logo

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
    • Thư ngỏ
    • Khái quát về Trung tâm
    • Nhân lực Trung tâm
      • Thành viên Trung tâm
      • Cộng tác viên
    • Giới thiệu Khoa Văn hóa học
      • Khái quát về Khoa
      • Nhân lực của Khoa
  • Tin tức
    • Tin nhà (Trung tâm)
    • Tin ngành
    • Tin liên quan
  • Đào tạo - Huấn luyện
    • Các chương trình
    • Tổ chức và Hiệu quả
    • Đào tạo ở Khoa VHH
      • Chương trình đào tạo
      • Kết quả đào tạo
  • Nghiên cứu
    • Lý luận văn hóa học
      • LLVHH: Những vấn đề chung
      • VHH: Phương pháp nghiên cứu
      • VHH: Các trường phái - trào lưu
      • Loại hình và phổ quát văn hóa
      • Các bình diện của văn hóa
      • Văn hóa học so sánh
      • Vũ trụ quan phương Đông
      • Văn hóa và phát triển
      • VHH và các khoa học giáp ranh
    • Văn hóa Việt Nam
      • VHVN: Những vấn đề chung
      • Văn hóa cổ-trung đại ở Viêt Nam
      • Văn hóa các dân tộc thiểu số
      • Văn hóa Nam Bộ
      • Văn hóa nhận thức
      • Văn hóa tổ chức đời sống tập thể
      • Văn hóa tổ chức đời sống cá nhân
      • Văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên
      • Văn hóa ứng xử với môi trường xã hội
    • Văn hóa thế giới
      • VH Phương Đông: Những vấn đề chung
      • VH Phương Tây: Những vấn đề chung
      • Quan hệ văn hóa Đông - Tây
      • Văn hóa Trung Hoa và Đông Bắc Á
      • Văn hóa Đông Nam Á
      • Văn hóa Nam Á và Tây Nam Á
      • Văn hóa châu Âu
      • Văn hóa châu Mỹ
      • Văn hóa châu Phi và châu Úc
    • Văn hóa học ứng dụng
      • VHƯD: Những vấn đề chung
      • VHH nghệ thuật
      • Văn hóa đại chúng
      • Văn hóa giao tiếp
      • Văn hóa du lịch
      • Văn hóa đô thị
      • Văn hóa kinh tế
      • Văn hóa quản trị
      • Văn hóa giáo dục - khoa học
    • Tài liệu phổ cập VHH
      • Văn hóa Việt Nam
      • Văn hóa thế giới
      • VHH ứng dụng
    • Tài liệu tiếng nước ngoài
      • Theory of Culturology
      • Vietnamese Culture
      • Applied Culturology
      • Other Cultures
      • 中文
      • Pусский язык
    • Thư Viện Số (Sách - Ảnh - Video)
      • Tủ sách Văn hoá học
      • Thư viện ảnh
      • Thư viện video
    • Các nhà văn hóa học nổi tiếng
  • Tiện ích
    • Dịch vụ Văn hóa học
    • Dịch vụ ngoài VHH
    • Trợ giúp vi tính
    • Từ điển Văn hóa học
    • Thư viện TT và Khoa
    • Tổng mục lục website
    • Tủ sách VHH Sài Gòn
    • Giải đáp thắc mắc
  • Thư giãn VHH
    • Văn chương Việt Nam
    • Văn chương nước ngoài
    • Nghệ thuật Việt Nam
    • Nghệ thuật thế giới
    • Hình ảnh vui
    • Video vui
  • Diễn đàn
  • Liên hệ
  • Trang chủ
  • Nghiên cứu
  • Tài liệu phổ cập VHH
  • VHH ứng dụng
Tuesday, 22 June 2010 01:19

Trần Ngọc Thêm: Nghề báo là nghề dương tính của một xã hội dương tính

Người post bài:  PV VHH

 

Phỏng vấn Giáo sư Trần Ngọc Thêm nhân ngày Nhà báo Việt Nam 21-6:

“Nghề báo là nghề dương tính của một xã hội dương tính”

Giáo sư - viện sỹ - tiến sỹ khoa học Trần Ngọc Thêm là nhà nghiên cứu văn hóa có quan hệ mật thiết với giới báo chí. Ông cũng tham gia vào khá nhiều chương trình truyền hình với tư cách là người làm chương trình. Được người trong giới gọi là “nhà âm dương học”, giáo sư đã có cuộc trao đổi thú vị về nghề báo và cuộc sống của nữ nhà báo dưới góc nhìn của triết lý âm dương.

