1.Kiến trúc với văn hóa chợ
Xét theo góc độ này thì kiến trúc chợ là một món nợ dai dẳng của giới kiến trúc sư cả nước trong gần ba thập kỷ qua.Nói như vậy không phải để xét công của ai, lỗi ở ai. Mà để xem liệu chúng ta có nhìn nhận đủ nghiêm túc chưa trong việc tạo dựng hàng ngàn ngôi chợ trên cả nước thời gian qua.
Xây chợ mới mà vẫn như còn hoài vọng chợ cũ
Đây là nghịch lý phổ biến trong những cố gắng phát triển hình ảnh ngôi chợ mới. Từ những năm của thập kỷ 80, khắp cả nước bắt đầu "cơn dịch" xây chợ. Hoặc xây chợ trên đất mới theo quy hoạch, hoặc xây dựng chợ trên nền chợ cũ. Cứ tưởng hình ảnh những ngôi chợ mới đã không kéo theo một sự phát triển mới là do nền thương nghiệp bao cấp của một thời đã không còn phù hợp nhưng mãi đến nay, chợ mới vẫn tiếp tục xây, mà tình trạng tẻ lạnh của kẻ bán người mua vẫn còn là vấn đề nổi cộm.
Chợ mới khang trang nhưng bỏ trống lớn hoặc mở cửa có giờ như siêu thị. Sân bãi chợ nhếch nhác dù che, mái hắt thì tấp nập ngày đêm. Sự tấp nập, tưng bừng đó giống như hàng chục, hàng trăm cái chợ chồm hỗm đã kéo về làm hội- và đâu đó trong khắp ngõ ngách nông thôn, thị tứ, chợ nhỏ chợ hẻm vẫn cứ sinh sôi; nhiều khi sinh sôi trong áp lực giải tỏa hàng ngày.
Có lý nào người ta không muốn đánh đổi sự nhếch nhác, lầy lội, nắng mưa để lấy một chỗ tiện nghi, khang trang hơn trong những ngôi chợ mới. Rõ ràng có một điều bất cập lớn trong các dự án chợ mới. Người ta đã may áo đẹp mà mặc không vừa, đôi khi không mặc.
Kiến trúc chợ không phải là một thứ "kiến trúc tương tự chợ"
Chợ là một hình ảnh tổng hợp của nhiều sinh hoạt cộng đồng bắt nguồn từ nhu cầu giao dịch, đổi chác. Sự tụ tập thuận lợi và giao tiếp thuận lợi là quy luật hình thành cơ bản. Có thể hình dung tế bào chợ nguyên thủy là những nơi nhóm chợ phiên của người vùng cao, có con suối chảy qua và nhất là thuận đường, thuận cự ly cho người mua bán quanh vùng. Ở đồng bằng, mỗi một đầu cầu đều mang mầm mống chợ. Vì đó là ngã tư giao thông thuận tiện. một không gian phủ bóng ít cây cao hay vài dây dại che nắng đơn sơ phải chăng là hình ảnh đầu tiên về quy hoạch kiến trúc chợ.
Mật độ thụ họp tăng dần, người mua kẻ bán đông hơn, thường xuyên hơn, làm vệ sinh, ở trọ...Cạnh đó, các mặt hàng chuyên ngành đòi hỏi người bán phải có chành, vựa hoặc cơ sở thường xuyên ở chợ. Vậy là phố chợ mọc lên, phát triển vòng trong, vòng ngoài. Nhìn một "nhà lồng" chợ khang trang, to đẹp không ai lại nghĩ rằng nó luôn có sau những dãy phố chợ đầu tiên. Kiến trúc chợ là kết quả của một giai đoạn phát triển chợ sau khi sinh hoạt và phố chợ đã hình thành theo quy luật của nó. Nhà lồng chợ chỉ là một mái che lớn không cổng ngõ để che nắng che mưa cho một số quầy sạp hàng đã ổn định mối lái, thị phần hoặc loại hàng ngại nắng mưa bụi bẩn.
