Hội thảo có sự tham gia của khoảng 650 đại biểu, trong đó có 148 đại biểu nước ngoài đến từ 10 quốc gia: Nhật Bản, Trung Quốc, Mỹ, Nga, Ấn Độ, Hàn Quốc, Đức, Australia, Lào và Thái Lan. Đây là Hội thảo có quy mô lớn nhất trong các hoạt động kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long- Hà Nội.
Hội thảo có 144 tham luận, 6 tham luận đọc tại phiên toàn thể chiều ngày 7-10; 138 báo cáo còn lại chia thành 4 tiểu ban: Lịch sử-chính trị (36 báo cáo); Văn hóa (33 báo cáo); Kinh tế-xã hội (33 báo cáo); Điều kiện tự nhiên, tài nguyên, môi trường và quản lý đô thị ̣(36 báo cáo).Trưởng tiểu ban Văn hóa là GS.TS. Ngô Đức Thịnh.
Từ Tp. Hồ Chí Minh ra tham dự Hội thảo có 4 nhà khoa học: GS.TSKH. Trần Ngọc Thêm, PGS.TS. Phan Xuân Biên, PGS.TS. Tôn Nữ Quỳnh Trân, PGS.TS. Nguyễn Minh Hòa.
GS.TSKH. Trần Ngọc Thêm cùng GS.TS.Đỗ Quang Hưng được phân công chủ trì phiên thứ nhất của tiểu ban văn hoá.Phiên họp này có 8 báo cao xoay quanh chủ đề "Tính thống nhất và liên kết của Thăng Long - Hà Nội".
GS.TSKH. Trần Ngọc Thêm trình bày báo cáo “Tính cách người Hà Nội hôm qua, hôm nay và ngày mai ” tại phiên thứ hai của tiểu ban xoay quanh chủ đề chung là "Văn hóa, ngôn ngữ, con người Hà Nôi".
Mỗi phiên họp kéo dài trong 90 phút, thường có từ 8-9 báo cáo. Thời gian dành cho mỗi báo thường chỉ trong 8-9’. Tuy vậy, các tác giả có mặt đều được trình bày, các phiên họp đều dành được thời gian cho thảo luận. Việc thảo luận diễn ra hết sức thẳng thắn, sôi nổi và hiệu quả.
X. bài: Trần Ngọc Thêm: “Tính cách người Hà Nội hôm qua, hôm nay và ngày mai ”
Chủ tịch đoàn phiên toàn thể
Chủ tịch đoàn phiên thứ nhất của tiểu ban văn hoá (GS.TS.Đỗ Quang Hưng - GS.TSKH. Trần Ngọc Thêm)
GS.TSKH. Trần Ngọc Thêm trình bày báo cáo
“Tính cách người Hà Nội hôm qua, hôm nay và ngày mai”
Chụp ảnh lưu niệm sau Hội thảo
(GS. Trần Ngọc Thêm, GS. Phạm Đức Dương, GS. Trần Đức Cường, PGS. Phan Xuân Biên).
P.V.
Vấn đề văn hoá là một trong 4 trong tâm của Hội thảo quốc tế “Phát triển bền vững Thủ đô Hà Nội văn hiến, anh hùng, vì hòa bình” diễn ra tại Trung tâm Hội nghị Quốc tế (11 Lê Hồng Phong, Hà Nội) từ ngày 7 đến 9-10-2010. Vanhoahoc.edu.vn xin giới thiệu bài phát biểu tổng kết tiểu ban văn hóa do GS.TS. Ngô Đức Thịnh, Trưởng tiểu ban, trình bày tại phiên họp Tổng kết Hội thảo.
