Thật ra bản sắc văn hóa dân tộc không phải là một di vật vô cơ từ xưa truyền lại, mà là một thực thể tinh thần hữu cơ mà tự bản thể của nó đã luôn luôn sinh sôi nảy nở. Và với tư cách chủ thể, chúng ta, thế hệ con cháu ngày nay, trong vận hội đầy thời cơ xen lẫn nguy cơ này, lẽ nào chỉ biết ăn sẵn, mà lại không biết chủ động trau dồi, bồi bổ, nâng cao và phát triển cái di sản hữu cơ quý báu do ông cha để lại này hay sao? Phát triển chứ không phải chỉ là phát huy. Phát huy chỉ là gây tác dụng từ cái vốn có của bản thể, còn phát triển là bồi đắp thêm cho chính cái bản thể ấy. Đối với thời cơ, thì tất nhiên phát huy cái vốn có, nhiều khi cũng có hiệu quả, nhưng chắc chắn không cao. Đối với nguy cơ, nhất là những nguy cơ trầm trọng, thông thường phải phát triển thêm cái vốn có thì mới vượt qua được. Mà nghiền ngẫm đến cùng, sẽ gặp ngay phép biện chứng là chỉ có phát triển, mới là cách bảo tồn (giữ gìn) tối ưu! Giậm chân tại chỗ có khi lại chính là một cách tự triệt tiêu. Có lẽ không ai phản đối những điều này, nhưng lại không muốn nhắc đến, song hành với "phải giữ gìn", cô đúc trong một khẩu hiệu chung, sẽ cùng dứt khoát quán triệt mạnh mẽ thì chí ít cũng là vì xem nhẹ, mà một trong những nguyên nhân là chưa ý thức đầy đủ về mặt lý thuyết đối với tầm quan trọng của nó. Phát triển tự phát thì không nói làm gì, nhưng phát triển tự giác thì cũng phải có lý thuyết của nó, từ những vấn đề giản đơn như tính tất yếu của sự phát triển đến những vấn đề tương đối phức tạp như phát triển "dương tính" với phát triển "âm tính" và "nghịch tính", phát triển "dọc" và phát triển "ngang".v.v...
1. Tính tất yếu trong sự phát triển của bản sắc văn hóa dân tộc
Dân tộc là một thực thể có tính lịch sử, nghĩa là có quá trình hình thành và phát triển, thì bản sắc văn hóa của nó cũng không thể khác. Bản sắc văn hóa Việt Nam ở thời đại Hùng Vương với thời đại Hồ Chí Minh, hiển nhiên có mặt nhất quán, nối tiếp, nhưng ắt hẳn là nhiều điều được nâng cao mạnh mẽ qua trường kỳ diễn biến lịch sử. Thông qua quá trình trường tồn đó, cũng như bao dân tộc khác, dân tộc ta đã gặp phải bao nỗi thăng trầm, nhiều nẻo quanh co của lịch sử, bao vấn đề phức tạp trong nhiều thời đại khác nhau, từ đó mới hun đúc dần nên bản sắc văn hóa của mình. Bản sắc văn hóa, do đó, không phải chỉ là một thực thể, mà là một quá trình, không phải là khép kín, mà là một hệ thống mở. Làm sao có thể hình dung được bản sắc văn hóa Việt Nam đã "dĩ thành bất biến" từ thời xa xưa để rồi cứ thế "ứng vạn biến" cho mãi đến nền kinh tế thị trường hiện nay? Không phải vậy! Cái bản sắc văn hóa vốn có để ứng xử với nền kinh tế thị trường hiện nay đã phong phú lên rất nhiều rồi. Tuy nhiên cách nói "Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong nền kinh tế thị trường..." vẫn còn tính chất "chủ thể" chưa toàn diện. Tất nhiên đây là cách nói đầy thiện chí, muốn lưu ý mọi người phải phát huy những đạo đức tốt đẹp cổ truyền để khắc phục mặt trái của kinh tế thị trường. Nhưng cái gì lại không có mặt trái, bởi vì cái gì dù có tốt đẹp đến đâu cũng do con người thực thi. Mà đã là con người thì từ ngàn xưa đã vậy, bao giờ cũng có thiện, cũng có ác. Từ ngàn xưa, ngay trong xã hội cộng sản nguyên thủy, chưa phân hóa giai cấp, thì vẫn có những ác nhân, đã hiện hình thành những ác ma, ác quỷ rồi. Còn ngày nay, khi chưa có kinh