Nhưng nguyên tắc tổ chức của một nhà lồng chợ là vẫn phải đảm bảo tối đa và đồng đều cơ hội tiếp cận với khách mua của mọi quầy sạp. Nhà lồng chợ luôn thoáng mở mọi hướng, bởi vậy mới có cụm từ "ngủ thớt thịt" để chỉ hoàn cảnh sống lang thang không nơi cư trú.
Ở những chợ đã có quy mô định hình luôn có một quảng trường rộng trước chợ. Nơi đây chứa đựng nhiều dấu vết ban đầu của một khu họp chợ: buôn bán hoa trái, tụ tập quảng cáo, những phương tiện trung chuyển. Buổi tối thì thành chợ đêm nhộn nhịp vui vẻ. Hai bên hông chợ giữa nhà lồng và phố chợ là không gian cơ động cho những người buôn bán theo mùa vụ, lễ tết với dù, giại che nắng nhẹ nhàng cơ động.
Những khu chợ đã có tầm vóc phát triển lớn thì chợ và phố là cả một mạng không gian lan tỏa với từng khu vực chuyên doanh đã nuốt chửng khi chợ để trở thành chợ đầu mối. Còn loại chợ hàng ngày, phù hợp với tập quán, mức sống của từng cộng đồng dân cư vẫn bình yên hoạt động hoặc lại có khu chợ mới sinh sôi trong cộng đồng cư dân mới.
Thành phố phát triển, tập quán mới du nhập, sự hình thành các cửa hàng bách hóa nhiều hơn trước, hay những siêu thị mini, những phức hợp siêu thị, giải trí lớn là điều hợp quy luật và phù hợp với một bộ phận thị dân hoặc một nhu cầu giao dịch khách hàng ngoài chợ của đa số thị dân.
Vậy vấn đề không nằm ở chỗ ủng hộ hay không ủng hộ những mô hình thương mại mới. Không nằm ở chỗ ủng hộ hay không ủng hộ chợ truyền thống. Mà hãy để kiến trúc mới của chợ phản ánh đúng bản chất của sinh hoạt chợ và phố chợ.
Đã có nhiều "kiến trúc tương tự chợ" đã được xây dựng làm chợ nên thất bại.Chợ mà có nhiều tầng như cửa hàng bách hóa tổng hợp, tối tăm, bất tiện nên phải bỏ trống quầy sạp.
Chợ mà không có sân rộng (bãi chợ), tù túng, không có bộ mặt và tiện ích giao thông, trung chuyển nên người mua ngại tới. Chợ mà cửa đóng then cài một vài lối vô, một số ít quầy sạp chiếm mặt tiền chu vi chợ, nhốt bao nhiêu quầy sạp khác vào trong, rất lãng phí.
Thú vui rất văn hóa, rất hấp dẫn du khách khi đến một địa phương là đi chợ,là phố đêm, là bến nước đặc thù nhưng nhiều kiến trúc chợ mới chỉ nhằm nhận được nhiều quầy cho thuê, nhồi nén vào một cái vỏ kiến trúc lặng lẽ, đầu tư cầu kỳ. Nhưng quanh đó thì vẫn nhếch nhác mà sôi động một bãi chợ thật nhưng không được đầu tư tương xứng.
Đã từng có một câu đùa pha chút chua chát cề sự chủ quan khi làm chợ" "Xây chợ để đá cầu- làm cầu để họp chợ".Quả thật, những quy luật xã hội rất âm thầm nhưng vô cùng mạnh mẽ. Nó luôn lặng lẽ sửa sai mọi áp đặt, trong đó có những áp đặt trên quy luật hình thành và phát triển chợ.
Sự vẫn còn mệt mỏi dai dẳng của việc giải phóng chợ cóc, lòng lề đường và hẻm phố vì dù không chuẩn bị đủ không gian giao tiếp thương mại trong quy hoạch- vẫn còn sự thiếu hiệu quả triền miên trong việc lôi kéo mọi người mua bán vào trong những ngôi chợ nặng chuyện phân lô mà nhẹ phần giao tiếp.
