẩn từ lâu rồi. Phía Sóc Trăng từ đời Gia Long thấy ghi làng Tân An (rạch Cần Thơ), làng  Thới An (Ô Môn), làng Thới Thuận, Tân Thuận Đông (vùng Thốt Nốt), làng Bình Đức ở rạch  Long Xuyên, làng Bình Lâm ở Năng Gù. Làng này cách làng kia hàng chục cây số, nằm trên  các vùng đất gò, đất giồng. Các thôn xóm này đều bám sát vào bờ Hậu giang. Cù lao ngoài bờ sông cái thì phì nhiêu hơn: ven cù lao là đất cao ráo, thích hợp để trồng khoai, trồng đậu.  Nhìn các bản đồ kèm theo đơn xin khẩn đất đời Minh Mạng ở vùng này, ta thấy đa số đồng  bào khẩn theo lối móc lõm, ở ngọn, ở ngay ngả ba rạch. Đông đúc nhất là vùng Năng Gù,  Chắc Cà Đao, đất khẩn liên ranh nhau. Tiếp giáp vào phần đất làm ruộng làm rẫy là đất  lâm (ở vùng mé sông là rừng tre, thanh trúc lâm). Vì là bờ sông cái nên chim cò bay tới lui, đáp xuống bãi sông, tre chịu được ngập lụt hằng năm mà không chết. Ta có thể đoán rằng  mực nước ở đồng ruộng vùng Cần Thơ, Thốt Nốt, Ô Môn hồi đời Minh Mạng tương đối cao  hơn bây giờ. Vào mùa lụt (bấy giờ chưa có nhiều kinh đào đổ nước ra vịnh Xiêm La như sau  khi người Pháp đến).

Rạch Cần Thơ nổi danh là phì nhiêu, đất tốt, không bị ngập. Vùng Cái Răng trở thành  làng vào đời Minh Mạng rồi phát triển thêm. Năm Minh Mạng thứ 15 (1834), làng Thường  Thạnh của Cái Răng tăng thêm dân cư, tách ra một làng mới lấy tên là Trường Thạnh.

Rạch Bò ót được dân khẩn hoang chú ý.

Rạch Cái Côn đã có làng từ đời Gia Long (làng Phú Mỹ), ấy thế mà năm Minh Mạng  thứ 19 (1838) còn đến năm khoảnh rừng rậm hoang vu. Làng Bình Mỹ cũng thành lập từ đời Minh Mạng, ăn tới rạch Cái Dầu. Vùng Thốt Nốt, đời Gia Long chỉ có làng Thới Thuận,  qua Minh Mạng thêm các làng Tân Thuận Đông, Vĩnh Trinh.

Những làng vừa kể trên trở thành phần đất của các tổng mới lập: Châu Phú, Định  Thành, Định Phước, thuộc huyện Tây Xuyên (có nghĩa là bờ phía Tây của Hậu Giang). Từ  Cần Thơ trở xuống thuộc về huyện Vĩnh Định với các tổng Định Thới, Định An, Định  Khánh. Phía Sa Đéc, vùng Cái Tàu Thượng, Cái Tàu Hạ, Nha Mân và những cù lao trên  Tiền giang đã đông đúc dân cư từ đời Gia Long. Đời Minh Mạng còn lưu lại vài văn kiện xác nhận việc xúc tiến khẩn hoang ở huyện Vĩnh An, với nhiều đơn xin khẩn đất:

-  Năm Minh Mạng thứ 12, khẩn thêm ở các thôn Tân Dương, Tân Đông, Tân Phú  Đông, Phú Mỹ, Tân Hòa, Tân Quý, Tân Thuận.

-  Năm Minh Mạng thứ 19 và 20, khẩn thêm ở các tổng An Thới, An Thạnh, An Mỹ, An  Trường, những vùng Nha Mân, cù lao Tòng Sơn, rạch Cái Vồn được chú ý nhứt.

Từ đời Minh Mạng về sau, phần đất phì nhiêu, nhiều huê lợi của An giang vẫn là phía Tiền giang với Sa Đéc và các vùng phụ cận.

Việc lập làng -  Sự phân chia điền địa

Vua Minh Mạng đặc biệt khuyến khích việc lập ấp ở vùng Châu Đốc. Năm 1830, thành thần trấn Gia Định tâu: Hạt Châu Đốc là vùng biên cương mới mẻ, ruộng đất chưa được khai khẩn hết, xin triển hoãn việc thâu thuế. Vua phán: “Đó là vùng biên giới quan trọng  của quốc gia, trẫm muốn vì nhân dân mà gìn giữ cho nên phải đặc biệt chú ý tới việc cai trị. Đó chính là kế hoạch biên phòng. Còn vấn đề thuế khóa đinh điền, đâu phải là việc cần tính  toán trước”. Rồi ngài cho miễn thuế ba năm. Ba năm sau, thành thần Gia Định tâu xin thâu thuế. Ngài ra lịnh: “Những xóm làng tân lập được miễn thuế thêm ba năm nữa. Riêng thuế thân, thuế điền thổ được hoãn thêm một năm nữa”. Một tài liệu khác cho biết thêm con số:  đồn Châu Đốc mới lập được 41 xã, thôn, phường; dân đinh chỉ mới được hơn 800 người.  Nhưng năm sau (1831), Tổng trấn Gia Định thành lại tâu với lời lẽ bi quan: “Đồn Châu Đốc  xã dân mới thiết lập, địa thế ruộng đất khó khai khẩn”. Vua cho bộ Hộ biết: “Đồn ấy là nơi  địa đầu quan yếu, ta đã từng xuống chỉ chiêu tập dân buôn bán, cho vay tiền gạo để lập ấp  khẩn điền, quây quần sinh sống. Đó là ý niệm quan trọng của ta trong việc củng cố vùng  ngoại biên cương. Nhất sơ việc khai khẩn còn khó khăn nên đã được triển hạn nhiều lần.  Năm ngoái đây, quan trấn thành đã có lời xin, lần thứ hai trẫm đã khoan miễn cho ba năm  tiền dung (tiền xâu) cùng dịch vụ, và đã phán bảo phải dùng nhiều phương pháp để chiêu  dụ thu nạp, để cho đồng áng ngày càng mở mang, sinh sống dồi dào, đã hơn một năm nay  mà vẫn chưa thấy thi thố phát triển điều gì, liền vội cho là vì tình trạng khó khăn. Đó phải chăng là lối làm việc tắc trách cho xong chuyện? Nay truyền chỉ cho thành thần (quan trấn  Gia Định) phải nghiêm sức các công chức của đồn phải tất tâm thi thố, hầu làm cho đất  rộng đông dân, hạn đúng ba năm phải có đủ hồ sơ về triều đình khen thưởng, không thể đổ  cho là tại tình hình khó khăn mãi được”.

Vua quan tâm đến vấn đề biên giới Châu Đốc, và tiên đoán những rắc rối sắp xảy ra giữa Việt Nam và Xiêm La, không riêng ở mặt trận Cao Miên mà còn ở cả mặt trận Lào.  Ngài muốn quy dân gần như vô điều kiện, miễn thuế hai đợt.

Hai năm sau, cuối năm 1833, quân Xiêm tràn qua.

Làng ấp ở vùng kinh Vĩnh Tế và Thất Sơn lúc bấy giờ thành lập với quy chế dễ dãi, như trường hợp làng Phú Cường, tách ra từ làng An Nông. Năm Minh Mạng thứ 12 (1831),  vào tháng 3, Trương Văn Nghĩa đứng đơn, xin khẩn vùng đất hoang từ núi Chân Tầm Lon  tới núi Trà Béc, bấy lâu thuộc làng An Nông. Lúc đầu, Trương Văn Nghĩa và đồng bọn 11  người đến khai phá, sau chiêu mộ thêm được 4 người nữa, đã có nền tảng để lập làng mới  lấy tên là Phú Cường. Cả bọn xin đến năm thứ 17 (1836) sẽ đóng đủ thuế, khi mộ được thêm  dân và lập hộ. Đơn được phú hồi cho Tuy Biên phủ để tra khám và chuẩn cho vào tháng 11,  năm Minh Mạng thứ 15 (1834). Qua văn kiện trên, ta thấy việc cứu xét kéo dài từ 1831, khi Trương Văn Nghĩa khẩn đất, xin sẽ lập bộ và đóng thuế; quan địa phương thâu đơn, chờ đến  ba năm sau mới chánh thức chấp nhận. Trong thời gian chờ đợi, bọn người khẩn hoang tha hồ làm ăn, khỏi đóng thuế, khỏi khai báo gì cả.

Làng Trường Thạnh tách ra từ làng Thường Thạnh, rạch Cái Răng (Cần Thơ) lập vào  năm Minh Mạng thứ 15 (1834) do hai người đứng đơn. Làng tân lập này gồm 8 người dân có  tên trong bộ làng Thường Thạnh, 8 người dân lậu và một niên lão 67 tuổi. Họ chịu đóng  thuế 5 khoảnh đất, hạng sơn điền (thuế nhẹ). Đây là vùng có an ninh, đất tương đối tốt,  cách xa Châu Đốc hàng trăm cây số ngàn, nên không thấy ghi những điều khoản dễ dãi  dành cho vùng biên giới.

Sử thường nhắc tới việc cho phép tù nhân đi khẩn hoang. Chúng tôi gặp tài liệu về một  hộ thợ săn, tập trung thợ săn thú rừng, gọi là “Thuộc Tỉnh Biệt Nạp Lạp Hộ” được hưởng  quy chế của một làng, nhưng không có đất đai. Cầm đầu là Hộ trưởng tên Nguyễn Văn  Luật, người ở kinh Vĩnh Tế, 55 tuổi. Hộ trưởng phải chịu trách nhiệm về thuế vụ cho 7  người do ông ta bảo lãnh, thuế đóng bằng ngà voi, 150 mỗi năm. Gia nhập hộ thợ săn, có  mọt người quê ở Cái Thia (Định Tường), 1 người ở vùng Chợ Gạo (Định Tường), đặc biệt là 1 người quê ở Vĩnh Tế can tội đồng lõa ăn cướp, đang bị phát vãng (lưu đày) lên Trấn Tây  (Cao Miên) để làm đồn điền binh.

Về sự phân chia đất sai, đặc biệt là vùng Thốt Nốt, nhiều điền chủ khẩn đất rộng tới 26, 28 hoặc 60 mẫu, trong khi tính trung bình mỗi phần đất của dân khẩn hoang là 2 hoặc 3  mẫu. ở đất tốt mé sông Cái hoặc cù lao, việc phân khoảnh nhỏ bé hơn, trung bình từ 1 đến 2 mẫu.

Mãi đến năm Minh Mạng thứ 19 (1839) tỉnh An Giang vẫn còn được triều đình nâng  đỡ so với các tỉnh khác. Tỉnh thần dâng bộ sổ, ghi rõ số dân đinh, vì dân đinh có phần tăng,  nên xin tăng thêm ngạch lính giản. Vua xuống dụ rằng: Hạt ấy lâu nay mong được dìu dắt  dạy dỗ, hộ khẩu mỗi năm một tăng, nay lại nhân được thái bình nên cùng với dân nghỉ ngơi,  khiến cho cùng lo việc cày cấy, đào giếng mà an nghiệp, để dân chúng ngày càng thêm đông  đảo, thịnh vượng, hà tất phải xin thêm ngạch lính giản làm chi. ý vua muốn nói tới việc xâm  lăng của Xiêm mà vùng Châu Đốc hứng chịu hậu quả nặng nề nhất, trong thời gian vừa  qua...

Vài vấn đề nội an: Loạn Lê Văn Khôi. Các vùng người Miên đông đảo

Tháng 7 năm 1832, Tả quân Lê Văn Duyệt, Tổng trấn Gia Định thành mất. Vì có thù hằn lâu đời với Tả quân, vua Minh Mạng thừa cơ hội này đưa toán vệ binh Minh Nghĩa về  Quảng Ngãi. Sau khi chôn cất Tả quân xong, vua Minh Mạng còn ra lịnh đưa cơ An Thuận  về Kinh. Tháng 10 năm ấy, Gia Định thành không còn là đơn vị quan trọng nữa. Vua bãi bỏ chế độ Tổng trấn, tất cả đổi là tỉnh, trực thuộc vào triều đình Huế. Tháng 11 năm ấy, vua  cho nguyên Tổng đốc tỉnh Sơn Tây là Lê Đại Cương làm Tổng đốc An Hà kiêm lãnh ấn Bảo  hộ Chân Lạp.

Việc thuyên chuyển một viên chức từ Sơn Tây vào Nam không là điều lạ nếu ta biết rõ chính sách của vua Minh Mạng là triệt hạ uy thế và nhân tâm mà Tả quân Lê Văn Duyệt  đã gây được ở kinh Vĩnh Tế do ngài đốc xuất đào ra trong hoàn cảnh khó khăn. Tỉnh An  Giang chánh thức thành hình với hai phủ Tuy Biên và Tân Thành, năm 1835 lấy thêm đất  Ba Thắc lập thành phủ Ba Xuyên. An Giang chiếm trọn miền hữu ngạn của Hậu giang,  phía Bắc thì gồm luôn vùng Vĩnh an (Sa Đéc) cắt ra khỏi trấn Vĩnh Thanh lúc trước.

Lê Văn Khôi nổi loạn, thành công nhanh chóng trong đợt đầu, chiếm lần hồi 6 tỉnh,  nhưng giữ không được lâu. Dân chúng tuy mến một công đức Tả quân Lê Văn Duyệt, nhưng  cá nhân Lê Văn Khôi không đủ uy tín. Hơn nữa ngày qua tháng lại, dân chúng thấy Lê Văn  Khôi không tin vào dân trong nước, lại còn trực tiếp hoặc gián tiếp làm việc cõng rắn cắn gà nhà.

Lê Văn Khôi có chút ít tinh thần tiến bộ, chống lại chế độ tập quyền hà khắc của vua Minh Mạng? Một tài liệu cho biết là khi được hỏi về ruộng nương và tình hình an ninh tại  các tỉnh, tỉnh thần Vĩnh Long tâu rằng: “Trước đây bọn giặc (Lê Văn Khôi) chiếm cứ tỉnh  thành, các thôn ấp đều bị chúng đốt phá rồi chúng còn chiếu theo nóc nhà dân, đem tiền  trong kho ra tán cấp đến hơn một ngàn quan, nay dân tình nguyện y số đem nạp lại”. Vua ra lịnh miễn cho. Việc lấy tiền trong kho chia đều cho dân, lúc đang xảy ra, chắc là được dân  hoan nghinh. Và dân đem nộp lại cho quan khi bọn phản loạn bị dẹp, chưa chắc vì tình  nguyện, vì sợ đúng hơn.