tế thị trường, còn chế độ bao cấp, thì cũng đã có những ác nhân rồi. Chuyện buôn gian bán lận, làm hàng giả, đục khoét của Nhà nước là có từ trước và còn hại đến ngày nay và là kẻ thù của chính kinh tế thị trường ngay trong chủ nghĩa tư bản, chứ chưa nói đến kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Thật ra đã có kinh tế thị trường thì cũng có văn hóa thị trường, mà then chốt là lấy chữ "tín" làm đầu. Hiển nhiên là văn hóa thị trường còn bao hàm nhiều nội dung phong phú khác, và tỏ ra còn khá mới mẻ với văn hóa Việt Nam. Cho nên vấn đề không phải là "giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc" để đối ứng với kinh tế thị trường, mà chính là phải tự làm phong phú thêm bằng cách dung nạp thêm những tinh hoa trong văn hóa thị trường. Đây chỉ là một thí dụ, nhưng đã thấy chung rằng cứ mỗi khi phải đương đầu với những vấn đề lớn trong đời sống thì văn hóa dân tộc, tất yếu phải phát triển, và bản sắc nền văn hóa, do đó, cũng được bồi đắp nâng cao lên. Dân tộc, nhưng phải luôn luôn hiện đại là như vậy.
2. Phát triển "dương tính", với phát triển "âm tính" và "nghịch tính"
Phát triển "dương tính" là bồi đắp nâng cao thêm cái hay vốn có. Thí dụ một đặc điểm trong văn hóa Việt Nam là chủ nghĩa yêu nước gắn chặt với lòng thương dân, bởi "dân là dân nước, nước là nước dân". Đến thời đại Hồ Chí Minh đã phát triển thành sự kết hợp giữa chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa xã hội. Sự phát triển "dương tính" như thế này là vô cùng quý báu và giữ vai trò chủ đạo.
Tuy nhiên sự phát triển "âm tính" cũng cực kỳ quan trọng và ở ta chưa chú ý đầy đủ. Dân tộc nào cũng có mặt mạnh, mặt yếu, cái hay cái dở. Hiển nhiên cái dở, cái xấu không thể nằm trong phạm vi của bản sắc văn hóa dân tộc. Nhưng đó chỉ là ý muốn chủ quan. Còn với tư cách tồn tại khách quan, những cái dở cái xấu đó vẫn tiếp tục gây tác hại. Vạch trần và gột sạch được chúng lại là một cách để phát triển bản sắc văn hóa dân tộc. Không phải ngẫu nhiên mà các lãnh tụ và các nhà văn hóa lớn của cách mạng đều biết tự phê phán dân tộc. Mác, Ăngghen lên án thói "philixtanh" của dân tộc Đức, Lênin vạch trần thói "Oblômốp" của dân tộc Nga, Lỗ Tấn đả kích thói AQ của dân tộc Trung Hoa. Nói chung các dân tộc tiến vào thời hiện đại văn minh đều phải trải qua công cuộc tự phê phán dân tộc như vậy. Việt Nam ta, nếu bây giờ mới bắt đầu đã là quá muộn, nhưng muộn vẫn còn hơn không. Về điều này, tôi đã có bản báo cáo cũng nhân dịp kỷ niệm 60 năm Đề cương văn hóa này, nhưng ở Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, nay chỉ xin nhắc qua, chứ không lặp lại nữa. Nhưng còn một dạng phát triển nữa tạm gọi là "nghịch tính". Bởi vì có những cái trong truyền thống đúng là hay thật, nay bỗng trở nên không hợp thời, đành phải cắt bỏ nó đi, mới tiến lên được. Điều này không có gì là lạ, nếu hiểu được phép biện chứng của lịch sử phát triển. Trong Tuyên ngôn Đảng Cộng sản, sau khi nêu bật tính chất tiến bộ của chủ nghĩa xã hội không tưởng so với các loại chủ nghĩa xã hội khác, Mác, Ăngghen liền chỉ ra tác dụng của nó sẽ "tỉ lệ nghịch với sự phát triển... một khi mà cuộc đấu tranh giai cấp càng phát triển và càng có hình thức xác định". Lênin đã vận dụng quy luật này trong việc đánh giá học thuyết (chứ không phải toàn bộ tác phẩm) của L. Tolstoi: "Hai mươi lăm năm trước đây... những