Vẫn còn những bất cập ấy một khi chúng ta chưa đối xử công bằng, đúng đắn với chợ ở góc độ một nếp văn hóa có quy luật hình thành và phát triển. Chỉ như vậy mới có được những đơn đặt hàng đúng tầm cà những công trình kiến trúc chợ mới có chỗ đứng trong sinh hoạt văn hóa công đồng.
2. Biết sẽ bỏ hoang – vẫn xây chợ
Trong bài phỏng vấn của Tuần VN, KTS Nguyễn Văn Tất đã đề cập đến những kinh nghiệm thực tế rất phong phú của mình liên quan đến vấn đề thiết kế, phát triển chợ.Ông nhấn mạnh: vấn đề cơ bản là sự quan liêu, máy móc, vô trách nhiệm của bộ máy quản lý và thiết kế chợ. Người ta biết chợ sẽ bỏ hoang, không dùng được nhưng vẫn cứ xây, xây chỉ để bỏ hoang; người ta biết chợ hoạt động khác, nhưng vẫn thiết kế chợ kiểu trung tâm thương mại; người ta có cảm nhận chợ không chỉ là nơi phân phối hàng hóa mà còn là nơi giao tiếp mang tính văn hóa, xã hội của chợ – nhưng không làm gì cả để chống lại các quy định vô lý; người ta thiết kế chợ khi không có đơn đặt hàng đúng đắn, khi còn thiếu hiểu biết về hoạt động của chợ.
Dù vậy, cách nhìn của Nguyễn Văn Tất có vẻ vẫn mang sắc thái áp đặt điển hình của bộ máy quản lý thiết kế hiện tại: ông tin rằng có mô hình chợ “hiện đại”, ưu việt, mà mang đủ tính văn hóa xã hội. Ông tin rằng, chỉ cần có “đơn đặt hàng” đúng, có thiết kế đúng, là chúng ta có thể xây dựng được hệ thống chợ có chất lượng cao.
Liệu cách nhìn này có thật chính xác không? thế nào mới là đơn đặt hàng đúng, thế nào mới là thiết kế tốt? Khi kiến trúc sư, hay nhà quản lý có tiếng nói quá lớn về việc “chợ nên làm thế nào” – liệu các sản phẩm họ làm ra có thể có đủ độ phong phú, linh hoạt, đáp ứng các nhu cầu liên tục thay đổi của người sử dụng và đặc thù của các chợ không?
Chợ, giống như đô thị, không phải là thực thể bị giới hạn bởi hình thái vật lý (công trình) – nên hình thái vật lý chỉ vừa là công cụ, vừa là những dấu mốc phát triển. Coi hình thái vật lý, nhất là coi giá trị thẩm mỹ của các hình thái này, là cái đích phát triển của chợ (thậm chí đô thị) đơn giản là không đúng. Đối với chợ, hàng hóa, người bán, người đi chợ, văn hóa giao tiếp, những thủ tục, thói quen, chính là chợ. Trong đó, các hình thái vật lý thân quen, gần gũi, được nhiều người yêu mến (có thể là gốc cây, cái miếu, hay bến nước), là những yếu tố khẳng định bản sắc và tính truyền thống của chợ.
Khi đập bỏ chợ cũ, xây lên cấu trúc “chợ mới”, người ta đã phá bỏ mọi yếu tố truyền thống và bản sắc của chợ. Tình hình càng tệ hại hơn khi “chợ mới” tạo ra các hình thái vật lý cản trở hoạt động của chợ, “đuổi” cả người bán người mua ra ngoài, làm nghèo nàn hàng hóa, trong khi không tạo ra nếp sống hay không gian giao tiếp gì tốt đẹp hơn. Làm “chợ mới” như vậy thực ra là giết chợ, cả về mặt kinh tế lẫn văn hóa, với cái giá không nhỏ lấy từ ngân sách chung. Nhiều khi trớ trêu, việc “giết chợ” lại được thực hiện với tâm ý tốt rằng người ta đang hiện đại hóa chợ, đang nâng cao đời sống nhân dân, đang củng cố bản sắc chợ (dù chỉ với vài ba hình thức kiến trúc) Vì thế, không thể để cho giới kiến trúc sư hay các nhà quản lý (vốn hay tự phụ rằng mình có tầm nhìn hơn người) được có quá nhiều quyền kiểm soát tương lai hay hình thức của chợ.