 

 

Bài đăng trên Tạp chí Ngôn luận của Hội nhà báo Đồng Nai với tiêu đề “GS.TSKH. Trần Ngọc Thêm: Thiên cái này chắc chắn thiệt cái kia!”

 

* Thưa Giáo sư, Giáo sư nghĩ gì về nghề báo và công việc của người làm báo?

- Nghề báo và công việc của người làm báo có những đặc trưng rất riêng.

Thứ nhất, nghề báo xuất hiện đầu tiên ở phương Tây, chứ không hề có trong danh mục nghề nghiệp truyền thống của Việt Nam trước đây. Đặc trưng của văn hóa phương Tây là văn hóa “động”, con người di chuyển liên tục, hoạt động liên tục. Có hoạt động thì mới có tin tức. Nó khác hẳn với kiểu sống “tĩnh” của người Việt truyền thống: định canh, định cư trong làng xã. Mỗi làng rất nhỏ, khoảng vài trăm người, nhiều lắm là đến nghìn người, quen biết nhau hết cả nên cũng chả có sự kiện gì ghê gớm. Lâu lâu có những chuyện vặt vãnh như người này ăn cắp gà của người kia thì chỉ từ sáng tới chiều là “thông tấn xã vỉa hè” ở bến nước của các bà đã loan khắp rồi.

Đặc trưng thứ hai phải kể đến là nghề báo đòi hỏi người làm báo phải phản ứng linh hoạt, nhanh nhạy để theo kịp cuộc sống đang không ngừng chuyển động.

Một đặc trưng nữa là người làm báo cũng phải có tư duy phân tích tốt. Gặp một sự kiện bất kỳ, nhà báo phải biết phân tích, mổ xẻ các khía cạnh của nó để chọn lọc tin. Và để đưa được một cái tin hay thì anh phải biết tập trung làm nổi bật cái chính, chứ không đưa chung chung hoặc đưa cái phụ, làm mờ nhạt cái chính đi.  

Thêm vào đó, nghề báo còn có một chức năng rất quan trọng là bình luận. Bất kỳ nhà báo nào cũng phải có năng lực bình luận ở mức độ nhất định – tức là nhìn nhận và đánh giá sự kiện. Ngay trong việc đơn giản là đưa tin một cách khách quan thì cũng đã có tư duy bình luận ở trong đó mà nó không thể hiện ra.

Ngoài ra, nghề này cũng đòi hỏi nhà báo phải có kiến thức rộng. Không có kiến thức rộng không thể làm báo, vì cái gì anh cũng có thể động chạm đến, mà nếu anh không có kiến thức anh sẽ không đánh giá được, hoặc đánh giá sai: tốt thành xấu, xấu thành tốt thì cực kỳ nguy hiểm.

Tóm lại, nghề báo và công việc của người làm báo còn đòi hỏi nhiều yêu cầu nữa. Nhưng dưới góc độ của một nhà làm văn hóa, tôi thấy có bốn đặc trưng như thế. Tất cả đều là những đặc trưng, đặc điểm truyền thống của văn hóa phương Tây chứ không phải của truyền thống văn hóa Việt Nam.

* Như vậy thì người làm báo Việt Nam, nhất là nhà báo nữ, sẽ gặp phải những vấn đề gì?  