Loạn Lê Văn Khôi chỉ là một trong những mối lo sợ của vua Minh Mạng, vì lúc bấy giờ  ở Bắc kỳ loạn lạc nổi lên với cường độ đáng kể, lý do chánh là nạn đói kém, là quan lại tham nhũng. Nhưng cuộc khởi loạn Lê Văn Khôi tạo cơ hội cho quân Xiêm đánh ta trong đó có  mặt trận Lào, riêng mặt trận An Giang là quan trọng hơn cả.

Từ lâu, vua chúa nhà Nguyễn lo lắng về các vùng người Miên định cư tập trung, nhiều  nhứt là ở địa phận trấn Vĩnh Thanh ngày xưa:

-  Vùng Trà Ôn được yên ổn nhờ có Nguyễn Văn Tồn (một người Miên hữu công, trong  thời gian phục quốc, được mang họ Việt Nam) nắm được nhân tâm. Nguyễn Văn Tồn chết,  con là Nguyễn Văn Vị được trưng dụng và có ra tận Huế đô bái kiến vua.

-  Vùng Lạc Hóa (Cầu Kè, Tiểu Cần). Năm 1835 đặt ra xã thôn, tùy theo sốc lớn nhỏ,  quan đến tận nơi khám xét, để định rõ thuế khóa.

-  Vùng Ba Thắc (Sóc Trăng, Kế Sách). Vua Gia Long khi còn ở đất Gia Định thì cho  người Miên ở địa phương lập đồn điền mỗi năm nạp lúa sưu thuế. Năm 1792, Nặc ấn ở Xiêm  về, vua đem đất ấy cho lại; năm 1835, các quan lại người Miên ở địa phương yêu cầu ta giúp đỡ, vua Minh Mạng cho người Miên hưởng chế độ tự trị rộng rãi với quan phủ coi việc  nội an, mãi đến khi người Pháp đánh nước ta, quan phủ vẫn là người Miên.

-  Vùng Ô Môn (phía bắc Cần Thơ) là nơi người Miên tập trung đáng kể. Về sau, họ  phân tán, rút về phía hậu bối, xa bờ Hậu giang (Đại Nam Nhứt thống chí ghi là “thổ huyện  Ô Môn”).

-  Vùng chợ Hà Tiên, rạch Gianh Thành, vùng Thất Sơn là những trung tâm gần biên  giới, nơi mà vấn đề an ninh không được toàn hảo, mặc dầu triều đình đã chú ý từ đời Gia  Long, Hà Tiên đất nhiều phèn, quá xấu, trừ vài lõm nhỏ ở sườn đồi mà người Trung Hoa đến làm rẫy, người Việt đến đánh cá ven biển. Vị trí chợ Hà Tiên tuy “tốt” về phong thủy,  trên lý thuyết, nhưng quân Xiêm đánh chiếm chớp nhoáng. Người Miên ở Thất Sơn và ở Hà  Tiên thường liên lạc với họ, hễ cơ hội đến là nổi loạn, vào cuối đời Minh Mạng. Năm 1835,  theo lịnh nhà vua, tuần phủ Trần Chấn lập đồn điền ở núi Đá Dựng (chữ gọi là Châu Nham) sát biên giới, binh sĩ vừa cày ruộng, vừa luyện tập.

Chánh sách của vua Minh Mạng đối với người Miên (luôn cả người Lào, người  Mường...) là “nhứt thị đồng nhân” (xem tất cả cùng là người), nghe qua thì như là dân chủ,  nhưng thực chất là muốn bắt buộc các sắc dân phải theo luân lý, theo cách tổ chức thôn  xóm, cúng tế của Việt Nam và Tàu, lại buộc lấy họ (như họ Sơn, Thạch, Kim, Kiên...)

Biến cố quân sự ở An Giang và ở Cao Miên

Tháng 6, Lê Văn Khôi nổi loạn thì tháng 11 quân Xiêm đem binh đánh nước ta (1833),  bề ngoài như để cứu Lê Văn Khôi nhưng bên trong là quân Xiêm chọn lựa đúng thời cơ để  thủ lợi. Quân sĩ ta lúc bấy giờ bị tiêu hao và bị cầm chân khá nhiều, một số vào trong thành  Phiên An theo Lê Văn Khôi, một số thì bao quanh chờ cơ hội tái chiếm.

Trong đợt tấn công đầu tiên, quân Xiêm làm chủ tình thế, tướng Xiêm chỉ huy cuộc  hành quân cấp tốc này là tay có tài, tên là Phi Nhã Chất Tri (sử gia Tây phương gọi là tướng Bodin, Phi Nhã chỉ là chức tước). Tháng 11 năm 1833, Hà Tiên mất, tháng 12 thành  Nam Vang rồi đến đồn Châu Đốc cũng mất theo.

Nhưng vua Minh Mạng bình tĩnh đối phó, bố trí cẩn thận và giữ bí mật. Quân Xiêm  thừa thắng, từ Ba Nam cho chiến thuyền đổ xuống theo Tiền giang. Đây là con đường chiến  lược vô cùng quan trọng, nếu cứ tiến thêm thì đến Sa Đéc, rạch Gầm, Định Tường, thọc vào  trung tâm miền Nam, nơi nhà cửa đông đúc, nhiều tài nguyên.

Quân ta liền phản công. Tại Tiền giang, nơi Vàm Thuận (sử ghi là Thuận Cảng, Thuận  Phiếm cửa của Vàm Nao phía Tiền giang) ta chiến thắng. Giặc phải dừng lại rồi tạm rút lui về Ba Nam với dụng ý đánh theo đường bộ đến Tây Ninh, nhưng mặt trận này không mở ra được.

Vài mươi ngày sau, qua tháng giêng năm 1834, thủy quân Xiêm lại theo đường cũ, đến  vùng mà chúng đã thu hôm nọ để quyết chiếm yết hầu Tiền giang, đến Vàm Thuận không  thấy gì xảy ra, chúng thử tiến thêm đến rạch Củ Hủ (vùng chợ Thủ). Khi ấy, giặc nhân lúc  nước xuống, theo bờ sông phóng hỏa đốt bè, ngăn trở thủy quân ta rồi chúng lại sấn tới  đánh, Quản vệ Phạm Hữu Tâm đốc binh đánh từ giờ Dần đến giờ Tỵ, quân giặc chết nhiều, thây chồng nhau, giặc liền lui. Đây là trận đánh kéo dài từ ba bốn giờ khuya đến chín mười  giờ trưa, giặc chết nhiều, thây chồng lên nhau. Trận này khiến ta nhớ tới trận rạch Gầm ở  dưới Mỹ Tho vào năm 1784 Nguyễn Huệ đã thắng quân Xiêm. Từ Vàm Thuận đến chợ Thủ  thuộc huyện Đông Xuyên, tỉnh An Giang, bao nhiêu tàn phá diễn ra. Nhưng quân ta lại  thừa thắng thâu phục đồn Châu Đốc, thâu phục thành Hà Tiên rồi chiếm thành Nam Vang  từ tay quân Xiêm.

Giặc Xiêm đồng thời cũng đánh ta theo mặt Quảng Trị và Nghệ An trên đất Lào,  nhưng bị chặn lại.

Ta rượt theo đến vùng Biển Hồ (Tonlé Sap) tận căn cứ địa của quân Xiêm. Cũng năm  1834 này, vào tháng tư, Trương Minh Giảng (bấy giờ là Tổng đốc An Giang, Hà Tiên) từ  Nam Vang trở về ra lịnh tu bổ đồn Châu Đốc, rồi nghĩ đến việc dời tỉnh lỵ Hà Tiên qua phía Giang Thành (xa bờ biển, dễ phòng thủ hơn). Vừa lúc ấy, lại hay tin quân Xiêm cũng do Phi  Nhã Chất Tri cầm đầu đang kéo qua Cao Miên với lực lượng là 5000 quân. Quân ta đến nơi  trấn áp, đóng đồn tại Vũng Xà Năng (Kompong Chnang).

Năm thứ 16 (1835), vua Minh Mạng cho đổi đồn An Man ở Nam Vang làm thành Trấn  Tây, định chế độ cai trị, đứng đầu là một vị tướng quân, hai vị tham táng, quan lãnh binh, quan đồn điền. Việc này chỉ gây thêm mệt nhọc cho quân dân ta. Từ năm trước, nước Chân  Lạp bị đói kém đến đổi có người phải ăn các thứ tấm cám nên phải xuất ra từ các kho hai  tỉnh Định Tường và Vĩnh Long chở lên Cao Miên một vạn vuông gạo để phát chẩn cho dân  khỏi xiêu tán.

Chánh sách đồn điền được ban hành ở Trấn Tây, người đi đồn điền gồm tù phạm của  Nam kỳ lục tỉnh. Ai trốn về thì bị tập nã gắt gao. Theo lời Trương Minh Giảng năm 1839 thì ở Trấn Tây, dân tâu của Việt chiêu tập thành lập được 25 xã thôn, với 470 dân binh, 340  mẫu điều, theo quy chế thì ba năm sau mới đóng thuế. ở Trấn Tây, người Tàu cư ngụ khá đông, số người có sản nghiệp là 220, xin thành lập 5 bang.

Năm 1837, Trương Minh Giảng mở rộng thêm ảnh hưởng, lấn sát vùng mà người Xiêm  chiếm đóng ở Biển Hồ. Biển Hồ (Tonlé Sap) được gọi là Hồ Hải (vì hình dáng có eo giống như cái bầu đựng rượu). Đây là khu vực nhiều huê lợi. Trương Minh Giảng xin lập ba phủ Hải Đông, Hải Tây và Sơn Định ở phía đông, phía tây Biển Hồ và ở núi Đậu Khấu (dãy Cardamomes), đồng thời lập đồn điền, tập lính, trử lương, cho người Việt và người Miên đến  khẩn hoang, tìm cách dạy tiếng Việt, dạy chữ cho người địa phương để việc cai trị được dễ  dàng.

Một ngàn người Xiêm trốn khỏi vùng quân Xiêm kiểm soát để theo ta năm 1837; năm  1839 dân Miên ở vùng Battambang do Xiêm kiểm soát cũng trốn về, tạo thêm nhiều gánh  nặng cho quan quân đến bảo hộ, như cấp phát gạo muốn cho họ. Nhưng một số người Miên  thích nếp sống lưu động. Vua Minh Mạng bắt buộc họ phải có gia cư để dễ lập số bộ. Lính  Miên thì chia nhau cày ruộng, phân nửa ở tại ngũ, phân nửa về quê, mỗi năm chỉ tập trung  đầy đủ vào tháng mười, mùa nắng. Lúa gạo sản xuất ở Cao Miên lúc bấy giờ không đủ cung  cấp cho việc binh, vua Minh Mạng hiểu thị cho dân sáu tỉnh Nam kỳ: Ai nạp lúa xay gạo để  làm quân nhu lên thành Trấn Tây thì được thưởng phẩm hàm, miễn thuế thân, miễn đi lính  và làm xâu, ai cấp 2500 hộc lúa thì được thưởng chánh cửu phẩm.

Cuối đời Minh Mạng (1840) xảy ra cuộc tranh tài giữa Phi Nhã Chất Tri và Trương  Minh Giảng. Nếu từ lâu Trương Minh Giảng thắng thì phen này lần hồi lâm vào thế yếu.  Nhân tâm ở Cao Miên lúc bấy giờ rất bất lợi, loạn lạc nổi lên đối phó không kịp, phần lớn do  các quan của ta cai trị không công bình lại thêm tham nhũng.

Việc đóng quân ở Cao Miên có thể tạm tổng kết như sau:

-  Về chánh sách, vua chúa phong kiến Việt Nam cũng như Xiêm là cứ luôn luôn mở mang bờ cõi. Đất Cao Miên là nơi tranh chấp. Đánh qua Cao Miên, đưa các quan cai trị là phiêu lưu, nhưng thử hỏi nếu không làm việc ấy để cho Xiêm chiếm đóng ở Cao Miên sát  Châu Đốc, Hà Tiên, sát Tây Ninh, liệu lãnh thổ ta có được yên ổn, vẹn toàn? Đây là cuộc tấn công để phòng ngự.

-  Về quân sự, khi nào quân Xiêm tiến vào lãnh thổ của ta thì họ thua. Hễ nắm vững  đường thủy chiến lược từ Nam Vang đến Tân Châu là ta thắng. Cứ điểm quan trọng nhứt là Ba Nam (Ba Cầu Nam) trên sông Tiền giang. Ngược lại, khi nào quân ta phiêu lưu đến  vùng Biển Hồ, sát căn cứ của quân Xiêm La là ta bị khó khăn, nếu không nói là thua.  Nguyễn Công Trứ từng dẹp giặc Nồng Văn Vân ở Bắc kỳ đã dâng sớ và so sánh: So với sự thế đảng giặc Nồng Văn Vân thời việc dẹp yên giặc Thổ (Cao Miên) này hơi khó mà chậm...  Nay, giặc Thổ dậy khắp nơi, trong chỗ hoang mảng, trông bốn mặt đều là tre gai rậm rạp, nước sâu bùn lầy, không phải như cây lớn, núi cao có thể đốn phá tìm đường đi băng được...  Huống chi đường đem lương từ Trấn Tây (Nam Vang) đến chỗ quân thứ, một lần đi tám  ngày đường mà chỉ đủ ăn một tháng... Chúng tôi trộm nghĩ trước phải đánh được giặc Xiêm  rồi sau đó giặc Thổ mới dẹp yên được.

Tình hình năm 1840 thật bi đát. Cũng theo lời tâu trên của Nguyễn Công Trứ, thời bấy  giờ từ An Giang đến Trấn Tây, từ An Giang đến Hà Tiên, quân giặc đóng đồn cả.