Mọi ngôi chợ, nhất là chợ cũ, có lịch sử hình thành phát triển và các giá trị trong đó. Điều đáng can thiệp duy nhất là sử dụng công cụ quản lý để hạn chế hay loại trừ các vấn đề nảy sinh – mà có thể gây ảnh hưởng đến VS, sức khỏe, sự an toàn, hoạt động chung hàng ngày cũng như các giá trị đặc trưng của chợ. Hạn chế mọi vấn đề tiêu cực và cải thiện không ngừng các chất lượng khác nhau (công năng, vệ sinh, hình thức, tiện nghi, bản sắc…) của chợ, mới là cách phát triển chợ đúng đắn nhất.
Muốn có chợ ra chợ thì việc đầu tiên là phải có nghiên cứu, công nhận đúng mức công năng chợ, từ đó mới có đơn đặt hàng đúng đắn cho KTS. KTS căn cứ vào đó để thi thố, đưa ra mô hình vật chất và kiến trúc cho ngôi chợ, tất nhiên phải kèm với phố chợ nữa – KTS Nguyễn Văn Tất, Phó Chủ tịch Hội KTS Việt Nam.
Cái chợ đã bị “thủ tiêu”!
- Trong ký ức của anh, cái chợ hiện lên như thế nào và chợ theo ký ức ấy đã “biến mất” từ lúc nào?
- Về góc độ quản lý nhà nước, cái chợ đã bị “thủ tiêu” ở miền Bắc từ thời kế hoạch hóa kinh tế quốc dân. Lương thực, thực phẩm, nhu yếu phẩm, công nghệ phẩm… đều được phân phối bởi Nhà nước. Chợ chỉ còn là nơi trao đổi lặt vặt các sản phẩm mà nhà nước không quản lý như vài con gà, dăm cái trứng, con cá mớ rau… của người dân và các nông trang. Tiếng là đô thị nhưng đến quán phở, quán cafe cũng không có. Tất cả là mậu dịch quốc doanh thì cái chợ đã bị thủ tiêu. Còn cái chúng ta thấy chỉ là cái xác vất vưởng của chợ thôi. Sau khi thống nhất đất nước, chợ ở miền Nam cùng bị kìm hãm theo mô hình đó.
Mãi đến những năm mở cửa, chợ bắt đầu có tiếng nói của nó nhưng rất tiếc, tất cả những dự án xây chợ lại được xây dựng, phê duyệt theo ý chí của những người đã quá quen xây bách hóa tổng hợp.Nếu bạn bỏ công đi chụp chợ bỏ hoang thì nhiều lắm. Chợ hoang theo nghĩa không hoạt động, hoặc hoạt động rất ít, chỉ ở dưới đất, còn các tầng trên thì hầu như bỏ trống. Trong khi đó thì phần che vội vàng, tạm bợ ở ngoài sân chợ hoặc các khu phố xung quanh chợ, lại rất tấp nập
.- Mô hình chợ thất bại như vậy, sao tỉnh thành nào cũng thấy xây chợ mà xây khá to, khá tốn kém?
- Vì sự đua tranh phát triển của tất cả các tỉnh. Khi một tỉnh được xây dựng chợ mới, có kinh phí để xây chợ thì các tỉnh khác cũng đòi cho bằng được một mô hình chợ ở tỉnh mình dù là biết xây xong sẽ bỏ mặc nó muốn ra sao thì ra. Vậy là sai lầm được nhân lên nhiều lần.Cho đến thời điểm này, tôi vẫn khẳng định chúng ta vẫn chưa có một ngôi chợ thật sự, đúng nghĩa.