VẤN ĐỀ VĂN HOÁ
tại Hội thảo quốc tế “Phát triển bền vững
Thủ đô Hà Nội văn hiến, anh hùng, vì hòa bình”
GS.TS. Ngô Đức Thịnh
(Trưởng tiểu ban văn hóa)
GS.TS. Ngô Đức Thịnh trình bày nội dung hoạt động
của tiểu ban văn hóa tại phiên họp Tổng kết Hội thảo
Mở đầu
Tiểu ban văn hóa nhận được 33 báo cáo khoa học, trong đó có 4 báo cáo của các học giả nước ngoài, gồm Nhật Bản, Hàn Quốc, Lào. Các báo cào của tất cả các học giả có mặt tại hội thảo đều được trình bày. Mỗi phiên của hội thảo đều dành trên dưới 40 phút cho thảo luận, do vậy mà ngoài các báo cáo viên thì phần lớn những người tham gia tiểu ban đều được phát biểu ít nhất một lần. Trong tất cả 4 phiên, cuộc thảo luận hết sức sôi động, chứng tỏ nhiệt tình, tâm huyết của các nhà khoa học đối với các vấn đề của Thăng Long-Hà Nội. Rất tiếc, tại các phiên trình bày và thảo luận này đều thiếu sự tham gia của các nhà quản lý văn hóa của thành phố và trung ương. Đây cũng là căn bệnh muôn thủa của các hội thảo khoa học là các nhà khoa học “tự sướng” bằng cách nói cho nhau nghe!
Tuy các báo cáo về văn hóa chia làm 4 tiểu ban, nhưng nội dung có thể quy tụ vào 3 vấn đề lớn sau:
1. Khẳng định vị trí Thăng Long – Hà Nội trong việc trong việc nối kết và thống nhất văn hóa quốc gia dân tộc Việt Nam, thể hiện trên mấy phương diện:
- Các báo cáo và thảo luận tiếp tục làm sâu sắc hơn vai trò tích tụ và lan tỏa của văn hóa TL-HN đối với mọi miền của cả nước, trước nhất là đồng bằng Bắc Bộ với tư cách là “Tứ trấn nội kinh” (Kinh Bắc, Sơn Nam, Sơn Tây, Hải Đông). Các báo cáo của các tỉnh, thành phố tham gia hội thảo đều nói nên một thực tế là các địa phương có thể tìm thấy những đóng góp của mình trong văn hóa Thăng Long – Hà Nội và ngược lại đã tiếp nhận những gía trị văn hóa từ Thăng Long – Hà Nội lan tỏa tới.
- Văn hóa Thăng Long – Hà Nội với tư cách là kinh sư đầu não trên dưới 8 thế kỷ đã đóng vai trò gắn kết, chuyển tải văn hóa từ kinh đô Hoa Lư, rồi phát triển lên đỉnh cao với văn minh Thăng Long thời Đại Việt và truyền nguồn lực và cảm hứng cho Huế - Phú Xuân, làm cho văn hóa Huế - Phú Xuân trở thành đại diện cho văn hóa truyền thống Đại Nam-Việt Nam thế kỷ XVIII-XIX. Và tới lượt nó, văn hóa Thăng Long - Hà Nội và Huế - Phú Xuân đã khơi nguồn sức mạnh giúp dân tộc ta vươn tới Nam Bộ, tạo nên văn hóa phương nam, mà trung tâm là thành phố Sài Gòn - Hồ Chí Minh, tạo nên chuỗi liên kết tuyệt vời Hà Nội – Huế - Sài Gòn.
- Văn hóa Thăng Long - Hà Nội không chỉ là đầu mối liên kết, thống nhất trong nước, mà bằng giao lưu, hội nhập với văn minh Trung Hoa, văn minh Ấn Độ và thời cận hiện đại với văn minh Pháp, làm cho văn hóa Thăng Long-Hà Nội không chỉ vươn lên tầm cao mới mà ngày càng phong phú, đa dạng hơn. Hội thảo đã có sự tranh luận sôi nổi về sự phá hoại của thực dân Pháp đối với văn hóa truyền thống ở TL-HN, cũng như sự đóng góp đầy ấn tượng văn hóa Pháp với thành phố của chúng ta.
- Với vị trí và vai trò to lớn như vậy, các nhà khoa học đã thảo luận sôi nổi về cái gọi là “không gian thiêng Thăng Long – Hà Nội” (GS.Đỗ Quang Hưng) với các vòng rộng hẹp khác nhau ; Hoàng thành, đô thành với giới hạn là Tứ trấn thần và rộng hơn là Tứ trấn nội kinh, tiếp cận với kinh đô văn Lang xưa. Có nhiều cách lý giải về cơ sở tâm linh, tín ngưỡng, quyền lực vương quyền để tạo nên không gian thiêng này. Tuy nhiên, nhân tố quyết định có lẽ vẫn là nơi đây, TL-HN đã “lắng đọng hồn núi sông ngàn năm”, một thứ chủ nghĩa yêu nước Việt Nam đã được tâm linh, tín ngưỡng hóa chăng? Và quan trọng hơn là làm thế nào để chúng ta vẫn tiếp tục gìn giữ được sự linh thiêng này trong hiện tại và tương lai.