-  Về chính trị, có sự kỳ thị rõ rệt, nhưng nặng nhứt là vì lý do văn hóa. Người Cao  Miên chịu ảnh hưởng văn hóa ấn độ với những tập tục địa phương, thích sống rày đây mai đó. Vì còn tàn tích mẫu hệ, việc cưới gã của người Miên hơi khó hiểu, không giống người  Việt theo phụ hệ, vì vậy bị hiểu là loạn luân. Cách mặc, cách ăn (ăn bốc, mặc sà rong) của người Miên không hợp với cảm quan của nho sĩ Việt, cùng là tục lệ hỏa thiêu. Ngay đến đạo  Phật, người Miên theo hình thức Tiểu Thừa, nghĩa là khác với cách tụng niệm, cách ăn uống của chùa theo Đại Thừa. Và quyền hạn của giai cấp tăng lữ ở Cao Miên cũng khá rộng. Quan lại Cao Miên, dưới thời đô hộ của vua Minh Mạng phải mặc áo, đội mão như quan lại Việt Nam. Từ việc tuyển chọn quan lại, cách thu thuế, nói chung công việc hành  chánh ở Cao Miên ngày xưa rất khác với Việt Nam. Doãn Uẩn viết trong Trấn Tây Kỷ Lược:  Họ cũng chưa biết đạo dựng nước, ta chỉ còn mong ở sau này ngày càng củng cố mở rộng thêm chánh thể duy tân dần, chắc sẽ không còn phác lậu như trước nữa vậy.

Trong khi ấy, giới bình dân Việt Nam và người Miên sống chung đụng nhau dễ dàng.  Lúc canh tác, bắt cá, chế biến thức ăn, ta cũng bắt chước vài kỹ thuật của người Miên; việc  người Việt cưới vợ Miên không phải là không có.

Lập địa bộ năm Minh Mạng thứ 17 (1836)

Đây là lần đầu tiên mà ở đất Gia Định lập địa bộ với quy mô lớn, lưu lại bằng chứng cụ  thể. Mỗi thôn vẽ bản đồ các sở đất, loại đất, diện tích, ranh giới bốn phía, ghi tên chủ điền. Lịnh vua ban ra vào tháng 2, phái đoàn này do Trương Đăng Quế cầm đầu, với Nguyễn Kim Bảng, cả hai đều sung chức Kinh lược đại sứ (nhưng Nguyễn Kim Bảng mang bịnh, Trấn  tây đại tướng là Trương Minh Giảng thay thế). Trương Đăng Quế là Binh bộ Thượng thư,  Nguyễn Kim Bảng là Lại bộ Thượng thư. Hai vị Phó sứ là Tôn Thất Bạch và Nguyễn Khắc  Trí. Tháng 7 năm ấy, phái đoàn trở về, công tác hoàn thành. Vua ban thưởng và xuống dụ cho nội các: Trương Đăng Quế là người công bằng vô tư nên việc làm đến chỗ thành tựu,  đúng như mệnh lệnh của trẫm, tuy không thể sánh với việc đi dẹp biên cương, mở rộng bờ cõi được phân minh, so với việc mở đất đai cho rộng biên giới có khác gì?

Sử chép tiếp: Sau đó 6 tỉnh Nam kỳ không phải tăng thuế ruộng mà tiền tài vẫn bội  thu. Thuế điền thổ Nam kỳ được định lại, sau khi đạc điền. Kết quả là tăng thuế cho công quỹ, nhưng người khẩn đất chịu thiệt thòi nhiều là không được giữ ruộng đất ẩn lậu như trước.

Năm 1836 rồi 1839, vua Minh Mạng quy định về thể lệ thưởng phạt dành cho các viên  chức địa phương, đất khẩn thêm thì thưởng, bỏ hoang thì phạt. Hậu quả đi tới đâu? Việc  đạc điền có lẽ đã làm cho dân khẩn hoang mất hào hứng phần nào, vì thuế vụ. Năm 1837,  liền sau khi đạc điền và ban hành lệ khen thưởng, theo báo cáo của “các tỉnh Hà Tiên, Vĩnh  Long, Định Tường thì con số khẩn thêm không được bao nhiêu, riêng tỉnh Biên Hòa lại càng thấy vắng vẻ. Đến như Gia Định An Giang tới nay vẫn còn chưa tâu báo... Làm việc không  đứng đắn như vậy thiệt nên trị tội xứng đáng... Hãy dặn Tổng đốc, Tuần phủ, Bố chánh, án sát mấy nơi ấy nhắc nhở các phủ huyện sở tại hãy hết lòng khuyến khích, làm cho nông dân  vui vẻ quay về việc nông, đem những ruộng đất hoang phế trong hạt mà khai khẩn cho hết”.

 


Chương 1.3. Nhu cầu chỉnh đốn về nội trị

Những đồn điền chiến lược ở Hậu giang

Vua Minh Mạng mất, để lại gánh nặng ở phía biên giới Việt Miên. Loạn lạc đã phát  khởi ngay từ khi cuộc chinh phạt của tướng Trương Minh Giảng đang diễn ra tại phía Biển  Hồ, tuy rằng về hình thức là dẹp xong nhưng mầm mống còn đó. Người Miên cư ngụ trên  lãnh thổ Việt Nam dường như sẵn sàng hưởng ứng, chống đối quan lại địa phương khi ở Cao  Miên phong trào lên cao. Quân Xiêm lại khéo phao tin tuyên truyền. Người Cao Miên lúc  bấy giờ ở Nam kỳ lại bực dọc với chính sách “nhứt thị đồng nhơn” của vua Minh Mạng, bắt  buộc họ phải lấy tên, lấy họ như người Việt để đồng hóa. Lại còn chủ trương cải cách tổ chức  nông thôn cổ truyền của sốc Miên khiến họ mất quyền tự trị. Vùng biên giới Hà Tiên, An  Giang bắt đầu xáo trộn khi vào năm 1838, tên Gi -  làm chức An phủ cho ta -  cấu kết với người Xiêm. Năm sau, viên quản cơ người Miên ở An Giang là Hàn Biện cùng đồng bọn làm  phản rồi bỏ đi, một số đông lính Miên cũng chạy theo chúng như rồi một số quay trở lại. Vua truyền lịnh tha tội những người biết hối cải. Năm 1840, tình hình thêm bi đát: người  Miên ở Tịnh Biên (An Giang) nổi loạn khiến quan tri phủ bỏ trốn, loạn quân kéo về phía biên giới Hà Tiên đánh đồn Châu Nham (Đá Dựng), quan binh nhiều kẻ bị hại. Tháng 10  năm ấy, giặc từ Thất Sơn gồm hơn 2000 người kéo qua tận Kiên Giang, phá chợ Rạch Giá, đắp đồn ở hai bên bờ rạch này; vùng Xà Tón (Tri Tôn) cũng bị khuấy động. Năm Thiệu Trị  nguyên niên, tất cả các vùng người Miên sống đông đúc đều nổi loạn, quan quân vô cùng vất  vả. Ba khu vực quan trọng nhứt là:

-  Vùng Trà vinh (nay là Vĩnh Bình) bao gồm các khu vực rộng lớn từ Tiền giang qua  Hậu giang (Trà Vinh, Cầu Kè, Tiểu Cần, Cầu Chong), sử gọi là vùng Lạc Hóa. Cuộc khởi  loạn dai dẳng và có quy mô kéo dài từ tháng 3 đến tháng 10 năm 1841, người cầm đầu là Lâm Sâm (còn đọc Lâm Sum, người địa phương gọi là Xà Na Xom hoặc Xà Xom, tức là viên  tướng tên Xom). Thủ đoạn xách động là dùng bùa ngãi, do các tên thày bùa đưa ra rồi loan tin thất thiệt: Ai không theo chúng sẽ bị Trời Phật hại, ai theo thì được cứu thoát, võ khí là đao mác, chà gạc, phãng kéo cổ thẳng (trở thành cây mã tấu). Thoạt tiên loạn quân chiếm  Trà Vinh (đồn Nguyệt Lãng của ta). Giặc lại lôi cuốn được mấy sốc Miên ở rạch Cần Chong  (nay là Tiểu Cần) xuống đến Bắc Trang ra đến mé sông Hậu giang, vùng Trà Điêu. Có lúc  giặc thắng thế, chiếm giữ một vùng dài hơn 30 cây số, gồm toàn sốc Miên. Trận gay go nhất  xảy ra ở vùng Trà Tử (nay gọi là Hiếu Tử), bố chánh Trần Tuyênvà tri huyện Huỳnh Hữu  Quang đều tử trận. Số loạn quân lên đến bảy tám ngàn, ngoài Lâm Sum còn tên tổng Cộng  (chắc là cai tổng tên Cộng) và một tên tự xưng là phó mã Đội. Tham dự cuộc tảo thanh ở  vùng Lạc Hóa, gồm có tổng đốc Bùi Công Huyên, tham tánh thành Trấn Tây là Nguyễn Tấn  Lâm và Nguyễn Công Trứ cũng rút về nước tiếp tay, ngoài ra còn có tướng Nguyễn Tri  Phương. Nguyễn Tri Phương dời binh tiến đánh, tuy phá tan được luôn, nhưng chỗ này tan  rã thì chỗ kia quy tụ, cứ đánh phía đông, giữ phía tây, không thể nào diệt hết được. Khi Trương Minh Giảng rút lui về An Giang, ta được thêm 3000 quân sĩ đến tiếp ứng ở mặt trận  Lạc Hóa. Trong đám loạn quân đầu thú, có cả người Việt và người Tàu. Phải chăng là những người Việt trước kia theo Lê Văn Khôi, nay trốn lánh?

-  Vùng Sóc Trăng, trung tâm cuộc khởi loạn là Ba Xuyên, Trà Tâm, từ tháng ba cũng năm tân sửu. Thoạt tiên giặc bị phân tán rồi tập trung tại Sóc Đâm đóng đồn mà chống cự.  Tháng 11, quân của Nguyễn Tấn Lâm và Nguyễn Tri Phương đánh hai mặt giáp lại. Giặc tan, vua Thiệu Trị cho Nguyễn Tấn Lâm ở lại Ba Xuyên dẹp đám tàn quân và lập an ninh.  Theo truyền thuyết, lãnh tụ loạn quân ở đây là Xa Ne Tia.

-  Vùng Thất Sơn, Vĩnh Tế. Nếu Trà Vinh và Sóc Trăng nối liền nhau (bên này và bên  kia sông Hậu Giang), dân đông, kinh tế phì nhiêu, người Miên sống tập trung thì vùng Thất  Sơn lại là nơi mà người Miên dễ tấn thối và khuấy động, với hàng chục ngọn đồi lớn nhỏ,  nhiều thung lũng, dân cư thuần nhứt lại ở sát biên giới Cao Miên. Năm nguyên niên, giặc tụ tập tại Lẹt Đẹt, quân ta dẹp tan rồi đánh luôn tới Cần Sư. Phía Tịnh Biên cũng có loạn  vài ngàn tên, nhưng dẹp được. Nguyễn Tri Phương đến núi Tượng để đánh loạn quân. ở hai huyện Hà Dương và Hà Ñm, tình hình khuấy động. Hà Dương gồm vùng núi Cấm, núi  Tượng; Hà Ñm gồm các làng dọc theo biên giới bên kinh Vĩnh Tế. Sở dĩ loạn quân dám kiêu  ngạo vì bên kia biên giới, Phi Nhã Chất Tri “đem quân Xiêm đến dựng đồn lũy ở bờ sông  Vĩnh Tế rồi qua lại gây sự với những đồn bảo của quân ta. Quan binh bèn chia đường đi tiễu  trừ, giết và làm bị thương rất đông, chiếm lấy được bảy đồn, hai bên bờ sông Vĩnh Tế một  loạt được dẹp yên. Bọn giặc ở trong các đồn ở núi Cấm, núi Tượng nghe tin bèn chạy trốn.  Quân Xiêm gặp sự thất bại tan rã ấy muốn tăng thêm binh và chiến thuyền để trở lại một  lần nữa giúp dân Miên gây sự, vừa lúc ấy nước họ có việc nên ngưng.

Nhưng tình hình ở Cao Miên, Thất Sơn và kinh Vĩnh Tế chỉ là tạm thời lắng đọng.  Năm sau, cuộc xâm lăng đại quy mô lại diễn ra. Nếu lần trước chiến sự xảy ra tại Tiền  giang, từ Vàm Thuận đến Chợ Thủ thì lần này mặt trận chánh lại diễn ra ở vùng Thất Sơn  và kinh Vĩnh Tế.

Ngăn chận giặc Xiêm năm 1842

Trong khi nội loạn xảy ra ở Lạc Hóa (Trà Vinh) thì tình hình trên Cao Miên rất tồi tệ,  vua Thiệu Trị đồng ý với các đại thần là nên rút quân về An Giang, thật khéo và lặng lẽ. Voi đem về không tiện thì làm thịt cho quân sĩ ăn, những người Việt trước kia gồm đa số là tù phạm lên Cao Miên làm ăn thì lựa chỗ mà cho ở lại. Tháng 9 năm 1841, quân sĩ ta rút về  An Giang. Khi về đến nơi, tướng Trương Minh Giảng mất vì bịnh, nhưng lý do chánh là vì  buồn giận triều đình. Quân Xiêm không bỏ lỡ cơ hội, mở ngay cuộc xâm lăng vào lãnh thổ  Việt Nam. Lần này sự bố trí của Xiêm khá chu đáo, chiến thuật thay đổi hẳn. Lại còn một  yếu tố đáng chú ý: yếu tố chính trị. Đó là những người Việt đa số là tù phạm bị đày làm đồn  điền. Khi mới lên ngôi, vua Thiệu Trị đã nghĩ tới số phận của họ. “Nhưng trong xứ Trấn  Tây, giặc Thổ chưa yên mà những tên tù phạm khi trước can án phát quân hiện đương sai  phái ở đó, phải đợi khi yên giặc rồi sẽ nghỉ”. Bấy giờ ở Nam Vang có người con trai tự xưng  là con của hoàng tử Cảnh, lấy hiệu là Hoàng Tôn (có nghĩa là cháu nội vua Gia Long) đang  tụ tập một số đông gồm Xiêm, Lào, Hán (Việt Nam), Thổ, những đứa trốn tội cũng theo  nhiều lắm. Phải chăng trong số tù nhân bị phát quân lên Cao Miên, đời Minh Mạng, gồm  nhiều người can tội dính líu xa gần tới cuộc khởi loạn của Lê Văn Khôi, ở Sài Gòn và các tỉnh?

Đưa kẻ tự xưng là Hoàng Tôn về nước chỉ là một trong những lý do của quân Xiêm;  hành động chính trị này không gây được xúc động tâm lý đáng kể. Dù sao đi nữa, ta cũng  thấy Phi Nhã Chất Tri là kẻ tinh tế và đa mưu.