Tất nhiên, ngôi chợ đó không thể giống 100% chợ truyền thống xưa kia. Nhưng để có một cái chợ hiện đại xuất hiện thì KTS hay chính quyền địa phương không thể quyết định tất cả, mà phải có một quan điểm thực sự có giá trị khoa học xã hội về sự tồn tại, vai trò của một cái chợ hiện đại. Đến nhiệm vụ thiết kế còn không rõ ràng thì làm sao vẽ ra ngôi chợ được?
Điều này tôi có thể nói rất chắc chắn, vì tôi đã tham gia một vài phương án xây chợ, trong đó có chợ Biên Hòa ở quê hương tôi. Tôi đã rất hào hứng với ngôi chợ thân thương này, lại được sự ủng hộ của những người bạn làm chính quyền lúc đó, trong đó có ông Lê Hoàng Quân (nay là Chủ tịch TPHCM). Nhưng khi đụng đến quản lý Nhà nước về thương nghiệp là dội ngược ngay, vì đã có công thức cộng với thói quen quản lý quy định rồi. Tất cả những điều này lại không phù hợp cho một cái chợ “sống”. Quản lý Nhà nước về mặt thương nghiệp đã không phân biệt giao dịch hàng hóa ở chợ, và giao dịch hàng hóa ở trung tâm thương mại (TTTM).
Thích đi chợ chồm hỗm hơn trung tâm thương mại
- Ông nghĩ sao khi những ngôi chợ đang đìu hiu tàn tạ còn những TTTM lại bùng phát như nấm mọc sau mưa?
- Nhà báo thử ngẫm xem. Giao dịch hàng hóa ở TTTM là giao dịch trong tập quán mới của cư dân đô thị, vào TTTM là để thực hiện hành vi trao đổi hoàn toàn mang tính vật chất. Sự cô đơn và lặng lẽ ở chỗ đông người như thế, không bị stress mới lạ.
Còn chợ là dạng giao tiếp xã hội thông qua nhu cầu mua và bán. Ở đó không chỉ có mua và bán mà còn hàng trăm câu chuyện về giao tiếp giữa người với người, giữa hàng xóm láng giềng, giữa người quen, những câu chuyện không đầu không đuôi nhưng làm cân bằng lối sống, chất lượng sống của một bộ phận cư dân.
Đã có nhiều bài báo viết về sự thích đi chợ chồm hỗm (chợ cóc) gần nhà, chính vì họ phát hiện rằng cũng đến mua rau, mua cá, thịt… nhưng lại được nghe câu hỏi “Thằng cu Bi hôm trước sốt, hôm nay đỡ chưa cô?” không chỉ từ người bán mà cả từ hàng xóm láng giềng, rất ấm lòng.
Vợ chồng lãnh sự Mỹ ở TPHCM Tết vừa rồi đã có phát biểu rất hay, đại loại là “Tôi rất hạnh phúc khi đưa gia đình đi thăm đường hoa Nguyễn Huệ, hạnh phúc vì xung quanh tôi toàn tiếng Việt. Những câu chuyện không liên quan gì đến mình, nhưng mình phải nghe, phải hiểu, phải suy nghĩ, tạo thành chất lượng sống, chứ không phải chỉ đi ngắm hoa”. Những điều này, làm sao bạn có được khi vào TTTM?
- Ngày xưa chỉ có chợ, còn bây giờ người mua có rất nhiều lựa chọn. Nên nếu mô hình chợ mấy chục năm qua không thành công, họ sẽ có lý do để phá đi, xây các TTTM thế vào đó, chuyển chợ ra chỗ chật chội hơn, bé hơn?
- Nhà báo có biết ngay ở trung tâm SG vẫn có khu chợ cũ bên cạnh chợ Bến Thành, nằm trên đường thẳng góc đường Hàm Nghi, khu bánh mỳ Như Lan? Chợ cũ không lớn nhưng không phải chợ bình dân, mà là chợ cho dân nhà giàu. Khi đã biết họ bán hàng cho ai thì họ sẽ tuyển hàng trước, bán với mức giá người mua không nề hà nhưng phải đúng chất lượng.
Tất nhiên, chợ hiện đại có những đòi hỏi về công năng mới, nên phải thay đổi diện mạo để phù hợp, nhưng mục tiêu, công năng căn bản của chợ thì phải được xác lập một cách dứt khoát thì mới ra chợ.
