Tham dự Hội thảo có nhiều giáo sư, nhà nghiên cứu sử thi tiêu biểu của Việt Nam và Ấn Độ, Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Thái Lan, Lào. Một số nhà nghiên cứu từ Pháp và Campuchia tuy không tham dự nhưng cũng gửi báo cáo. Tất cả có 37 báo cáo.
Liên quan đến sử thi Việt Nam, các báo cáo trong Hội thảo tập trung vào việc tổng kết quá trình sưu tầm, nghiên cứu, truyền dạy sử thi, đặc biệt giới thiệu gia tài đồ sộ các sử thi Tây Nguyên mới được phiên âm, biên dịch, xuất bản (trong Dự án cấp Nhà nước từ cuối năm 2001 đến cuối năm 2007); xác định vị trí của sử thi Việt Nam nói chung và sử thi Tây Nguyên nói riêng trong phối cảnh khu vực và thế giới. Thu hút nhiều sự quan tâm là các báo cáo: “Quá trình sưu tầm và nhận thức lý luận đối với sử thi ở Việt Nam” (GS.TS. Nguyễn Xuân Kính), “Tính thống nhất và đa dạng của sử thi Tây Nguyên” (GS.TS. Ngô Đức Thịnh), “Số phận của sử thi Tây Nguyên trong điều kiện xã hội đương đại” (GS. Tô Ngọc Thanh)…
Liên quan đến tình hình sưu tầm và nghiên cứu sử thi ở các nước khác, đáng chú ý là các báo cáo về lý luận sử thi ở Trung Quốc (GS. Chao Ge Jin), quan hệ giữa sử thi và ca dao tự sự trường thiên của người Hán (GS. Chen Yi Yuan), hình tượng tuấn mã trong sử thi Mông Cổ (GS. Ba Meng He, GS. Wu Ren Bi Le Ge), sử thi Ramayana với truyền thông trong văn hóa Ấn Độ đương đại…
Hội thảo đã dành 1 ngày rưỡi để nghe báo cáo và thảo luận. Các báo cáo được trình bày trong 3 thứ tiếng: Việt, Anh, Trung. Phần thảo luận hào hứng và sôi nổi, thường quá thời gian quy định. Cuối ngày thứ nhất, khi phố núi đã lên đèn, các đại biểu còn say sưa với những câu hỏi cơ bản như “Sử thi là gì?”, “Có phải dân tộc nào cũng có sử thi?”… Trăn trở nhất là làm sao để gìn giữ, truyền dạy sử thi, để chúng vẫn là những “sử thi sống” (living epic) trong đời sống đương đại?
Chiều ngày thứ hai, các đại biểu tới buôn Ako Dhong, trong ngôi nhà dài truyền thống của người Ê đê, nghe cồng chiêng đón khách, gọi Giàng; được già làng đeo cho vòng đồng kết giao tình nghĩa và chúc phúc; uống rượu cần nồng đượm; nghe hai nghệ nhân hát kể những trích đoạn từ sử thi Ê đê (có tính cách sử thi anh hùng) và sử thi M’nông (có tính cách sử thi sáng thế). Không khí vừa xưa xa như thưở nào với tất cả cái hùng vĩ, uy nghi của đại ngàn sâu thẳm, sự linh thiêng như thể thần linh, tổ tiên ông bà cùng về trong truyện kể… Đồng thời lại rất hiện đại: sử thi được trình bày trong 4 thứ tiếng (tiếng dân tộc và 3 lần chuyển ngữ như đã nói ở trên), các camera truyền hình, máy ảnh, máy ghi âm, bút và sổ tay…hối hả tác nghiệp.
Ngày thứ ba, các đại biểu tham quan hồ Lắc, một trong những hồ tự nhiên lớn nhất nước ta, một địa điểm nổi tiếng được nhắc đến trong nhiều sử thi Tây Nguyên như bối cảnh của những cuộc giao tranh hào hùng. Ca nô lướt trên hồ rộng giữa buổi mai nắng nhẹ để tất cả được phóng tầm mắt ôm lấy phong cảnh rừng núi hữu tình và đắm mình vào những tưởng tượng ngun ngút chiều dài thời gian. Tại Nhà Văn hóa Cộng đồng buôn M’liêng, cồng chiêng lại vang lên, cần rượu lại nối cuộc vui, vỗ tay theo nhịp trai làng gái làng nhảy múa và nghe những làn điệu dân ca giao duyên.
Hội thảo Quốc tế về Sử thi đã thành công tốt đẹp không chỉ như một diễn đàn học thuật nơi trao đổi những thành tựu giới thiệu và nghiên cứu sử thi mà còn là nơi gặp gỡ, chia sẻ những giá trị văn hóa đặc sắc của các dân tộc, tạo cơ hội cho sự hiểu biết lẫn nhau, mở ra những triển vọng hợp tác nhiều mặt trong tương lai.
Nguồn: Tác giả