Tất cả những điều nói trên đã để lại cho chúng ta những bài học lớn trong việc phát huy vị thế của Hà Nội với tư cách là trung tâm văn hóa và đầu não quyền lực cả nước trong quá trình CNH, HĐH và giao lưu quốc tế hiện nay.
2. Đề cập tới bản sắc văn hóa Thăng Long - Hà Nội, các báo cáo chưa có dịp đi sâu vào tất cả các khía cạnh của đời sống văn hóa mà chỉ tập trung vào một số khiá cạnh chính yếu, đó là tiếng nói TL-HN, tính cách con người TL-HN, giáo dục TL-HN và trí thức TL-HN.
- GS.TS. Đinh Văn Đức khẳng định rằng tiếng Hà Nội là một phương ngữ tiếng Việt, hơn thế nữa nó là tiếng của kinh đô, thủ đô, nơi đã từng diễn ra các biến động về dân cư, kinh tế-xã hội, nhưng nay nó vẫn giữ được bản sắc của nó. Những người tham dự tỏ ra lo lắng, liệu tiếng Hà Nội có còn giữ được sự trong sáng và bản sắc của mình trước làn sóng di dân từ muôn nơi đổ về, hiện tượng “pha tiếng”, “ngôn ngữ đường phố”, “ngôn ngữ mạng” đang xô bồ, hỗn loạn như hiện nay… Câu hỏi làm gì để gìn giữ sự trong sáng của tiếng Việt nói chung và tiếng Hà Nội nói riêng trong bối cảnh hiện nay vẫn còn để ngỏ.
- Các nhà khoa học sôi nổi thảo luận xoay quanh báo cáo của GS.TSKH. Trần Ngọc Thêm về “Tính cách người Hà Nội hôm qua, hôm nay và ngày mai”. Tác giả đã để công phân định tính cách người Hà Nội qua các thời kỳ lịch sử và đi sâu phân tích từng loại cộng đồng cư dân. Tác giả nêu tính cách người Hà Nội định hình vào cuối thời quân chủ Nho giáo và đầu thời thực dân, với các đặc tính tiêu biểu Thanh lịch, trí tuệ, tỉnh táo, trọng danh dự, chữ tín… Qua thời bao cấp, thời đổi mới và thời kinh tế thị trường hôm nay và ngày mai thì các tính cách trên mất còn ra sao? Tác giả cho rằng chúng ta không nên quá ca bài ca về cái “Hà Nội văn minh, thanh lịch” mà nay đã không còn hay đang ẩn tàng mà nên tập trung vào việc tuyên chiến với các tính cách xấu của người Hà Nội hiện nay và khơi nguồn cho những cái đẹp đẽ tiểm ẩn có cơ hội bộc lộ và tái hiện dưới các hình thức phù hợp và hiện đại hơn.
- Giáo dục TL-HN (PGS.TSKH. Nguyễn Hải Kế) tuy không thoát khỏi bức tranh chung của giáo dục cả nước, nhưng rõ ràng với tư cách là trung tâm, nơi “tụ nhân, tụ tài”, giáo dục ở TL-HN đã tích lũy được các kinh nghiệm quý báu. Nhà nước đào tạo những người hiền tài để cống hiến cho chế độ, nhưng người đi học lại có ước vọng khác, ước vọng làm quan, đổi đời. Phải chăng cái di chứng này vẫn hiển hiện trong giáo dục ngày nay? Giáo dục TL-HN truyền thống đã đào tạo được đội ngũ trí thức đông đảo, đặc biệt xã hội đã tạo cho những người trí thức này cái không gian tự do và độc lập tối thiểu, để từ đó họ trở thành nhân tài kinh bang tế thế, cứu dân, giúp nước. Bài học đó còn nguyên giá trị cho HN ngày nay, khi mà chúng ta đang trong tình trạng “thừa năng khiếu, thiếu nhân tài”, vẫn biết đó là do căn nguyên xã hội chứ không chỉ của ngành giáo dục.