Chợ phải là không gian giao tiếp cộng cảm
- Vậy công năng cơ bản của chợ phải là những gì, thưa ông?
- Ngoài chức năng là nơi mua bán thì chợ dứt khoát phải là không gian giao tiếp. Đã là giao tiếp thì phải thuận tiện, nếu TPHCM có trên 4 triệu xe gắn máy, khi có 2 tiếng đồng hồ trở lên thì có thể vào TTTM để mua sắm, chọn lựa thỏa thích, tiện nghi đàng hoàng.Nhưng khi chỉ có 15, 20 phút, thì mọi người cần giao dịch trực tiếp ở nơi gọi là chợ: Tạt qua, ghé qua chợ mua một bó rau tươi, một con cá tươi…
Chợ còn là nơi tập trung những đặc điểm văn hóa về nhiều mặt, từ ăn mặc, giao tiếp, ngôn ngữ, sản vật… chính điều đó tạo nên văn hóa chợ.
Mãi đến những năm mở cửa, chợ bắt đầu có tiếng nói của nó nhưng rất tiếc, tất cả những dự án xây chợ lại được xây dựng, phê duyệt theo ý chí của những người đã quá quen xây bách hóa tổng hợp.Nếu bạn bỏ công đi chụp chợ bỏ hoang thì nhiều lắm. Chợ hoang theo nghĩa không hoạt động, hoặc hoạt động rất ít, chỉ ở dưới đất, còn các tầng trên thì hầu như bỏ trống. Trong khi đó thì phần che vội vàng, tạm bợ ở ngoài sân chợ hoặc các khu phố xung quanh chợ, lại rất tấp nập. |
Không phải ngẫu nhiên mà ngay cả người Việt khi đi chơi, đi du lịch cũng ghé qua chợ địa phương để có cái nhìn nhanh chóng, bắt gặp ngay thứ mà vùng mình không có, để mua về làm quà.Trong khi đi dòm ngó, đi lấy những món hàng đó, cũng là lúc giao tiếp, hỏi han, tìm hiểu. Thậm chí nếu anh muốn trải nghiệm ngôn ngữ địa phương thì không nơi nào tốt bằng chợ cả. Người trong nước đã thế, với du khách thì chợ càng là điểm đến hấp dẫn.
Đặc điểm rất khác ở chợ là đa số cửa hàng phải có chào mời. Nghệ thuật chào mời được thể hiện đa sắc ở chợ, cả chục cửa hàng bán cùng một kiểu hàng hóa, phải chào mời thế nào để khách ghé vào cửa hàng của mình? Đãi bôi quá thì khách ngại, im lặng quá thì khách không biết đâu mà đến. Văn hóa ứng xử có cơ hội bộc lộ. Người đang học tiếng Việt đến chợ, nghe chào mời đã thấy sướng.Đó là lý do tại sao, cho đến thời kỳ hiện đại rồi mà những đất nước rất phát triển về kinh tế, du lịch vẫn chăm chút cho không khí chợ của người ta.
- Cấu trúc của chợ truyền thống sẽ như thế nào? Tôi tưởng tượng, một chợ quy mô lớn sẽ không thiếu cái gì cả? Vậy phải lớn đến mức nào mới “ôm” được hết?
- Một chợ theo truyền thống, nói ra thì những người đã sống qua thời chúng tôi đều nhớ rõ. Đầu chợ sẽ là một quảng trường lớn, bán những thứ hàng hóa đẹp, nhẹ nhàng, sạch sẽ, như bán hoa, trái cây, rồi phải có bãi rộng, cây lớn để tổ chức những nhóm sơn đông mãi võ bán thuốc…Sau trái cây, hoa quả thì đến nơi bán vải vóc, đồ tạp hóa, đồ khô, rồi mới đến dãy hàng ăn uống, sau đó là khoảng đồ tươi như rau, củ quả tươi, rồi đến thịt, cuối cùng mới là cá.Nghĩa là sắp xếp từ sạch sẽ tới ẩm ướt hơn, bẩn hơn, từ nhẹ nhàng đến xô bồ hơn. Những thứ hàng bán ở cuối chợ sẽ cần nhiều xe cộ, trung chuyển, vì phải chuyển hàng đến mỗi ngày, hàng cũng rất nặng nữa.