Tháng giêng năm 1842, chiến thuyền Xiêm đến vùng đảo Phú Quốc, tấn công để dò  xét. Nguyễn Công Trứ, người đã từng dẹp giặc Tàu Ô ở vịnh Hạ Long thử trổ tài, nhưng bị “sóng gió ngăn trở”.

Bọn Hoàng Tôn đưa 5000 người đến Sách Sô, thành phần toàn người Xiêm và Lào  (người Xiêm có thói bắt dân vùng bị chiếm làm nô lệ, làm lính). Sách Sô là vị trí quan trọng ở giữa Tiền giang và Hậu giang. Tướng Nguyễn Tri Phương nhận định rằng Tiền giang là con sông quan trọng ăn thông giữa trung tâm An Giang, Vĩnh Long và Định Tường, xin đem  binh thuyền bố trí sẵn.

Việc xảy ra nhằm lúc vua Thiệu Trị đang ra Hà Nội để nhận lễ thụ phong của sứ Tàu.

Tháng 2 quân Xiêm lại tăng cường hải quân, đến gần Cần Vọt (Quảng Biên, Kampot),  ta bố trí giữa tại cửa Hà Tiên (Kim Dữ). Rồi binh thuyền của Xiêm kéo tới Bạch Mã (Kép)  đông đảo hơn với ý định chiếm Lư Khê (Rạch Vược, phía nam Hà Tiên, bờ biển) và chiếm Tô  Môn (cửa Đông Hồ, bên cạnh núi Tô Châu) để bao vây Hà Tiên. Xiêm kéo mấy vạn binh  tràn vùng kinh Vĩnh Tế, ta chống đỡ không kịp. Cánh quân chánh của Xiêm đánh từ bờ biển vịnh Xiêm La qua theo đường Hà Tiên, chớ không từ Nam Vang mà thọc xuống theo  sông Tiền giang như mấy lần trước. Trước nguy cơ ấy, vua Thiệu Trị cho quân lực từ Huế kéo vào tăng cường, cùng với lính thú từ Quảng Nam, Quảng Ngãi. Đợt tấn công đầu tiên  của quân Xiêm bị chận lại, ở khắp các mặt trận Vĩnh Tế, Tiền giang và Hậu giang. Nhưng  quân Xiêm chưa rút lui, cho củng cố thành lũy, chiếm trọn vùng núi Cô Tô (Tô Sơn, thuộc  dãy Thất Sơn). Tháng năm năm ấy, ta kéo vào chiếm lại khu Cô Tô mà quân Xiêm vừa xây  dựng trên lãnh thổ của ta. Đây là nơi người Miên sống tập trung từ lâu đời. Binh ta gồm  năm đạo, mỗi đạo 1000 quân, đem súng lớn đặt tại Tri Tôn (Xà Tón) mà bắn phá lũy giặc.  Nguyễn Tri Phương đem đại binh đến núi Cô Tô, giặc tan, một số đông ra đầu thú gồm  người Tàu và người Miên có đến số ngàn. Vua Thiệu Trị sai Nguyễn Công Trứ điều động  việc lập ấp, khuyến khích khẩn ruộng. Nhưng ta tin rằng việc làm này không đi tới đâu cả,  đất ở chân núi từ lâu đã được người Miên canh tác, họa chăng các quan của ta chỉ lo chỉnh  đốn an ninh trong các sốc Miên.

Rồi ta kéo quân lên phía Nam Vang, truy nã. Tháng 7 năm 1845, giặc Miên lại đến bờ kinh Vĩnh Tế tại làng Vĩnh Điền, phá rồi Trường Lũy (Trường Lũy là bức trường thành mà  ta dựng lên, trồng tre gai, xa xa có đồn nhỏ dọc theo kinh Vĩnh Tế, khi Pháp đến còn di tích  này). Nhưng giặc bị đánh lui.

Năm 1845, ta thắng vài trận đáng kể. Đến lượt Nguyễn Tri Phương và Doãn Uẩn thi  tài với Phi Nhã Chất Tri. Ta tiến đến Vũng Long (Kompong Luông). Cao Miên nhìn nhận sự bảo hộ song phương của Xiêm và Việt Nam.

Thành lập các đồn điền chiến lược

Hậu quả những năm loạn lạc ở vùng An Giang, Trà Vinh, Ba Xuyên, Hà Tiên như thế nào? Chắc là trầm trọng lắm. Hễ loạn lạc là đốt nhà cướp của, bộ sổ mất mát, quan lại  tham nhũng, cường hào thổ mục tha hồ húng hiếp dân. ở những vùng người Miên sống tập  trung, việc bình định chỉ có nghĩa là gìn giữ được an ninh. Mầm mống bất mãn vẫn còn.  Vua Thiệu Trị mất năm 1847, ngài gánh tất cả những hậu quả của vua Minh Mạng để lại. Tình thế không suy sụp là nhờ tướng tài, giàu kinh nghiệm chiến trường và quân sĩ hết  lòng. Doãn Uẩn dựng chùa Tây An ở núi Sam năm 1847 là việc có nhiều ý nghĩa đối với  nhân tâm thời bấy giờ và nhứt là đối với cá nhân một nho sĩ hăng hái nhưng thấm mệt.

Công tác khẩn hoang ngưng trệ, nếu không nói là bị đổ vỡ phần nào ở Hậu giang. năm  Thiệu Trị thứ ba (1843), đào thêm con kinh nối liền Tiền giang (từ Tân Châu) đến thủ Châu Giang phía Hậu giang. Kinh này ngắn nhằm mục đích quân sự để chiến thuyền đi nhanh từ  Tân Châu đến vịnh Xiêm La khi hữu sự, qua kinh Vĩnh Tế. Dân phu từ hai tỉnh Vĩnh Long  và An Giang tập trung lại. Đợt đầu đào dở dang rồi ngưng, số dịch lại coi việc đào kinh đã  bức hiếp khiến dân phu bất mãn, trốn né rất nhiều. Sau mùa gặt, dân phu lại được huy  động lần thứ nhì. Một tài liệu của phủ Hoằng Đạo tỉnh Vĩnh Long (Bến Tre, cù lao Bảo) cho  biết dân phu phủ này đi đào kinh Vĩnh An gồm 8 đội, mỗi đội 50 người, có viên phó tổng  hoặc lý dịch coi sóc. Mỗi đội mang theo 10 cây cuốc, 10 cây mai, phãng, rìu, cây mù u, gàu  nước, gióng, gánh, ky, mỗi thứ 30 cái, lại còn dây tre dài hơn 1 trượng. Viên chức ở tỉnh tới  địa điểm đào kinh từ trước để cất trại cho dân phu ở. Cứ 15 ngày thay đổi một lần cho dân  nghỉ ngơi. Kinh đào xong vào tháng 4 năm 1844, đặt tên là Long An Hà.

Nội loạn vừa dẹp xong, tổng đốc An Hà là Nguyễn Tri Phương và Tuần phủ An Giang  là Doãn Uẩn điều trần ba biệc (1844):

-  Xin lượng bớt các điều lệ thanh tra.

-  Xin tước trừ ngạch hư trong bộ sổ dân.

-  Xin tha các hạng thuế thiếu lâu nay.

Mấy điều trên chứng tỏ dân An Giang, đặc biệt là vùng kinh Vĩnh Tế xiêu tán quá nhiều, lắm người đến nơi khác làm ăn, kẻ ở lại bám đất thì đành chịu trực tiếp ảnh hưởng  chiến tranh. Các sở đồn điền ở Biên Hòa, Định Tường được khả quan hơn, giao lại cho dân  địa phương cày mà nạp thuế làm ruộng công (trở thành công điền cho dân mướn), lính khai thác đồn điền thì triệt về tỉnh, lo việc khác. ở Tây Ninh, giáp biên giới Miên, cũng xúc tiến  lập đồn điền từ năm 1843.

Vua Tự Đức lên ngôi, gánh bao nhiêu hậu quả. Trương Quốc Dụng dâng sớ tâu: “Tài lực trong dân, soi với năm trước mười phần kém đến năm sáu mà các quan địa phương  thường hay trau dồi tiếng tốt, hỏi số dân thì tâu rằng tăng, hỏi mùa màng thời tâu rằng  được, chỉ muốn cho mình được tiếng khen”. Vua Tự Đức răn các quan đã dụng tâm làm  nặng nhẹ, bắt lính đòi thuế, lo hối lộ quan trên, góp tiền kẻ dưới. Đời Minh Mạng, Thiệu Trị  đã xảy ra nội loạn rồi. Vua Tự Đức cố đề phòng nhưng khó cứu vãn, nhứt là đối với miền  Bắc và miền Trung nơi đói kém thường xảy ra. Lại còn nạn ngoại xâm của thực dân Pháp mà ngài không tiên đoán nổi mức trầm trọng.

Tháng giêng năm 1850, cho Nguyễn Tri Phương là Thượng thơ bộ Công làm Kinh lược  đại sứ Nam kỳ. Nguyễn Tri Phương giữ chức vụ này đến cuối năm 1858 để rồi trở về Kinh,  lo đối phó với thực dân Pháp.

Nguyễn Tri Phương am hiểu tình hình các tỉnh Tiền giang, Hậu giang, luôn cả Cao  Miên từ hồi Thiệu Trị. Ông đã đặt chân đến những nơi hẻo lánh và nguy hiểm nhứt như Thất Sơn, Vĩnh Tế, Trà Vinh, Ba Xuyên. Tóm lại, những vùng mà người Miên sống tập  trung.

 

Năm 1853, vua Tự Đức cho phép lập đồn điền, lập ấp ở xứ Nam kỳ theo lời tâu của đình thần. Tại sao có việc lập đồn điền này? Từ trước đã có chánh sách đồn điền rồi. Nhưng  lần này đưa ra cấp bách nhằm đối phó kịp thời với tình hình điêu tán ở vùng biên giới và  Hậu giang. Nguyễn Tri Phương nói thẳng mục đích: “Đất Nam kỳ liền với giặc Miên, dân  xiêu tán nhiều. Nay mượn điều chiêu mộ để dụ dân về đốc việc khai khẩn để nuôi dân ăn,  thật là một cách quan yếu để giữ giặc và yên dân đó”.

Lập đồn điền và lập ấp là hình thức tổ chức nhằm phục vụ chiến lược lớn: giữ giặc và  yên dân. Nội dung tóm tắt như sau:

-  Thành phần: dân ở khắp Lục tỉnh Nam kỳ cùng các tỉnh từ Bình Thuận trở ra phía  Bắc, theo nguyên tắc tình nguyện.

-  Địa điểm thành lập: ở hai tỉnh An Giang và Hà Tiên còn dư thì cho qua vùng kinh  Vĩnh Tế, Tịnh Biên, hoặc Ba Xuyên.

-  Hình thức tổ chức: có hai hình thức, lập đồn điền và lập ấp.

Mộ dân lập đồn điền

Dân sống tập trung làm lính đồn điền, đây là hình thức bán quân sự.

Ai mộ được 50 người thì tổ chức thành một đội, người mộ được làm suất đội. Về sau,  khi cày cấy có kết quả, đội này cải ra thành một ấp, viên suất đội mặc nhiên trở thành ấp  trưởng, theo quy chế dân sự.

Ai mộ được 500 người thời tổ chức thành một cơ (gồm 10 đội), người mộ được bổ nhiệm  làm chánh đội thí sai phó quản cơ, khi đất trở nên thành thuộc, cơ này trở thành một tổng,  người đứng mộ trở thành cai tổng, theo quy chế dân sự.

Mộ dân lập ấp

Dân trong ấp sống theo quy chế dân sự, không bị câu thúc nhiều. Con số tối thiểu để  lập một ấp là 10 người, đủ số ấy mới được chọn đất mà khai khẩn, lập bộ. Nên hiểu đây là 10 người dân cam kết chịu thuế, lần hồi ấp này quy tụ thêm một số lưu dân, bọn này không  cần vô bộ, cứ sống theo quy chế dân lậu. Khi ruộng đất thành thuộc, dân đông hơn thì nâng  lên thành một làng.

Người Tàu cũng có thể đầu mộ, lập ấp.

Có lệ khen thưởng những người mộ dân lập ấp: được 30 người thì tha xâu thuế trọn  đời, 50 người thời thưởng chánh cửu phẩm, 100 người thời thưởng chánh bát phẩm. Nên nhớ  là muốn mộ dân thì phải có vốn lớn để nuôi dân, cho vay làm mùa trong mấy năm đầu (vay tiền và vay lúa ăn). Các ông bá hộ, tức là chủ nợ (đồng thời cũng là ân nhân) khi chết thì trở  thành tiền hiền, thờ trong đình làng. Đây là nội dung lời tâu đặc biệt của Nguyễn Tri Phương:

-  Người Cao Miên ở các sốc thuộc Ba Xuyên và Tịnh Biên mới quy tụ về theo ta (sau  các biến loạn đời Thiệu Trị) đáng lý thì phải đem phân tán khắp nơi, nhưng ta lại cho họ trở  về quê quán, nếu tiếp tục sống như thế họ sẽ có cơ hội để làm loạn như trước. Bởi vậy dân  khắp Nam kỳ lục tỉnh nếu muốn ứng mộ qua Tịnh Biên, Ba Xuyên để lập ấp thì cứ cho, nhưng họ phải sống trong các tổng đã thành lập rồi (nhưng nay thì đã xiêu tán, dân không  còn đủ số).

-  Tù phạm ở Lục tỉnh, ai mộ được một đội hoặc một thôn (50 người) thời cho làng  chúng nó bảo kiết, sẽ tha tội rồi đưa đến vùng kinh Vĩnh Tế (thuộc tỉnh An Giang) hoặc vùng rạch Giang Thành (tỉnh Hà Tiên) để cày ruộng, tùy theo công việc kết quả tới đâu,  hạnh kiểm ra sao sẽ liệu định mà giải quyết.

Qua lời tâu của Nguyễn Tri Phương, ta thấy có dụng ý cho tù phạm đoái công chuộc tội  vì vùng Vĩnh Tế và Giang Thành là nơi khó khai khẩn, lại ở sát biên giới, nguy hiểm hơn  các vùng khác.

Năm sau, 1854, sáng kiến của Nguyễn Tri Phương gặp nhiều sự khen chê của các  quan, thấu tai vua. Nguyễn Tri Phương tâu về việc ích lợi của chánh sách nói trên và nhìn  nhận rằng: “Tôi xét việc đồn điền vẫn lợi nước lợi dân mà không lợi cho Tổng, Lý. Vậy nên  Tổng, Lý đặt điều để phỉnh dân, những người nói bất tiện đó chẳng qua bị chúng phỉnh mà thôi”.