- Trí thức (PGS.TS. Trần Ngọc Vương) là sản phẩm của nền giáo dục, từ muôn nơi đổ về và phần lớn chỉ có thể thành nhân tài “kinh bang tế thế” ở TL-HN, dù họ là lớp trí thức thân vương (thời Lý-Trần) hay trí thức cung đình (từ thời Lê trở đi). Đó là lực lượng nhân lõi của cái mà từ xưa đã được mệnh danh là “chí sĩ Bắc Hà”, khiến mọi nơi đều trọng nể. Bài học này một lần nữa nhắc nhở Hà Nội làm gì để phát huy tiềm năng trí tuệ của đội ngũ trí thức đông đảo trên đất Hà Nội ngày nay.
3. Bảo tồn và phát huy các di sản Thăng Long - Hà Nội
Đây là vấn đề được nhiều báo cáo và thảo luận sôi nổi trong tiểu ban
- Di sản lớn nhất, bản sắc và nét đẹp nhất của TL-HN chính là tổng thẻ không gian kiến trúc Hà Nội, nó thể hiện hiện ở phố cổ Hà Nội, ở các phố Tây, ở các làng cổ trong và ven TL-HN, ở các di tích đền, chùa, đình miếu… Ở đó nó chứa đựng cả di sản vật thể, phi vật thể, cảnh quan môi trường. GS. Hoàng Đạo Kính e ngại rằng trong quy hoạch tổng thể hiện nay, nếu không khéo sẽ phá vỡ toàn bộ những nét độc đáo tạo nên bản sắc Hà Nội, giống như chúng ta đem hàng trăm cọc bê tông vô hồn biểu trưng cho ngôi nhà cao tầng chọc trời đóng lên hình hài của thiếu nữ Hà Nội vốn mỏng manh, yểu điệu và đầy nữ tính. Các nhà khoa học khuyến cáo, trong quy hoạch Hà Nội mới không nên phá vỡ tính đăng đối của cấu trúc Thăng Long là trung tâm của “tứ trấn nội kinh”, đừng có “quay lưng ra sông, cưỡi lên hồ, đầm, kênh rạch”, mà cái đó vốn tạo nên thành phố sông hồ, nét bản sắc tiêu biểu của TL-HN. Phá hỏng một di sản, di tích đều là điều đáng tiếc, nhưng nếu phá hỏng tổng thể kiến trúc TL-HN vốn đã có thì là một đại họa!
Trong bảo tồn di sản văn hóa chúng ta cần phân biệt đâu là di tích, đâu là di sản và có những đối sách riêng để bảo tồn với từng loại cho phù hợp, nhất là với phố cổ và hàng trăm ngôi biệt thự vốn tạo nên bản sắc HN.
Trong bảo tồn di sản văn hóa, nhất là văn hóa phi vật thể, như lễ hội, các diễn xướng nghệ thuật, chúng ta cần tôn trọng tính tự vận động và biến đổi của nó trong từng môi trường xã hội cụ thể, tôn trọng vai trò của cộng đồng với tư cách là người sáng tạo và bảo tồn di sản văn hóa, đừng “nhà nước hóa” các sinh hoạt văn hóa này, đừng cải biên vô lối theo kiểu “gieo vừng ra ngô”, phải coi trọng tính bác học, chuyên nghiệp, văn hóa đỉnh cao cũng như tính dân gian, thô mộc của các sinh hoạt VHDG vấn ẩn hiện trên đường phố, trong từng ngôi nhà của HN hôm nay.
Các diễn giả cũng kêu gọi cần có kế hoạch bảo tồn đê điều Hà Nội với tư cách là di sản văn hóa đặc trưng. Phải có cái nhìn xa và sâu sắc hơn trong việc đặt tên đường, tên phố Hà Nội, tránh biến tên đường phố Hà Nội thành nơi chỉ tuyên truyền chính trị, mà quên mất chức năng cơ bản của địa danh là nó giúp con người định hướng không gian, cũng như tính lịch sử của địa danh gắn với ký ức của từng mảnh đất, từng cộng đồng địa phương…