Nhưng đó mới là chợ. Bản thân chợ chỉ là lõi, nói đến chợ không thể không nói đến phố chợ. Chợ Đồng Xuân nếu không có phố xung quanh tham gia buôn bán thì không còn là chợ Đồng Xuân nữa. Nào là chỗ làm vàng bạc đá quý, chỗ ăn uống, rồi chành vựa ở những khu chợ đầu mối là rất quan trọng. Một sạp trong chợ không đủ, chỉ để phân phối lẻ, còn chành vựa là giao dịch bán buôn, hàng đến hay đi cũng đều có khối lượng lớn, đòi hỏi một không gian nhất định.Rồi trực tiếp với nó là dịch vụ ăn uống, chuyên chở, nhà nghỉ, giao dịch.Nhân đó cũng phải nói thêm không chỉ có một loại chợ, có thể kể ra vài kiểu như chợ đặc sản, chợ du lịch, chợ khu vực, có chợ lớn, chợ nhỏ, chợ cóc…
Riêng chợ cóc, trong Nam gọi là chợ chồm hổm chưa chắc ở thời đại này đã hết vai trò. Chỉ có điều khi quy hoạch trong một đô thị ngày càng đông dân thì có dành đất cho chợ chồm hổm không? Rất nhiều nơi, chính quyền địa phương kêu ca là chợ cóc gây rối trật tự, an toàn giao thông. Họ cương quyết dẹp bỏ, nhưng dẹp chỗ này thì nó lại mọc lên chỗ khác. Rõ ràng, kết luận của anh là hồ đồ, vì nhu cầu xuất hiện của nó là rất thật, nhưng anh lại không quy hoạch một nơi cần thiết, đúng quy luật cho nó. Chưa kể chợ cóc đó cũng phải được nâng cấp về mặt tổ chức cho phù hợp với tập quán và mật độ giao thông, phương tiện giao thông.
Không hiểu “văn hóa” chợ
- Câu chuyện xây chợ có gì đó giống với xây đường, mở đường. Lẽ ra tiền đấu thầu hai bên mặt đường có thể đủ để xây đường, nhưng Nhà nước lại bỏ ra rất nhiều tiền để đền bù, mà chẳng thu lại đồng nào cả. Cũng như xây chợ, bỗng dưng những người ở xung quanh chợ được lợi…
- Đúng vậy, Nhà nước bỏ rất nhiều tiền để làm đường, những người đang ở mặt đường bị dời đi với mức đền bù rất thấp, còn người ở trong ngõ tự nhiên sáng thức dậy lại ra mặt đường, thành giàu to.
Khoảng những năm 1983, 1984, người ta đã có ý định dời chợ Biên Hòa về sân đá bóng, xây chợ mới, với lý do chợ cũ chật quá. Lúc đó tôi có góp ý rằng đề nghị đó cực kỳ sai lầm, vì chợ Biên Hòa đã có 300 năm nay, 300 năm qua cái chợ này đã đủ xây nên khu phố chợ xung quanh quá lớn. Anh có thể dời chợ, nhưng không thể dời khu phố chợ theo được, nên dù có chuyển chợ ra một không gian rộng như sân bóng thì nó cũng không hoạt động được. Chưa kể đường xe không thuận tiện, không lẽ lại xây bến tàu mới, và phải dời bao nhiêu nhà cửa xung quanh, tốn bao nhiêu tiền của? May rồi sau đó họ không có tiền nên không làm nữa.
Nhưng giờ thì chợ Biên Hòa ở quê tôi đã xây mới, về thăm mà thấy nỗi buồn được nhân lên. Mình là dân trong nghề, ngôi chợ đã gắn bó với mình từ thủa nhỏ với nhiều kỷ niệm. Những cái hay mình cảm nhận được, cần phải giữ thì giờ đã mất. Người ta đã xây thành chợ 2 tầng, tầng trên lác đác có hàng ăn uống, tầng dưới xây theo kiểu vây kín xung quanh cứ như bít lối vào trong khu chợ chính.