Tổng, Lý tức là cai tổng và lý trưởng, họ chống đối vì chính sách này khiến cho dân  trong làng trong tổng có thể qua vùng đất khác mà làm ăn. Làng tổng của họ trở nên thưa  thớt, thiếu người đóng thuế và làm xâu. Hoặc những phần đất hoang trong làng trong tổng  sẽ bị cắt ra để trở thành một làng, một ấp khác, địa bàn hoạt động và số dân mà họ cai trị bấy lâu nay bị thâu hẹp lại.

Nhân dịp ấy Nguyễn Tri Phương báo cáo kết quả đầu tiên sau một năm: lập được 21  cơ đồn điền và phỏng chừng 100 làng. Đồng thời Nguyễn Tri Phương cũng xin khen thưởng  những địa phương mà việc khẩn hoang thâu kết quả tốt.

Một trăm làng (ấp) nói trên quy tụ 10500 người. Năm 1866, nha Dinh điền xứ An  Giang, Hà Tiên và vùng có nhiều người Miên ở Vĩnh Long (Lạc Hóa). Đồng thời với các tỉnh  nói trên, những tỉnh còn lại ở Nam kỳ cũng tổ chức đồn điền để khẩn hoang; đáng chú ý nhất là đồn điền ở Gia Thuận, huyện Tân Hòa (Gò Công) thuộc tỉnh Gia Định do Trương  Định cầm đầu. Lực lượng bán quân sự của đồn điền trợ giúp đắc lực cho quân sĩ triều đình  khi giữ thành Chí Hòa và còn tham gia các cuộc khởi nghĩa về sau.

Những chi tiết cụ thể

Lập đồn điền là chánh sách tốt, tuy nhiên người dân chịu khá nhiều hy sinh, cực nhọc?  Họ bị cưỡng bách, như trường hợp đám dân nghèo ở làng Tân Niên Tây (nay thuộc Gò  Công). Họ là dân lậu, hương chức làng tống khứ họ qua Gia thuận để gia nhập đồn điền. Nhưng vài ngày sau, họ bỏ trốn, qua cư ngụ tại làng Kiểng Phước. Để cho dân số trong đồn  điền khỏi bị hao hụt, viên đội của đồn điền Gia Thuận là Bùi Văn Cẩm báo cáo lên, và quan huyện cho phép viên đội này truy nã bọn dân vừa trốn, gồm 5 người. Dầu sao đi nữa, làm  dân lậu trong một làng có nếp sinh hoạt thuần thục vẫn khỏe thân hơn là bị bắt đi nơi khác để làm đồn điền. Trường hợp nói trên xảy ra vào năm Tự Đức thứ 11 (1858). Người dân có  phản ứng vì khi bận rộn cày cấy thì làm sao họ có thể diễn tập về quân sự như quan trên  mong muốn? Vả lại cày cấy ở đất hoang đòi hỏi nhiều công phu hơn ở vùng đất thành  thuộc, tốn công nhiều nhưng huê lợi không thu được bao nhiêu, trong những năm đầu tiên.

Vì nhu cầu gìn giữ biên giới, tổng đốc An Hà (An Giang, Hà Tiên) là Cao Hữu Dực đã  đưa nhiều kế hoạch thúc ép dân, đến đỗi các quan ở Nội các phải can thiệp. Năm Tự Đức thứ 7 (1854), một năm sau khi ban hành quy chế đồn điền, Trương Đăng Quế, Trương Văn  Uyển và Võ Đức Nhu bái yết vua, nhắc lại việc làm và những yêu sách của Cao Hữu Dực, rồi đi đến một kết luận mà nhà vua đã đồng ý: Phải mộ người và tập luyện lần lần thì việc  làm mới có kết quả. Cứ chờ ba năm rồi hãy hay. Nhà vua hiểu rằng các quan địa phương  thấu rõ hoàn cảnh và có xin nhiều việc vấn đề đồn điền. Tóm lại, phải cho dân sống dễ dàng, góp công từ từ. Không cần con số quá đông. Cao Hữu Dực xin việc chế quân phục (dân đồn  điền khi thao diễn có sắc phục riêng) và việc thao diễn thường xuyên. Hai việc ấy không cần  kíp lắm. Nên làm sổ sách để ghi số lưu dân, dân lậu, từ từ gom thành đội để khai khẩn cho  hợp với hoàn cảnh. Sau 3 năm chuẩn bị thì hai điều trên (sắc phục và thao diễn) mới làm  được.

Cũng năm 1854, ta có một tài liệu về việc lập đồn điền. Đây là một đội (50 người dân  lậu) xin khẩn 2 khoảnh đất tổng cộng là 200 mẫu của làng Thường Thạnh (nay là Cái Răng,  Cần Thơ). Đội trưởng Nguyễn Văn Tấn đứng đơn, có thôn trưởng, hương thôn và dịch mục  ký tên. Thôn trưởng làng giáp ranh (làng Như Lăng) ký vào để xác nhận vấn đề ranh giới,  viên cai tổng cũng ký vào. Đơn này được quan Tổng đốc An Hà phê.

Đồn điền nói trên thu hút dân của làng Thường Thạnh và cắt đất làng này bớt ra đến  200 mẫu. Ta hiểu tại sao việc lập đồn điền thường bị các làng có đất tốt chống đối, nếu là cắt  đất xấu ở nơi nước mặn đồng chua thì chẳng ai tranh cản làm chi.

Năm Tự Đức thứ 9 (1856), có một tài liệu theo đó các ấp trưởng của 9 ấp (Thanh Thiện,  An Mỹ, Phú Hữu, Vĩnh Lộc, Phú Thạnh, Mỹ Thành, Vĩnh Thới, Phú Mỹ, Phú Khai) họp  cùng đội trưởng và bốn ông bá hộ cùng đi tu khám điền địa để đo đạc rồi khai vào sổ bộ. Chẳng hiểu ngày nay các ấp nói trên nằm trong địa phương nào, nhưng ta thấy sự phối hợp  giữa ấp trưởng (đội đồn điền) và vai trò các ông bá hộ giúp vốn.

Chúng tôi thử xác nhận vị trí của vài đồn điền thành lập dưới thời Tự Đức. Việc làm này khó khăn vì một số đồn điền lần hồi trở thành làng xã, một số khác về sau bị thực dân  Pháp giải tán.

-  Vùng Tân Châu còn tài liệu liên quan đến ông Đội Chín Tài ở Vịnh Đồn, theo đó vào  những năm 1853 và 1856, ông được viên chỉ huy bảo Tân Châu cho làm ấp trưởng, rồi tác  đắc cử ấp trưởng. Năm 1860, ông được cấp cho một “vi bằng cấp sự” để đi mộ lính ở thôn  Phú Lâm. Ông Đội Chín Tài sau thăng chức hiệp quản, trong đội binh Giang Nghĩa.

-  Dọc theo kinh Vĩnh Tế, những làng mạc thành lập từ đời Minh Mạng và Thiệu Trị ắt  đã tiêu điều, lúc quân Xiêm tràn tới và chiếm đồn Châu Đốc. Trung tâm quy tụ lưu dân  được nói nhiều nhất trong vùng này đời Tự Đức là Tịnh Biên và bờ kinh Vĩnh Tế. Nhưng ở  đây, như Nguyễn Tri Phương quy định “họ phải sống trong các tổng đã thành lập rồi” tức là bổ sung vào các làng cũ, có ranh giới, có bộ đinh, bộ điền từ đời Minh Mạng để tránh việc  lấn vào ruộng đất người Miên. Riêng về các đội do tù phạm lập ra, đưa về Giang Thành hoặc Vĩnh Tế thì không thấy dấu vết cụ thể, ngày nay tìm lại cũng quá khó khăn vì người  địa phương nếu là con cháu của tù phạm thì cũng che giấu, hoặc không biết rõ việc này (và  chính ông cha của họ cũng che giấu lai lịch, vì thể diện đối với các làng khác).

Tu sĩ Đoàn Minh Huyên, sau này là Giáo chủ của Phật giáo Bửu Sơn Kỳ Hương đã đến  vùng Tịnh Biên, tại Thới Sơn để lập trại ruộng, quan địa phương không ưa thích nhưng ta không thấy tài liệu nào nói đến việc ngăn cản, chứng tỏ khẩn hoang ở vùng biên giới đời Tự Đức là công tác được khuyến khích.

-  Người Chàm sống tập trung ở Châu Giang (ngang Châu Đốc) tổ chức lại thành từng  đội, có quan hiệp quản cầm đầu.

-  Tại vùng Trà Vinh (Lạc Hóa) nơi người Miên từng gây náo động hồi đầu đời Thiệu  Trị, Nguyễn Tri Phương đã lập đồn điền ở vùng Cầu Ngang, Trà Cú ước vài ngàn dân, một  người Miên là Thạch In được làm hiệp quản đồn điền (khi Pháp đến ông này ra làm cai  tổng). Tại ngả ba Trà Cú, có ông đội Mười Nhơn.

-  Tại vùng Mỹ Tho, Nguyễn Tri Phương lập đồn điền ở miền Xoài Tư.

-  Tại vùng Ba Xuyên, việc lập ấp, lập đồn điền phát triển nên lập thêm một huyện mới ở Nhu Gia, năm Tự Đức thứ 13 (1860).

Nói chung các đồn điền chiến lược, các ấp nói trên được thiết lập xen kẽ vào vùng có người Miên cư ngụ tập trung. Vì vậy mà ngày nay du khách phải ngạc nhiên khi gặp những  xóm đông đúc người Việt Nam, với nếp sống thuần thục, ở nơi chung quanh toàn là sốc  Miên, nhứt là ở Trà Vinh, Thất Sơn, ở vùng Sóc Trăng.

Việc lập ấp, lập đồn điền xúc tiến trong vòng non 6 năm là thực dân Pháp đánh chiếm  thành Gia Định. Tuy nhiên, sau khi cắt ba tỉnh miền Đông cho Pháp, năm 1864, vua Tự Đức chuẩn cho Trần Hoán làm tuần phủ Hà Tiên kiêm sung chức Dinh điền ở An Giang, Hà  Tiên, Vĩnh Long: kết quả chắc là mong manh vì thực dân lại đánh vào ba tỉnh miền Tây  năm 1867.

Đồng thời với quy chế lập ấp và lập đồn điền năm 1835, vua Tự Đức định lệ người cày  mướn ruộng: Gặp năm mất mùa, nếu nhà nước miễn thuế cho chủ điền theo tỷ lệ nào thì  chủ điền phải theo tỷ lệ ấy mà bớt lúa ruộng cho tá điền. Đây là việc làm có chút ít tiến bộ.

Năm 1850, khi được sung Nam kỳ kinh lược sứ, Nguyễn Tri Phương chú ý đến nạn cho  vay nặng lời. Từ lâu, theo lệ triều đình thì cho vay riêng tư hoặc cầm cố tài vật, bất luận là năm tháng lâu mau thì chỉ lấy một vốn một lời mà thôi, mỗi tháng tiền lời không quá 3  phân, ai trái lịnh thì bị phạt 40 roi. Lời dạy của Hình Bộ nói rất kỹ: như mượn một lượng  bạc, cứ mỗi tháng 3 phân mà lấy lời, kéo dài tới 33 tháng thì bạc lời đã đầy một lượng tức là  ngang với số vốn rồi. Như con nợ không trả tiền lời đều đặn, trả kéo dài năm mười năm thì cũng giữ nguyên tắc “một vốn một lời” là dứt nợ. Nguyễn Tri Phương nhắc lại nguyên tắc  không quá 3 phân mỗi tháng. “Gần đây, nghe Gia Định tỉnh có phú hộ cho vay, phần nhiều  trái lịnh cấm cho nên con nợ không thể trả, thường bị chủ nợ làm khổ. Người lính (mang nợ)  không yên trong cơ ngũ, mà dân sống không yên cho nên có người sinh tâm phải ăn trộm,  chớ không phải nhứt thiết vì tham. Cổ nhân thường nói: cho vay tiền không bằng cho vay  đức (trái tài bất như trái đức), nên giảm thuế, bớt tô. Triều đình thường ra kế an dân, sao người ta lại tham để làm hại nhau? Bởi vậy bản chức thể đức ý của triều đình, lấy an dân  làm nhiệm vụ, đã sức cho phủ huyện bảo cho người phóng trái: trừ người từ trước đã trả  được ít nhiều, còn kỳ dư là bất lực, hãy hoản cho họ một năm để cho họ an cư sinh sống,  chậm việc thúc bách đòi nợ họ”.

Mấy nét trên đây giúp soi sáng một khía cạnh quan trọng của việc lập ấp di dân: các  ông bá hộ đứng ra đỡ đầu đều thủ lợi quá đáng. Lời kêu gọi của Nguyễn Tri Phương chắc ít được lưu ý. Nguyễn Tri Phương khuyên các chủ điền (cũng là bá hộ, là chủ nợ) nên giảm địa tô. Điều này lại càng khó được hưởng ứng vì luật pháp không hề quy định rõ rệt, cứ để cho  người chủ đất thao túng.

Năm Tự Đức thứ 13 (1860) là năm bi đát. Tháng giêng, quân sĩ Cao Miên gây sự đánh  vào An Giang và Hà Tiên, nhưng ta đuổi được (quân Cao Miên qua chiếm vùng Thất Sơn).  Tướng Nguyễn Tri Phương được phái vào Nam để lo chiếm lại thành Sài Gòn, sau khi  nguyên soái Pháp (Page) đưa ra một dự thảo hòa ước rất ngặt nghèo cho ta.

Tổng đốc Vĩnh Long Trương Văn Uyển truyền cho dân dũng trong đồn điền, trong ấp  phải thao diễn tại tỉnh, các đồn ở trong làng canh phòng cẩn mật, dân trong ấp phải chăm lo  việc nông, các nhà phú hộ thì tích trữ lúa thóc để bán cho nông dân hoặc cho vay, ai bán hết  thì bị phạt nặng. Mặt khác, phải ngừa gian thương chở lúa gạo bán ra vùng giặc. Đất không  được bỏ hoang, lúa phải tích trữ để dân khỏi bị khốn trong lúc “thanh hoàng bất tiếp” (lúa bắt đầu chín, chưa gặt ăn được).