- Nền văn hóa Việt Nam truyền thống được xây dựng trên nền tảng nông nghiệp lúa nước – văn hóa âm tính. Phụ nữ Việt Nam lại là âm của cái âm đó. Còn nghề báo là nghề dương tính của một xã hội dương tính: phương Tây, cho nên phụ nữ Việt làm báo gặp nhiều khó khăn hơn nam giới. Những người làm báo luôn luôn di chuyển trong khi phụ nữ luôn gắn với gia đình. Đối với nữ nhà báo chưa lập gia đình, việc di chuyển còn tương đối dễ dàng, nhưng đã có chồng, đặc biệt có con thì vô cùng khó. Bởi sự di chuyển liên tục của họ sẽ ảnh hưởng đến cuộc sống gia đình, làm nảy sinh những vấn đề về hạnh phúc gia đình, quan niệm nghề nghiệp. Trong trường hợp cả hai vợ chồng đều di chuyển, nghĩa là mạnh vợ vợ đi, mạnh chồng chồng đi thì mọi thiệt thòi, con cái lãnh đủ.

Một vấn đề nữa là người Việt vốn tư duy tổng hợp. Phụ nữ lại càng tư duy tổng hợp hơn. Mà như tôi đã nói về đặc trưng thứ ba của nghề báo ở trên đòi hỏi tư duy phân tích. Nếu nhà báo nữ nào có được tư duy phân tích thì sẽ tăng chất nam tính lên, giảm nữ tính đi. Nghĩa là, người đó làm nghề sẽ tốt, nhưng làm vợ sẽ kém. Còn ai vẫn giữ được chất âm tính, thì cuộc sống gia đình đỡ hơn nhưng làm nghề lại kém, chất lượng các bài báo lại thiếu sâu sắc.

Một điều nữa mà phụ nữ Việt làm báo gặp phải là kiến thức nền. Rất ít nữ phóng viên có được kiến thức nền rộng. Bản thân tôi hay tiếp xúc với các nữ phóng viên và cũng đã gặp một số người có được tiêu chuẩn thứ ba này nhưng nhìn chung rất ít.

* Với những bất lợi không nhỏ ấy, liệu phụ nữ Việt Nam có phù hợp với cái nghề “dương tính” này?

- Làm báo tức là quan hệ. Đó là mối quan hệ giữa con người với con người để truyền đạt thông tin. Nữ giới luôn có một ưu thế so với nam giới bởi chính khả năng này. Từ tư duy tổng hợp, làm cái này luôn nghĩ đến cái kia nên bẩm sinh nữ giới đã có năng lực ăn nói rất hoạt bát. Nếu khảo sát ở bé trai và bé gái cùng 3 tuổi chẳng hạn, thì bé gái bao giờ cũng ăn nói hoạt bát hơn hẳn bé trai. Nếu khảo sát 50 ông lão, 50 bà lão có cùng độ tuổi thì dù thời trẻ từng giữ chức vụ cao nhưng ở tuổi 70-80, khả năng tư duy của những ông lão này kém hẳn, nói năng cũng kém. Ngược lại, các bà lão vẫn rất tỉnh táo, nói năng trôi chảy dù lúc trẻ, họ chỉ là những người phụ nữ bình thường, trình độ học vấn cũng bình thường, và không làm gì “ghê gớm” cả.

Đấy chính là lợi thế của phụ nữ khi làm báo. Vừa khởi đầu, các nữ nhà báo đã lấy được cảm tình của người ta rồi thì chuyện người ta “rút gan ruột” với mình không phải là điều quá khó. Phụ nữ làm báo phát huy được những lợi thế và hạn chế nhược điểm thì sẽ làm báo rất xuất sắc. Tuy nhiên, nhà báo nữ xuất sắc phải để mắt coi chừng chuyện gia đình.

* Xin phép được kể một câu chuyện có thật 100%. Đức lang quân của một nữ nhà báo khá nối tiếng đã đưa ra cho vợ mình sự lựa chọn: “Một là tôi, hai là nghề báo của cô”. Và cuối cùng, người vợ đã chọn nghề. Có phải như vậy, nữ nhà báo này đã “dương” về nghề nghiệp nhưng “âm” về gia đình?