Chợ mà xây cao 4, 5m ở tầng một, theo đúng quy định, nhưng quầy sạp ở trong chợ lại làm trần riêng, chỉ khoảng 2.5m. Khoảng 2m ở trên bỏ trống, họ dùng dây kim loại để treo dàn đóng trần, che sạp lại. Lên cầu thang vừa khỏi nóc sạp nhìn thấy một rừng dây rợ, rác, bụi, bịch nylon rớt đầy, trông rất bẩn.
Ký ức của tôi về chợ là sự mênh mông, đông đúc, sôi động. Chợ gần như không ngủ, sinh hoạt buôn bán đã gần trọn 24/24. Từ 2, 3h sáng đến 5h sáng là chợ bán xỉ, sáng bảnh mắt là chợ hoa, trái cây. Đến tối lại ra khu chợ để vào những hiệu sách mua sách, băng đĩa nhạc, rồi ăn chè ở đầu chợ. 11, 12h khuya thì ở cuối chợ có mấy hàng bán cháo trắng hột vịt muối, ăn cháo, ăn ốc… Chợ hoạt động suốt ngày đêm như thế.
Bây giờ, người ta xây cửa hàng bách hóa tổng hợp rồi gọi là chợ. Những người ra đề bài xây chợ bây giờ đã mất giao tiếp với văn hóa chợ.
Mơ một cái chợ hiện đại, thân thuộc
- Vậy trong hình dung của anh, chợ hiện đại sẽ như thế nào? Không thể cứ giữ mãi sự “nhếch nhác” như đặc trưng riêng của chợ?
- Tôi hình dung chợ giống như một khu hành lang có mái che, người ta cứ đi, cứ mua nhưng có một logic cho đường đi thông suốt, ánh sáng đầy đủ, khoảng trống có thể che ô làm ăn uống, giải khát… Có những khoảng hành lang rộng đưa ra để làm hub (trung tâm) về mặt giao thông, xe xích lô, tải nhẹ, taxi, gắn máy… hàng họ có chỗ vào, ra thuận tiện.Một chợ mênh mông như thế, rất cần logic giao thông để khách đến chợ thấy thoải mái, nhanh chóng tiếp cận khu bán loại hàng anh muốn, và có cách thưởng ngoạn bằng một trục chính nào đó thì có thể đi hết chợ, lúc nào cần dừng thì có giải khát, cần ăn, cần nghỉ có view đẹp.
Một điểm quan trọng là chợ phải mở chứ không thể kín bưng. Hồi xưa tại sao chợ không cửa? Vì sạp chính là kho, có cửa mở, có khóa, hoặc người ta đậy ở trên rồi khóa lại. Chợ lúc nào cũng thoáng, có ánh sáng, có gió, giờ họ quây hết xung quanh, đóng cửa sắt lại. An Giang xây chợ 200 sạp nhưng chỉ bán được không tới 50 sạp ở mặt ngoài. Ban đầu giá chênh lệch rất ít giữa mặt ngoài và ở giữa, nhưng sau đó những sạp ở bên ngoài giá rất cao vẫn có người sẵn sàng mua lại, còn ở trong giữ đúng giá cũ vẫn không ai mua.
Muốn có chợ ra chợ thì việc đầu tiên là phải có nghiên cứu, công nhận đúng mức công năng chợ, từ đó mới có đơn đặt hàng đúng đắn cho KTS. KTS căn cứ vào đó để thi thố, đưa ra mô hình vật chất và kiến trúc cho ngôi chợ, tất nhiên phải kèm với phố chợ nữa.
Nguồn: Bài phỏng vấn KTS. Nguyễn Văn Tất trên Tuần VN (17/3/2011), do Khánh Linh, NTBinh thực hiện, URL: http://tuanvietnam.vietnamnet.vn