 


Chương 1.4. Làng xóm, điền đất và người dân thời đàng cựu

Trước khi người Pháp đến, đất Nam kỳ đã là nơi việc cai trị tổ chức thành nền nếp khá minh bạch. Người Pháp nghiên cứu kỹ lưỡng, sửa đổi hoặc noi theo phần nào để áp dụng có  lợi cho việc thực dân. Những tài liệu sau đây phần lớn rút từ “Những bài giảng về cách cai trị thời đàng cựu” do viên tham biện nhiều kinh nghiệm là J.B. Eliacin Luro đem dạy tại  trường Hậu Bổ Sài Gòn vào năm 1875. Luro từng là sĩ quan tham gia đánh chiếm và bình  định xứ Nam kỳ. Thời ấy, tài liệu tuy bị mất mát nhưng còn khá nhiều, vài viên chức thời  đàng cựu đã giúp Luro biên soạn, đặc biệt là ông Trần Nguơn Vị (bát phẩm cựu trào, tục danh ông Hạp) làm việc cho Pháp thăng lần đến Đốc phủ sứ. Theo quy chế đàng cựu (thời  Tự Đức) ở mỗi tỉnh có năm phòng: phòng Lại, phòng Hộ, phòng Lễ... Ông Hạp là viên chức  đứng đầu một phòng, tương đương với chức vụ trưởng ty ngày nay. Mỗi công văn đều lần  lượt do thơ lại thảo ra, trình cho ông Hạp, ông Hạp trình cho viên kinh lịch hoặc thông phán xem kỹ trước khi trình lên quan Tổng đốc. Ông Hạp Trần Nguơn Vị là người vùng Lấp Vò  (Long Xuyên) nên trưng ra nhiều tài liệu về vùng này.

Về địa bộ năm Minh Mạng thứ mười bảy

Như đã nói, ở Nam kỳ đây là lần duy nhất triều đình tổ chức việc đo đạc do Trương  Đăng Quế cầm đầu, cùng với một số viên chức chuyên môn từ kinh đô vào. Nên phân biệt  địa bộ và điền bộ:

-  Địa bộ ghi rõ từng khoảnh đất: diện tích, loại đất, ranh giới tứ cận, tên người chủ.

-  Điền bộ, gọi nôm na là bộ điền, chỉ ghi tên người chủ đất, diện tích, loại đất, đặc biệt  là số thuế phải đóng.

Địa bộ nặng về chi tiết liên quan đến tên họ chủ đất, ranh giới, diện tích mà không ghi số thuế hàng năm trong khi điền bộ chỉ chú trọng vào thuế má: thuế ấy ai phải trả?

Năm Minh Mạng thứ 17, mỗi làng phải lập một địa bộ gồm 3 bổn giống nhau.

-  Bổn Giáp, gởi về Hộ Bộ ở Kinh đô.

-  Bổn ất, giữ tại tỉnh, nơi văn phòng quan Bố chánh.

-  Bổn Bính, giữ tại làng.

Từ đó về sau, mỗi khi mua bán đất, nhà nước lấy địa bộ Minh Mạng này ra điều chỉnh.

Xin đơn cử làm thí dụ bổn địa bộ Minh Mạng của thôn Tân Bình, thuộc Tân Phú tổng,  Đông Xuyên huyện, Tân Thành phủ, tức vùng Lấp Vò, thuộc tỉnh An Giang.

Hương chức gồm Thôn trưởng, Hương thân, Hương hào đứng tên lập ra, có Cai tổng và Phó tổng “Thừa nhận thiệt”.

Sau đó là viên Tri huyện “Thừa duyệt thiệt”.

Các viên chức của tỉnh (tỉnh phái) cũng ký vào, theo thứ tự:

-  Thơ lại của án sát sứ ty “Thừa cứu”

-  Thông phán của Bố chánh sứ ty “Thừa tỷ”

-  Quan Bố chánh và quan án sát của tỉnh An Giang “Thừa hạch thiệt”

Các viên chức từ Kinh đô đến (Kinh phái) ký vào theo thứ tự:

-  Thơ lại của Tào chánh ty, thuộc Bộ Công “Thừa Cứu”

-  Viên ngoại lang của Bộ Lễ “Thừa tỷ”

-  Chủ sự của Bộ Binh “Thừa phúc cứu”

Tổng cộng các hạng điền thổ trong làng Tân Bình là 208 mẫu.

Trong số này, ruộng canh tác gồm 88 mẫu: 19 mẫu thảo điền và 69 mẫu sơn điền.

Đất ruộng đổi thành vườn cau, có gia cư: 11 mẫu.

Đất ruộng đổi thành vườn chuối, tre, có gia cư: 13 mẫu.

Đất trồng dâu và trồng mía: 10 mẫu.

Đất trước kia trồng dâu, nay trồng đậu, khoai: 17 mẫu.

Đất trồng tre: 30 mẫu.

Đất trồng lá dừa nước: 30 mẫu.

Đất trước kia trồng dâu, nay đổi thành đất lập chợ phố: 5 mẫu.

Ngoài ra còn đất gò quá cao, đất làm nghĩa địa, đất bỏ hoang không đo đạc diện tích.

Về sự phân khoảnh đất ruộng, 19 mẫu thảo điền đã kê khai chia làm ba sở: 5 mẫu, 8 mẫu, 6 mẫu.

Về sơn điền, chia ra 4 sở: 18, 17, 12 và 20 mẫu.

Địa bộ của làng chỉ có tên họ năm bảy ông điền chủ mà thôi.

Khu đất dành để cất chợ là 5 mẫu, do hai người đứng tên làm chủ. Cuối bổn địa bộ, hương chức làng cam kết không khai thêm bớt, nếu sai lạc hoặc còn đất ẩn lậu mà không  khai thì chịu tội.

Về điền bộ, (tức là bộ ghi thuế điền) trước sau chỉ lập ra có bốn lần từ hồi nhà Nguyễn  tới khi thực dân Pháp đến, gọi là Đại Tu Điền Bộ, làm chuẩn để thêm bớt vào những năm  sau.

Bốn lần ấy là:

-  Năm Thiệu Trị thứ ba.

-  Năm Tự Đức nguyên niên.

-  Năm Tự Đức thứ 11.

-  Năm Tự Đức thứ 16.

Cũng làng Tân Bình (Lấp Vó) nói trên, so với địa bộ Minh Mạng hồi 12 năm về trước,  có sự thay đổi rõ rệt: đất ruộng chịu thuế đã giảm về diện tích trong khi các loại đất trồng  đậu, khoai và trồng tre vẫn như cũ. Trong địa bộ Minh Mạng không ghi đất công điền, nhưng trong điền bộ sau này ghi rõ các sở công điền. Có lẽ diện tích sút giảm vì dân qua các làng khác làm ăn, hoặc có sự ẩn lậu diện tích để trốn thuế. Đây là một làng thuộc tỉnh An  Giang, thành lập từ đời Gia Long nên dân lậu rút bớt qua các làng tân lập, khiến các chủ  điền vì sợ đóng thuế không nổi nên hiến cho làng để làm công điền; một số đất khác thì lần  hồi canh tác rồi cũng bỏ hoang.

Đất thiệt trưng, tổng cộng 165 mẫu trong đó “điền” (đất làm ruộng) là 58 mẫu và “thổ”  (các loại trồng tỉa khác) là 106 mẫu.

Thảo điền gồm một sở công điền 5 mẫu và 10 mẫu tư điền khác chia làm hai sở.

Sơn điền gồm 42 mẫu, trong đó công điền ba sở, tư điền hai sở. Đáng chú ý là có một sở  12 mẫu do Mai Văn Ngọc làm chủ, ông này vì can án theo ngụy (phải chăng là theo ngụy  Khôi) nên đất bị tịch biên đem vào công điền.

Ngoài số đất ruộng nói trên, những phần đất trồng tre, trồng dâu, trồng khoai đậu  không thay đổi mấy.

Trong làng Tân Bình, bộ điền ghi 18 mẫu liệt vào loại “hoang phế” (vì dân đã thất lạc)  từ năm Thiệu Trị thứ 5, bỏ hoang dưới 5 năm.

Lại còn 28 mẫu ghi vào loại “cửu kinh hoang phế” tức là bỏ hoang lâu hơn. Một số đất  lần hồi trở thành xấu, lúc trước canh tác được nhưng về sau đất chai lần, sanh ra sỏi (loại  đá ong). Lại còn vài mẫu đất phù sa mới bồi, ghi vào bộ. Một số người khẩn đất trước kia bỏ xứ mà đi, không biết lý do, đất trở thành công điền. Lại có người chết không có con cháu thừa tự nên đất cũng trở thành công điền.

Về thuế đất, năm Tự Đức nguyên niên, thấy ghi rõ trong bộ như sau:

Thảo điền, mỗi mẫu thâu tô túc 26 thăng, thập vật tiền là 3 tiền.

Sơn điền, mỗi mẫu tô túc 23 thăng, thập vật tiền là 3 tiền.

Tang căn thổ (đất trồng dâu), mỗi mẫu 2 quan.

Viên lang thổ (đất lập vườn cau), mỗi mẫu 1 quan 4 tiền.

Vu đậu thổ (đất trồng khoai đậu), mỗi mẫu 8 tiền.

Thổ trạch, mỗi mẫu 8 tiền.

Thanh trúc thổ (đất trồng tre), mỗi mẫu 4 tiền.

Dà diệp thổ (đất trồng lá dừa nước), mỗi mẫu 4 tiền.

Biểu thuế trên đây tính theo lệ đã ban hành từ năm Minh Mạng thứ 17.

Lập làng mới

Đời Tự Đức, ở Nam kỳ Lục tỉnh, nhà nước khuyến khích lập làng để thúc đẩy khẩn  hoang, thâu thêm thuế đinh và thuế điền. Việc lập làng được hưởng ứng, bất kể dân giàu  hay dân nghèo.

-  Người giàu (thường là bá hộ) được dịp ban ơn bố đức cho dân đi khẩn đất. Trong giai đoạn đầu, người khẩn đất cần vốn liếng để sắm nhà cửa, ghe xuồng, nông cụ, quần áo, gạo  để ăn, tiền để xài. Ông bá hộ cho vay tiền, vay lúa với mức lời rất nặng, trên 50 phần trăm mỗi năm. Ngoài ra, nếu ông bá hộ trực tiếp khẩn đất thì có thể canh tác với nhân công  mướn rẻ, đó là những người bạn làm ruộng ăn lương hàng năm, khi rảnh việc cày cấy gặt  hái thì chủ bắt chèo ghe, sửa nhà, đắp bờ, đào mương vườn. Bạn làm công luôn luôn mượn  tiền trước với tiền lời rất nặng, lắm khi vì đau yếu hay cờ bạc, vợ và con phải làm việc thay  thế để trừ nợ.

-  Người nghèo không gia cư, đã túng thiếu đổ nợ ở các làng cũ nếu có chí thì đi nơi  khác xin lập làng mới, chịu khó làm ăn thì có thể trở thành điền chủ nhỏ, được làm hương  chức. Trong nhiều trường hợp, người đi lập làng thường lôi kéo theo nào là bạn thân, nào là bà con xa, bà con gần để trong việc làm ăn hàng ngày họ sống trong bầu không khí thân mật và tin cậy hơn.

Đơn xin lập làng làm ra hai bổn, dâng lên quan Bố chánh. Trong đơn ghi rõ:

-  Ranh giới tứ cận của làng mới lập.

-  Tên những người gia trưởng (điền hộ).

-  Ranh giới các sở đất xin khẩn, tên chủ đất, diện tích, loại đất gì (sơn điền, thảo điền  hoặc vu đậu).

-  Nêu rõ tên làng mới (xin đặt tên).

-  Xin miễn thuế, miễn sưu và miễn lính trong ba năm.

-  Ghi tên những người dân bộ (bộ đinh) để bảo đảm có số thuế tối thiểu trong tương  lai.

Quan Bố chánh nhận đơn, chỉ cần biết rõ ranh giới làng mới và tên tuổi của dân lập  làng (gồm dân đã từng đứng bộ trong làng khác và dân lậu) rồi phê vào mấy chữ: “Phú hồi  sở tại phủ viên khám biện”.

Khi nhận được lịnh, quan phủ bèn đến tận nơi với vài nhân viên (lại lệ), đòi hương  chức các làng kế cận, luôn cả viên cai tổng để xác nhận rằng làng mới xin lập không lấn  ranh vào những làng đã có ở bốn phía và chẳng ai ngăn cản. Dân xin lập làng phải có mặt để xác nhận chịu khẩn và chịu đóng thuế, sở đất của người này không lấn ranh vào sở của người kia. Dân lậu xin lập làng cũng đến để được điều tra xem có tội trạng, tiền án, hoặc có giả mạo tên tuổi không. Quan phủ cho đo diện tích để biết lần đo trước của dân làng có  chính xác chăng (dư hoặc thiếu), xem ranh giới từng sở đất, tên người chủ, loại sơn điền, thảo điền hoặc đất trồng dâu, trồng khoai đậu... Luôn dịp ấy, quan phủ nhìn nhận cho  người xin lập làng làm chức thôn trưởng, cấp cho con dấu nhỏ, hình chữ nhựt, theo nguyên  tắc con dấu phải làm bằng cây (vì vậy gọi là mộc ký, hoặc nói gọn là con mộc). Đồng thời  quan phủ cho phép làng cũ hủy bỏ tên những người dân đã di chuyển để ghi vào bộ sổ của  làng mới lập.

Quan phủ soạn tờ phúc bẩm, trình với quan Bố chánh việc mình đã làm, kèm theo bản  đồ tổng quát của làng tân lập, vị trí các sở đất, loại đất, tên người xin khẩn, diện tích. Trên  bản đồ thường vẽ hình cây lâm vồ, chòm tre, lung bàu hoặc hình chùa miễu để làm chuẩn.  Thôn trưởng ở mấy làng giáp ranh đồng ký vào.

Tờ phúc bẩm này được quan phủ dâng cho quan Bố chánh, làm hai bổn. Khi nhận  được, quan Bố chánh phê “trình biện”; chuyển lên quan Tổng đốc thì được phê “chiếu biện”  khi chấp thuận.