- Nói như vậy không đúng trong trường hợp này. Chúng ta đang nói đến phẩm chất, đặc điểm của nhà báo dựa trên triết lý âm dương, còn cái âm dương mà chị đề cập ở đây lại là cách đánh giá. Hiện nay, giữa chúng ta vẫn tồn tại cách hiểu âm dương theo kiểu: âm là xấu, dương là tốt. Không phải! Âm hay dương trong từng trường hợp cụ thể đều có những đặc điểm riêng, đều có xấu, có tốt.

Quay trở lại câu chuyện của nữ nhà báo, tôi nghĩ rằng, cô ấy phải có bản lĩnh, năng lực, có đủ niềm say mê thì mới dám từ bỏ gia đình để chọn nghề. Bởi nếu cô ấy làm báo chẳng ra gì, viết 10 bài chỉ được duyệt đăng 5 thì sẽ phải cân nhắc và chưa chắc đã dám bỏ chồng. Những người đã dám bỏ chồng để sống chết với nghề báo chắc chắn phải có năng lực, chắc chắn trở thành những nhà báo xuất sắc, có khi còn xuất sắc hơn cả nam giới. Bởi vì họ có được những đặc trưng dương tính mà nghề báo đòi hỏi, đồng thời có được thế mạnh của nữ giới mà những nhà báo nam không có. Tuy nhiên, họ phải chịu nhiều đắng cay, thiệt thòi. Họ bỏ chồng này có thể lấy chồng khác nhưng con họ sẽ khổ lắm. Còn nếu họ chưa có con thì họ sẽ thiệt thòi suốt đời vì không bao giờ biết được vẻ đẹp thực sự của người phụ nữ. Sau này khi về già, họ sẽ rất cô đơn.

* Có cách nào để các nhà báo nữ có thể tìm được sự cân bằng, thưa Giáo sư?

- Điều này vô cùng khó vì trong cuộc sống, không có cái gì là cân bằng tuyệt đối, thiên về cái này chắc chắn thiệt về cái kia.

* Hiện nay, nữ sinh viên ngành báo chí luôn áp đảo so với nam, nhưng có một thực tế là số trụ lại và thành công trong nghề nam lại nhiều hơn. Ngoài những bất lợi rất rõ đối với nữ trong nghề báo, theo Giáo sư, còn có lý do gì nữa?

- Bởi vì báo là một nghề. Đã là nghề thì đòi hỏi sự say mê rất cao, năng lực tập trung rất lớn. Ban nãy tôi có nói, đặc điểm của nữ giới là rộng nhưng không sâu, đặc điểm của nam là sâu nhưng không rộng. Văn hóa truyền thống của chúng ta cũng là văn hóa như thế: rộng mà không sâu. Chúng ta thấy rất rõ ở Việt Nam, bất kỳ ai, nay làm nghề này, mai có thể làm nghề khác. Bất kỳ ông bộ trưởng nào, nay làm bộ trưởng bộ này mai sang làm bộ trưởng bộ khác. Nghĩa là việc gì chúng ta cũng làm được hết, xong được hết nhưng chẳng việc gì đến nơi đến chốn.

Đối với nữ, điều đó lại càng rõ. Hầu hết phụ nữ đều biết trang điểm, đàn ông thì không. Hầu hết phụ nữ đều nấu ăn được và nấu ăn giỏi. Nhưng cuối cùng, người đầu bếp giỏi nhất là đàn ông, người trang điểm xuất sắc nhất vẫn là đàn ông. Tại sao? Tại vì công việc nào cũng đòi hỏi chuyên sâu. Những ai mà chuyên sâu được việc gì, thì sẽ làm rất tốt việc đó.

Ở những bậc học dưới, nhất là tiểu học, con gái bao giờ cũng học giỏi hơn con trai, nhưng ở trình độ học vấn cao hơn, con gái rất ít. Bởi vì càng lên cao, đòi hỏi càng tư duy, chuyên sâu và sáng tạo thì phụ nữ càng đuối dần. Vì thế điều chị nói mang tính quy luật. Nghề báo không nằm ngoài quy luật đó.