Một bổn có lời phê trên đây lại gởi trả xuống cho quan phủ hoặc quan huyện. Lập tức, quan phủ hoặc quan huyện đến làng tân lập nọ, lần thứ nhì, để làm tờ khám án (Luro dịch  là jugement procès verbal). Trong tờ này ghi là đã đến nơi, gọi các viên cai tổng, thôn trưởng  kế cận đến để xác nhận, rồi kê khai các sở đất, diện tích, loại đất, tên người khẩn như trong  tờ phúc bẩm. Bên dưới là chữ ký của thôn trưởng, hương thân, của dân làng tân lập cùng  các ông cai tổng sở tại và lân cận.

Tóm lại, việc lập làng chia ra ba giai đoạn:

-  Dâng đơn lên quan Bố chánh

-  Quan phủ hoặc quan huyện đến nơi làm tờ phúc bẩm

-  Khi được quan Tổng đốc đồng ý, quan phủ trở lại làng, làm tờ khám án

Trường hợp làng Châu Quới tân lập, tách ra từ làng Châu Phú (nay là vùng chợ Châu Đốc) lúc mới làm đơn xin chỉ có 7 người dân đứng tên (2 người dân có bộ cũ, 5 người dân  lậu), đất khẩn các loại tổng cộng 66 mẫu (trong đó chỉ có 2 mẫu thảo điền và 3 mẫu sơn  điền) giúp ta thấy rõ tình trạng làng xóm lúc bấy giờ, quan trên tỏ ra dễ dãi, những người  đứng tên là tiểu điền chủ, sau này sẽ quy tụ thêm dân đến làm công hoặc làm tá điền cho  họ.

Nói chung, hương chức làng (hương dịch) chia ra làm 2 hạng: “các chức lớn” và “các chức nhỏ”. Các chức nhỏ là người thi hành, đi gặp dân để truyền lịnh của các chức lớn.  Muốn được hương chức cần có điều kiện tuy đơn giản nhưng gắt gao: phải cư ngụ trong  làng, có hằng sản hoặc uy tín lớn (thí dụ như người nghèo nhưng ông cha ngày xưa làm  quan hoặc đã sáng lập làng). Lúc ban đầu chỉ đặt ra thôn trưởng (xã trưởng) và hương thân  (theo Luro, chức hương thân do Nguyễn Tri Phương bày ra). Lần hồi khi làng đông dân,  thuế má dồi dào thì cử thêm ấp trưởng, cai tuần, trùm cả, thủ hộ, biện lại, biện đình. Hương  chức lớn thì có thêm hương hào, hương sư, hương chánh, hương lễ...

Nhiều người cho rằng hương chức làng là tổ chức dân chủ. Đó là nói quá đáng, nếu  không sai lạc: tổ chức phong kiến, của phe đảng thì đúng hơn. Khi thiếu một người hương  chức thì mấy người sáng lập làng hoặc những người đang làm hương chức bèn nhóm lại rồi  cử người trong nhóm, trong phe. Dân nghèo không hằng sản, tức là không điền đất hoặc không vốn liếng to để làm nghề mua bán thì chỉ được quyền đứng ngoài xa mà nhìn, hoặc là nấu nước pha trà cho các ông hương chức uống khi họ bầu cử lẫn nhau. Vua chúa ngày xưa  nhắc nhở đến dân, “dân vi quý” hoặc gọi tổng quát là bá tánh. Nhìn qua bộ điền hoặc địa bộ của làng, ta thấy tên họ của những người dân mà thời phong kiến đề cập tới: đó là những  điền chủ lớn nhỏ, những ông bá hộ. Dân lậu, không tên trong bộ, không được nhìn nhận là dân.

Việc khẩn đất

Lần hồi, khi Gia Long bắt đầu cai trị thì việc khẩn hoang không còn quá dễ dãi như lúc mới bắt đầu Nam tiến. Nhà nước kiểm soát kỹ lưỡng việc khẩn đất, nhằm mục đích thâu thuế. Đời Tự Đức, trên nguyên tắc thì đất hoang (hoang nhàn) ai làm đơn xin khẩn trước là  người đó được.

Hễ đất bỏ hoang, không đóng thuế là đem cho người khác trưng khẩn để nhà nước khỏi  bị mất thuế.

Đất tạm bỏ hoang, trong trường hợp chủ đất chết, không con, thân nhân chưa hay biết  thì giao tạm cho người khác, chờ có người đến nhìn nhận.

Không đóng thuế, đất có thể bị mất. Muốn đóng thuế, phải đăng vào địa bộ. Muốn  đăng vào địa bộ thì phải làm đơn theo thủ tục.

Nhà nước luôn luôn thúc giục dân khẩn đất, ghi vào địa bộ và đóng thuế để khỏi bị tranh cản về sau, nhứt là trường hợp đất tốt ở nơi đông dân cư, gần đường giao thông tiện  lợi.

Nhiều sự trừng phạt đích đáng dành cho kẻ ẩn giấu diện tích, canh tác lậu.

Năm Gia Long thứ 9, theo lệ thì khi gặp đất canh tác lậu thuế (đất không xin ghi vào  bộ), kể tố giác được hưởng phần đất ấy, xin ghi vào bộ để làm chủ, tức là hưởng công lao  khẩn hoang của kẻ đi trước. Nếu người tố giác không muốn khẩn thì đất vẫn còn là của chủ  cũ, chủ cũ phải lập tức hợp thức hóa.

Nếu là vùng đất tốt, tên Giáp khai 5 mẫu nhưng trong thực tế cày cấy đến 8 mẫu,  người tố giác có thể xin trưng khẩn 3 mẫu thặng dư.

Lệ năm Minh Mạng thứ 15, sửa đổi chút ít: kẻ nào canh tác trên phần đất ruộng hơn  diện tích đã khai trong bộ thì bị phạt, tiền phạt đem thưởng cho kẻ tố giác (đất lậu ấy không  bị tịch thâu).

Nếu khẩn một khoảnh đất riêng rẽ, hoàn toàn trốn thuế từ lâu thì đất bị tịch thu, giao  cho kẻ nào chịu đến canh tác và chịu đóng thuế.

Lệ năm Tự Đức nguyên niên đặt ra: hễ đất mới khẩn mà chưa làm ruộng, chủ hoàn toàn trốn thuế thì giao cho người tố giác làm chủ, ghi vào bộ. Nếu đất trước đó có canh tác, có đóng thuế nhưng trải qua một thời kỳ bỏ hoang lâu hay mau, chủ trở lại canh tác mà không chịu đóng thuế thì chủ đất bị phạt 3 quan mỗi mẫu, đất không bị tịch thâu. Tóm lại, đời Tự Đức đất chỉ bị tịch thâu giao cho người khác khi là đất hoang, mới khai khẩn. Kẻ bị tố giác phải chịu đóng thuế năm trước và những hình phạt bằng roi cho kẻ khai gian diện tích.

Luật lệ khẩn đất ngày xưa định như sau:

-  Đất đã ghi vào bộ, biết rõ ranh giới và diện tích mà bỏ hoang vô thừa nhận thì dân  làng cứ làm đơn xin phục khẩn, quan Bố chánh có trọn quyền định đoạt. Đất mới bỏ hoang  dưới 5 năm, được miễn một năm thuế điền, đất bỏ hoang quá lâu (cửu kinh hoang phế),  miễn 3 năm.

-  Chủ đất chết, không con thừa tự thì làng cho người khác tới lãnh, ghi tên vào bộ  (diện tích đã biết rõ rồi).

-  Nếu muốn khẩn nới rộng thêm một sở đất đã vô bộ từ trước, chủ đất cứ làm đơn,  quan trên sẽ chấp nhận sau khi khám xét (trường hợp tăng trưng).

-  Nếu là sở đất to, ở vùng hoang nhàn chưa ai khai khẩn thì theo thủ tục khá phức  tạp, giống như thủ tục xin lập một làng mới:

* Làm đơn dâng lên quan Bố chánh để xin khẩn, kèm theo bản đồ sơ sài, ghi tứ cận  ranh giới. Quan Bố chánh sẽ phú hồi cho quan huyện sở tại khám xét.

* Quan huyện gọi hương chức làng và những người chủ đất giáp ranh đến, khám xét  lại, mục đích chánh là đề phòng trường hợp lấn vào phần đất mà người khác đang khai khẩn nhưng chưa xin vô bộ kịp, rồi lập tờ phúc bẩm, chờ quan Bố chánh duyệt xem.

* Quan huyện cho viên chức tới lập tờ án khám, xác nhận cấp đất.

Trên thực tế, thủ tục khẩn đất quá khó khăn. Ngày xưa đường giao thông bất lợi, dân  ở vùng Sóc Trăng phải vượt đường xa, đến tận chợ Châu Đốc để dâng đơn lên quan Bố chánh, hơn trăm cây số. Lại còn bao nhiêu sở phí linh tinh: lo lót cho lính lệ, cho các viên chức và quan huyện đi làm phúc bẩm và án khám, lo lót cho hương chức làng. Người dân  nghèo thiếu vốn liếng để giao thiệp và lo hối lộ thì chẳng bao giờ làm chủ đất được. Lương  bổng của các quan rất ít oi; đứng về pháp lý và luân lý Khổng Mạnh, các quan lớn nhỏ được  phép tha hồ nhận tiền hối lộ (gọi là lộc). Làm chuyện ích lợi cho dân, dân đền ơn thì cứ  hưởng một cách thoải mái, lương tâm chẳng ray rứt!

Chủ điền, chủ nợ và tá điền

Dân trong làng phải ghi vào bộ để chịu thuế; dân có nghĩa là đàn ông, con trai. Tất cả dân, làm bất cứ nghề gì cũng phải ghi. Trên nguyên tắc thì vậy nhưng ở làng có rất nhiều  người không ghi tên vào bộ đinh. Họ là dân lậu. Rốt cuộc, chỉ những người điền chủ mới ghi  tên, chịu thuế. Luro giải thích: Hương chức làng đã qua mặt Triều đình và Triều đình làm  ngơ vì nếu áp dụng luật lệ quá gắt gao, một số đông dân làng sẽ bỏ trốn vì đóng thuế không nổi, chi bằng cứ chấp nhận một số ít dân đóng thuế mà làng xóm tồn tại, việc ruộng nương  được điều hòa.

Dân lậu là ai? Là tá điền, tức là những người không đủ thế lực, không đủ vốn khẩn  đất, họ mướn lại đất của chủ điền.

Là tá điền, khi mướn đất họ phải làm tờ tá điền (gọi tắt là tờ tá) tức là tờ mướn đất để  làm ruộng. Mỗi mùa, họ đong cho điền chủ một số lúa gọi nôm na là lúa ruộng (chữ nho gọi  là “tá túc”), lúa mướn đất. Nên phân biệt với “tô túc” là số lúa mà chủ điền đóng cho nhà  nước trong thuế bằng hiện vật, cộng với một số tiền mặt.

Thời phong kiến (luôn cả đến thời Pháp thuộc) giữa chủ điền và tá điền không có quy  định nào rõ rệt do nhà nước đưa ra về số lúa ruộng (tá túc) mà tá điền phải đóng cho chủ  điền, theo tỷ lệ hoặc giá biểu nào cả. Tá điền chỉ biết trông cậy vào lòng nhân đạo của chủ  điền mà thôi. Luân lý Khổng Mạnh thường nhắc đến hai tiếng “tích đức”, là nhắm vào chủ  điền trong việc đối xử với tá điền, giới tá điền dầu có lòng tốt thì cũng chẳng có ai dưới tay  để mà ban bố.

Về pháp lý, tờ tá (tờ mướn đất) là văn kiện do chủ điền và tá điền tự ý ký kết. Nếu tá điền vi phạm điều giao kết thì chủ điền tố cáo, nhờ quan làng xử. Năm nào tá điền trả không nổi thì chủ điền giữ giấy ấy lại, xem như là giấy nợ hợp pháp.

Một số hương chức và thân hào tuy không đứng bộ, không làm chủ sở đất nào trong  làng nhưng lại có ưu thế đối với đất gọi là công điền, do làng làm chủ (nhưng hương chức  làng không được tự ý bán, trong bất cứ trường hợp hoặc vì lý do nào). Họ đứng ra mướn đất  công điền với giá rẻ rồi cho dân mướn lại với giá cao hơn, họ đóng vai trung gian mà ăn lời. Trên lý thuyết thì sự thành lập công điền nhằm mục đích giúp cho công quỹ của làng thâu thêm lúa và tiền để dùng vào công ích, đồng thời giúp một số tá điền có đất làm ruộng.  Nhưng người tá điền chẳng được hưởng ân huệ gì cả.

Người chủ điền thời xưa được quyền hưởng “lộc” do tá điền đền ơn cho, vì chủ điền đã  giúp tá điền có đất mà cày, có nơi cất nhà, có chỗ vay mượn lúc đau ốm. Khi vay, con nợ phải mang ơn; chủ điền là ông vua nho nhỏ trong đất đai của họ, tá điền đóng vai thần dân của tiểu giang sơn. Chủ điền bắt buộc tá điền làm “công nhựt”, tức là làm thí công, mỗi năm vài ba ngày, (tùy theo lòng nhân đức của mỗi chủ điền) lúc có đám giỗ, lúc chủ điền gả con, ăn mừng tuổi thọ ngũ tuần, lục tuần. Đặc biệt là trước ngày Tết, tá điền phải đến làm cỏ vườn,  bửa củi, xay lúa, chèo ghe. Ngoài số lúa ruộng ghi trong giấy mướn đất, tá điền còn góp một  số hiện vật gọi là “công lễ”, thì dụ như vài lít rượu nếp thứ ngon, một thúng nếp trắng, một  cặp vịt vào dịp đám giỗ trong gia đình chủ điền hoặc ngày Tết, theo kiểu chư hầu cống sứ  cho thiên tử. Đáp lại, nhiều chủ điền tỏ ra rộng lượng, bố thí và tích đức cho con cháu mình  bằng cách đốt bỏ giấy nợ của tá điền, loại giấy nợ không thanh toán nổi từ mấy năm trước vì  mất mùa hoặc đau yếu.

Thân phận đàn ông làm tá điền gẫm lại còn khỏe hơn đàn bà. Đàn bà trong gia đình  nghèo lo lắng cực nhọc, trong ngoài: gặt lúa, cấy lúa, bửa củi, nuôi heo gà, xay lúa giã gạo,  lại còn nuôi con. Con trẻ lớn lên đôi khi trở thành một thứ động sản mà cha mẹ đem cầm cố cho người khác để chăn trâu, khi nào dứt nợ hoặc đủ tiền chuộc thì mới được về nhà.

Về mức sống cụ thể của chủ điền, chúng tôi không sưu tầm được tài liệu để so sánh,  hoặc trường hợp tiêu biểu. Trong tài liệu của Luro, có sao lục lại tờ chia gia tài của một chủ  điền ở Tân Thành phủ, Vĩnh Phước thôn, tỉnh An Giang tức là địa phận Sa Đéc đất ruộng  phì nhiêu. Ông điền chủ này kê khai tài sản để chia cho con cái:

-  3 sở đất cộng là 75 mẫu

-  2 đôi xuyến vàng

-  7 đôi bông vàng

-  10 đôi xuyến bằng vàng (tử kim)

-  4 bộ ngũ sự (chưn đèn, lư hương...)

-  10 xâu chuỗi hổ (hổ phách)

-  50 đính bạc, mỗi đính 10 lượng, tức là 500 lượng bạc.

-  1000 đồng bạc “điểu ngân” (bạc con ó Mễ Tây Cơ)

-  15000 quan tiền kẽm

và một số nợ mà người khác chưa trả cho ông.

Ông điền chủ nói trên làm tờ chia gia tài vào năm Minh Mạng thứ 20 (1839), để lại  một nhà ngói ba căn, chẳng hiểu ngoài nghề làm điền chủ, cho tá điền vay, ông còn buôn  bán gì khác chăng?

Về giá đất, có vài tài liệu như sau, lẽ dĩ nhiên giá thay đổi tùy theo địa phương, tùy  loại đất hoặc vị trí gần xa đường giao thông, chợ phố.

-  Đất tốt (thảo điền) ở Định Tường: 10 mẫu, 9 sào, 8 thước trị giá 1682 quan, bán đứt,  năm Thiệu Trị thứ 7.

-  Đất hơi xấu (sơn điền) ở Phú Mỹ thôn (vùng Thị Nghè), Gia Định: 5 mẫu, 6 cao, 7  thước, cố vô thời hạn (mại lai thục) với giá 650 quan, khi có tiền cứ chuộc lại đúng số tiền  trên không ăn lời, năm Tự Đức thứ 5.

-  Đất ở Long Thành (Biên Hòa) loại sơn điền: 2 mẫu, 3 sào cầm với giá 190 quan, hẹn 3 năm thì chuộc lại, trả vốn và lời theo luật định (3 phân), năm Tự Đức thứ 5.

Về lúa ruộng (nay gọi là địa tô, xưa gọi là tá túc) ở làng Nhơn Ngãi, tổng Dương Hòa  Trung, tỉnh Vĩnh Long: 10 mẫu đất cho tá điền mướn với giá là 50 phương lúa, hẹn tháng 2  âm lịch năm sau, khi làm mùa xong phải đong cho chủ điền. Thuế điền thì do chủ điền  đóng, năm Tự Đức thứ 4.

Về lúa ruộng ở làng Vĩnh Điền, phủ Tịnh Biên, tỉnh Châu Đốc: mướn sơn điền 10 mẫu  trong 10, mỗi năm 500 quan tiền mặt hoặc thay vào đó, đong lúa hột (húc tử) 500 giạ. Tá  điền phải đong lúa hoặc trả tiền vào tháng 2 âm lịch, sau khi làm mùa. Chủ điền chịu đóng  thuế điền cho nhà nước, nếu trong thời gian trên tá điền không canh tác hết, còn đất bỏ hoang phế thì khi giao trả đất cho chủ điền, phải làm cỏ cho sạch, năm Qů Dậu (1873) khi người Pháp vừa xâm chiếm nước ta.

Về việc mướn trâu của chủ điền để cày và kéo lúa, ở làng Mỹ Trà (Cao Lãnh): mướn  một con trâu đực 6 tuổi, một con trâu cái 5 tuổi, mỗi năm trả 80 giạ, vào năm Bính Ngọ (đời  Thiệu Trị, 1846). Nếu trâu đau thì cho chủ biết kịp thời, phòng khi trâu chết có chứng cớ.

Bán trâu ở làng Tân Sơn (Vĩnh Long): một con đực 5 tuổi, một con cái 4 tuổi và một  con nghé chưa đủ 1 tuổi với giá 400 quan, năm Giáp Tuất (1874) khi người Pháp đã qua xứ ta.

Tài liệu nói trên chỉ là giấy tờ, trên thực tế chắc có khác. Lại còn vài tài liệu về giấy nợ,  nhưng chỉ ghi là ăn 3 phân lời theo luật định (trong thực tế, theo Luro, việc cho vay lúa ăn làm mùa tính lời 50 phần trăm trong vòng năm ba tháng). Lại còn vài chủ điền bắt ép tá  điền phải vay mặc dầu tá điền đã đủ ăn, nếu không vay nợ thì chủ điền không cho mướn đất  ruộng.

Người có đất thì ít khi nào chịu bán đứng vì còn bận bịu về tình cảm, về thể diện với  xóm làng. Hơn nữa, còn chữ hiếu. Ông bà để đất lại, con cháu phải gìn giữ cho bằng được,  nhiều khi mồ mả ông bà còn nằm trong ấy. Bởi vậy, túng tiền thì đem đất mà cầm hoặc cố;  cầm thì phải chịu lời, trong khi cố thì không chịu tiền lời. Lắm khi vì cần tiền nhiều và nhắm sức mình khó trả, chủ đất đem cố trong thời hạn 10 hoặc 20 năm (lệ quy định quá 30  năm, con nợ không được quyền chuộc lại). Trong suốt thời gian đất bị cầm hoặc cố, thường là  người chủ nợ hưởng lợi, đem đất ấy cho người khác canh tác mà thâu lúa ruộng.

Việc cầm cố thường xảy ra, nhứt là đối với người có đứng bộ vài sở đất. Họ không dám  vay nợ quá nhiều, vì vay nhiều thì chẳng cách nào trả nổi. Vay bạc (không có đất cầm hoặc cố) thường chịu lời hơn 50 phần trăm mỗi năm; dầu cho tiết kiệm và mùa màng thâu hoạch  ở mức trung bình, huê lợi ruộng nương chỉ đem lời độ 20 phần trăm mà thôi.

Cách đo lường thời đàng cựu

Đời Tự Đức, đơn vị để đo là một thước, còn gọi là thước quan, lấy tiêu chuẩn là 22 đồng  tiền đời Gia Long sắp liền nhau; phỏng định tương đối chính xác là 526 ly (tức là hơn 5 tấc  2, tính theo mét).

Một thước quan chia ra 10 tấc, 1 tấc 10 phân.

Để đo diện tích ruộng đất, lệ xưa định một mẫu là diện tích của một hình vuông mỗi góc 150 thước quan; tính ra mẫu tây (hectare) là 62 ares, 2521. Theo cố đạo Tabert thì một  mẫu thời đàng cựu to hơn, là 73 ares, 0890.

Một mẫu chia ra 10 sào.

Một sào chia ra 15 thước, còn gọi là cao.

Người thời xưa quan niệm đơn giản rằng mẫu là sở đất hình vuông; sào là sở đất hình  chữ nhật với bề ngang là 15 thước, bề dài là 150 thước.

Người Pháp ra nghị định ngày 3/10/1865 để thống nhứt việc đo đạc, họ quy định đại  khái 2 mẫu ta ngày xưa là một mẫu tây (hectare). Như vậy có sự sai biệt, thật ra, hai mẫu  ta là 125 ares tức là to hơn một mẫu tây.

Một mẫu tây chia ra 100 sào tây (100 ares).

Về đong lường, trên nguyên tắc thì dùng hộc để đong lúa, dùng vuông để đong gạo.

Một hộc chia ra 26 thăng, một thăng là 10 hiệp, một hiệp là 10 thược. Một hộc tính ra 71 lít, 905, đem cân nặng cỡ một tạ.

Một vuông chia ra 13 thăng (phân nửa của hộc) tính ra nhằm 35 lít, 953.

Một hộc lúa khi xay ra thì được một vuông gạo, tính đổ đồng.

Trong thực tế, khi mua bán đổi chác, người dân thường đong lúa gạo bằng vuông, gọi nôm na là “giạ”.

Người Pháp quy định một vuông là 40 lít, lúc ban đầu còn thâu thuế điền bằng lúa và  một số tiền mặt theo lệ đằng cựu. Một vuông nâng lên là 40 lít thay vì non 36 lít như thời  xưa, có lợi cho nhà nước thực dân hơn, dễ tính toán, với con số tròn trịa là 40 lít.

 Xem tiếp chương 2

Nguồn: Viet Nam Thu Quan

Lên trên

Cùng chủ đề

  • Sách “Di sản Ấn Độ trong văn hóa Việt Nam”

  • Nguyễn Văn Bốn. Tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt ở Khánh Hòa

  • Sách: Quản lý và khai thác di sản văn hóa trong thời kỳ hội nhập

  • Hồ Sĩ Quý. Con người và phát triển con người

  • Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 3

Thông báo

Tư vấn khoa học và kỹ năng nghiên cứu…

Tủ sách văn hoá học Sài Gòn

  • Thư viện ảnh
  • Thư viện video
  • Tủ sách VHH

Phóng sự ảnh: Toạ đàm khoa học: Xây dựng…

Hình ảnh văn hóa Tết xưa (sưu tầm)

Phóng sự ảnh: Lễ hội truyền thống VHH 2011

Phóng sự ảnh Lễ hội truyền thống VHH 2010

Thành phố Sankt-Peterburg, Nga

Bộ ảnh: Việt Nam quê hương tôi 2

Tranh Bùi Xuân Phái

Bộ tem tượng Phật chùa Tây Phương

Bộ ảnh: Đá cổ Sapa

Bộ ảnh: Phong cảnh thiên nhiên

Bộ ảnh: Việt Nam quê hương tôi

"Biển, đảo Việt Nam - Nguồn cội tự bao đời":…

Con dê trong văn hóa và văn hóa Việt Nam

Văn hóa Tết ở Tp.HCM (Chương trình truyền…

Văn hóa Tp. HCM: Một năm nhìn lại và động…

Phong tục Tết cổ truyền của người Nam Bộ

Bánh tét và Tết phương Nam

Con ngựa trong văn hóa và văn hóa Việt Nam

Điện Biên Phủ - Cuộc chiến giữa hổ và voi

Nhìn lại toàn cảnh thế giới từ 1911-2011…

Tọa độ chết - một bộ phim Xô-Việt xúc động…

Video: Lễ hội dân gian Việt Nam

Văn hoá Việt từ phong tục chúc Tết

Văn hoá Tết Việt qua video

Tết ông Táo từ góc nhìn văn hoá học

“Nếp nhà Hà Nội” trên “Nhịp cầu vàng”: tòa…

Văn hóa Thăng Long - Hà Nội qua video: từ…

Hướng về 1000 năm TL-HN: Xem phim “Tử Cấm…

Hướng về 1000 năm TL-HN: Người Thăng Long…

Phim "Chuyện tử tế" – tập 2 (?!) của “Hà…

Default Image

Hướng về 1000 năm TL-HN: "Chuyện tử tế" -…

Sách “Di sản Ấn Độ trong văn hóa Việt Nam”

Nguyễn Văn Bốn. Tín ngưỡng thờ Mẫu của người…

Sách: Quản lý và khai thác di sản văn hóa…

Hồ Sĩ Quý. Con người và phát triển con người

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 3

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 2

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 1

Hồ Sỹ Quý. Tiến bộ xã hội: một số vấn đề về…

Hồ Sỹ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á (Phụ…

Hồ Sỹ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á…

Hồ Sĩ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á…

Sách: Chuyên đề Văn hoá học

Sách: Một số vấn đề về hệ giá trị Việt Nam…

FitzGerald. Sự bành trướng của Trung Hoa…

Hữu Đạt. Đặc trưng ngôn ngữ và văn hoá giao…

Sống chụ son sao (Tiễn dặn người yêu)

Gs. Mai Ngọc Chừ. Số phận & Tâm linh

Trần Văn Cơ. Những khái niệm ngôn ngữ học…

Đoàn Văn Chúc. Văn hóa học (Phần 3 - hết)

Đoàn Văn Chúc. Văn hóa học (Phần 2)

Các nhà VHH nổi tiếng

Julian Haynes Steward

Wen Yi'duo (Văn Nhất Đa)

Leslie Alvin White

Huang Wen'shan (Hoàng Văn Sơn)

Radcliff-Brown, Alfred Reginald

Sapir, Edward

Margaret Mead

Thăm dò ý kiến

Bạn thích cuốn "Cơ sở văn hoá VN" của tác giả nào nhất?

Chu Xuân Diên - 4.8%
Lê Văn Chưởng - 0.9%
Trần Diễm Thuý - 1%
Trần Ngọc Thêm - 37.4%
Trần Quốc Vượng - 53%
The voting for this poll has ended on: 26 06, 2020

Tổng mục lục website

tong muc luc

Tủ sách VHH Sài Gòn

tu sach VHH SG

Thống kê truy cập

  • Đang online :
  • 119
  • Tổng :
  • 3 8 1 8 4 1 9 5
  • Đại học quốc gia TPHCM
  • Đại học KHXH&NV
  • Tran Ngoc Them
  • T.c Văn hóa-Nghệ thuật
  • Tc VHDG
  • Viện NCCN
  • Khoa Văn hóa học
  • Khoa Đông phương học
  • Phòng QLKH
  • Khoa Việt Nam học
  • Khoa Hàn Quốc học
  • BM Nhật Bản học
  • Khoa Văn học - Ngôn ngữ
  • Khoa triết học
  • Khoa Quan hệ quốc tế
  • Khoa Xã hội học
  • Bảo tàng Lịch sử - Văn hóa
  • viettems.com
  • myfaifo.com
Previous Next Play Pause

vanhoahoc.vn (các tên miền phụ: vanhoahoc.edu.vn ; vanhoahoc.net)
© Copyright 2007-2015. Bản quyền thuộc Trung tâm Văn hóa học Lý luận và Ứng dụng, Trường Đại học KHXH & NV - ĐHQG Tp. HCM
ĐT (028) 39104078; Email: ttvanhoahoc@hcmussh.edu.vn; ttvanhoahoc@gmail.com. Giấy phép: số 526/GP-BC, do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 27-11-2007
Ghi rõ nguồn vanhoahoc.vn khi phát hành lại các thông tin từ website này.

Website được phát triển bởi Nhà đăng ký tên miền chính thức Việt Nam trực thuộc Trung Tâm Internet VNNIC.

Tủ sách Văn hoá học