* Là người thường xuyên bị báo chí “làm phiền”, ắt hẳn Giáo sư đã gặp khá nhiều nhà báo nữ. Có ai trong số ấy tạo được ấn tượng đặc biệt với Giáo sư?

- Tôi gặp nhà báo nữ nhiều hơn các nhà báo nam. Các nhà báo nữ bao giờ cũng dễ thương và bắt đầu câu chuyện rất có cảm tình. Trong số đó, tôi có ấn tượng đặc biệt với nữ nhà báo Thu Uyên. Khi theo dõi cô trên truyền hình, tôi bị sự sắc sảo của cô thuyết phục và đến khi nhận lời mời cùng cô thực hiện một số chương trình, thì tôi bị thuyết phục hoàn toàn. 

* Xin phép hỏi Giáo sư một chút riêng tư. Được biết “một nửa” của Giáo sư cũng là người phụ nữ “giỏi việc nước, đảm việc nhà”. Nếu một ngày nào đó, người phụ nữ ấy thích đi làm báo thì Giáo sư có phản ứng gì?

- Đó là một giả định mà đối với tôi, sẽ không bao giờ xảy ra cả. Vì tôi và người vợ của tôi có chung một sự lựa chọn. Chúng tôi sống hạnh phúc trên cơ sở mỗi người có thế mạnh riêng. Và như tôi đã nói, nghề báo có những cái không phù hợp với cuộc sống gia đình nên vợ tôi chắc chắn không muốn đi làm báo. Còn nếu cô ấy muốn thì chúng tôi sẽ cùng ngồi lại, phân tích để chọn ra phương án tối ưu. Khi đã chọn được rồi thì sẽ có những lựa chọn khác xuất hiện tại thời điểm đó mà hai chúng tôi phải chấp nhận.

* Chân thành cảm ơn Giáo sư!

Hồng Minh thực hiện

Lên trên

Cùng chủ đề

  • Ứng phó với đại dịch: ngành hạt nhân đang góp phần làm giảm số ca nhiễm

  • Công giáo và Chính thống giáo khác nhau ra sao?

  • Dương Quốc Việt. Nhận chân Dối trá

  • Andrew Wiest. Bi kịch chiến tranh Việt Nam trong những gia đình Mỹ

  • Karl Marlantes. Chiến tranh Việt Nam: Cuộc chiến giết chết niềm tin

Thông báo

Tư vấn khoa học và kỹ năng nghiên cứu…

Tủ sách văn hoá học Sài Gòn

  • Thư viện ảnh
  • Thư viện video
  • Tủ sách VHH

Phóng sự ảnh: Toạ đàm khoa học: Xây dựng…

Hình ảnh văn hóa Tết xưa (sưu tầm)

Phóng sự ảnh: Lễ hội truyền thống VHH 2011

Phóng sự ảnh Lễ hội truyền thống VHH 2010

Thành phố Sankt-Peterburg, Nga

Bộ ảnh: Việt Nam quê hương tôi 2

Tranh Bùi Xuân Phái

Bộ tem tượng Phật chùa Tây Phương

Bộ ảnh: Đá cổ Sapa

Bộ ảnh: Phong cảnh thiên nhiên

Bộ ảnh: Việt Nam quê hương tôi

"Biển, đảo Việt Nam - Nguồn cội tự bao đời":…

Con dê trong văn hóa và văn hóa Việt Nam

Văn hóa Tết ở Tp.HCM (Chương trình truyền…

Văn hóa Tp. HCM: Một năm nhìn lại và động…

Phong tục Tết cổ truyền của người Nam Bộ

Bánh tét và Tết phương Nam

Con ngựa trong văn hóa và văn hóa Việt Nam

Điện Biên Phủ - Cuộc chiến giữa hổ và voi

Nhìn lại toàn cảnh thế giới từ 1911-2011…

Tọa độ chết - một bộ phim Xô-Việt xúc động…

Video: Lễ hội dân gian Việt Nam

Văn hoá Việt từ phong tục chúc Tết

Văn hoá Tết Việt qua video

Tết ông Táo từ góc nhìn văn hoá học

“Nếp nhà Hà Nội” trên “Nhịp cầu vàng”: tòa…

Văn hóa Thăng Long - Hà Nội qua video: từ…

Hướng về 1000 năm TL-HN: Xem phim “Tử Cấm…

Hướng về 1000 năm TL-HN: Người Thăng Long…

Phim "Chuyện tử tế" – tập 2 (?!) của “Hà…

Default Image

Hướng về 1000 năm TL-HN: "Chuyện tử tế" -…

Sách “Di sản Ấn Độ trong văn hóa Việt Nam”

Nguyễn Văn Bốn. Tín ngưỡng thờ Mẫu của người…

Sách: Quản lý và khai thác di sản văn hóa…

Hồ Sĩ Quý. Con người và phát triển con người

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 3

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 2

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 1

Hồ Sỹ Quý. Tiến bộ xã hội: một số vấn đề về…

Hồ Sỹ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á (Phụ…

Hồ Sỹ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á…

Hồ Sĩ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á…

Sách: Chuyên đề Văn hoá học

Sách: Một số vấn đề về hệ giá trị Việt Nam…

FitzGerald. Sự bành trướng của Trung Hoa…

Hữu Đạt. Đặc trưng ngôn ngữ và văn hoá giao…

Sống chụ son sao (Tiễn dặn người yêu)

Gs. Mai Ngọc Chừ. Số phận & Tâm linh

Trần Văn Cơ. Những khái niệm ngôn ngữ học…

Đoàn Văn Chúc. Văn hóa học (Phần 3 - hết)

Đoàn Văn Chúc. Văn hóa học (Phần 2)

Các nhà VHH nổi tiếng

Julian Haynes Steward

Wen Yi'duo (Văn Nhất Đa)

Leslie Alvin White

Huang Wen'shan (Hoàng Văn Sơn)

Radcliff-Brown, Alfred Reginald

Sapir, Edward

Margaret Mead

Thăm dò ý kiến

Bạn thích cuốn "Cơ sở văn hoá VN" của tác giả nào nhất?

Chu Xuân Diên - 4.8%
Lê Văn Chưởng - 0.9%
Trần Diễm Thuý - 1%
Trần Ngọc Thêm - 37.4%
Trần Quốc Vượng - 53%
The voting for this poll has ended on: 26 06, 2020

Tổng mục lục website

tong muc luc

Tủ sách VHH Sài Gòn

tu sach VHH SG

Thống kê truy cập

  • Đang online :
  • 61
  • Tổng :
  • 3 8 1 8 3 7 1 9
  • Đại học quốc gia TPHCM
  • Đại học KHXH&NV
  • Tran Ngoc Them
  • T.c Văn hóa-Nghệ thuật
  • Tc VHDG
  • Viện NCCN
  • Khoa Văn hóa học
  • Khoa Đông phương học
  • Phòng QLKH
  • Khoa Việt Nam học
  • Khoa Hàn Quốc học
  • BM Nhật Bản học
  • Khoa Văn học - Ngôn ngữ
  • Khoa triết học
  • Khoa Quan hệ quốc tế
  • Khoa Xã hội học
  • Bảo tàng Lịch sử - Văn hóa
  • viettems.com
  • myfaifo.com
Previous Next Play Pause

vanhoahoc.vn (các tên miền phụ: vanhoahoc.edu.vn ; vanhoahoc.net)
© Copyright 2007-2015. Bản quyền thuộc Trung tâm Văn hóa học Lý luận và Ứng dụng, Trường Đại học KHXH & NV - ĐHQG Tp. HCM
ĐT (028) 39104078; Email: ttvanhoahoc@hcmussh.edu.vn; ttvanhoahoc@gmail.com. Giấy phép: số 526/GP-BC, do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 27-11-2007
Ghi rõ nguồn vanhoahoc.vn khi phát hành lại các thông tin từ website này.

Website được phát triển bởi Nhà đăng ký tên miền chính thức Việt Nam trực thuộc Trung Tâm Internet VNNIC.

VHH ứng dụng