thành phần phê phán trong học thuyết L. Tolstoi có lúc trên thực tế vẫn còn có thể đem lại bổ ích cho một số giai tầng nào đó trong nhân dân. Nhưng mười năm trở lại đây, thì không thể còn như thế nữa... Trong thời đại chúng ta ngày nay, bất cứ mưu toan nào muốn lý tưởng hóa học thuyết của L. Tolstoi đều là nguy hại một cách trực tiếp và trầm trọng nhất" (L. Tolstoi và thời đại của ông). Lê Duẩn cũng khẳng định chân lý này qua một trường hợp cụ thể trong nền văn hóa của ta: "Như vở chèo Lưu Bình - Dương Lễ: cho vợ đi nuôi bạn thay chồng. Đó là cái hay của trước kia, bây giờ có phải như vậy là hay không? Bây giờ chắc không ai muốn làm như thế cả, vì như thế là tàn nhẫn với phụ nữ"(1). Có khi còn gây họa cho cả đàn ông, nếu được phép, sẽ xin bổ sung như vậy. Đến cái hay mà có khi cũng phải cắt bỏ đi, xót đau thật. Nhưng từ Mác đến Ăngghen, từ Lênin đến Lê Duẩn đều có di huấn như thế. Tôi thấy đã đến lúc phải nghiền ngẫm thật kỹ lời dạy này, mới thật sự tiến lên được.
3. "Phát triển dọc" và "phát triển ngang"
Thật ra cũng như không gian và thời gian là không tách rời nhau, thì phát triển ngang hay dọc cũng đều phải diễn ra trong cả không thời gian. Duy có điều lâu nay khi nói phát triển của văn hóa văn học, thì người ta thường tập trung chú ý sự gia tăng về chất và lượng theo chiều dọc về mặt thời gian của nó. Nhưng thường không chú ý đúng mức phạm vi hoạt động, tác động, giao lưu và ảnh hưởng của nó cũng được gia tăng dần. Như thế cần trừu xuất bình diện này của sự phát triển văn hóa và tạm gọi là sự phát triển ngang theo không gian. Hiển nhiên sự phát triển ngang này cũng phải là một quá trình, nghĩa là không tách rời với sự diễn biến về thời gian. Có những mốc như sau: ban đầu là xuất phát từ một sắc tộc hay từ một địa phương có tính chất trung tâm hoặc chủ thể nào đó phát triển đến nền văn hóa của một dân tộc (thường trùng khớp với phạm vi một quốc gia), rồi từ phạm vi quốc gia đến khu vực, từ khu vực đến thế giới. Nhưng khái quát lại cho gọn, thì sự phát triển theo chiều ngang này bao gồm hai thời kỳ chính là từ một nền văn hóa văn học của một đất nước phong bế đến nền văn hóa, văn học cũng chính của đất nước ấy, nhưng đã xuất hiện với tư thế một thành phần hữu cơ của nền văn hóa văn học của khu vực và thế giới. Đối với thời kỳ sau này cũng có thể tạm chia thành hai giai đoạn chính: tự phát và ngẫu nhiên với tự giác và tất yếu. Thật ra có những nền văn hóa văn học dân tộc đã có sự giao lưu tương tác với bên ngoài từ khá sớm do nhiều nguyên nhân như sự tiếp cận về địa lý, những đợt di dân, phương thức sống du mục, việc buôn bán, những cuộc ngoại xâm.v.v... Ngay trong giai đoạn này, cái gọi là bản sắc văn hóa dân tộc đã không thể gọi là thuần chủng biệt lập rồi. Nguồn gốc Truyện Kiều, tác phẩm cổ điển bậc nhất của văn học Việt Nam đã nói lên điều đó. Tố Hữu đã nói một cách hình dung giản dị nhưng rất sâu sắc về vấn đề này: "Cái gì đã sống, đã góp phần làm nên cuộc sống dân tộc đều đáng tôn trọng. Đừng vì cái tên tỳ bà mà nghĩ rằng chiếc đàn này từ Trung Quốc tới, rồi đuổi nó đi để biểu thị cái lập trường dứt khoát chống chủ nghĩa bành trướng... Cái gì đã tới Việt Nam thì cũng Việt Nam hóa như thế nào đó và sẽ xứng đáng được gọi là con cháu của Việt Nam. Tôi chắc nay mai con cháu ta không cần biết cây Violon hay Piano do ai hay từ đâu tới, mà chỉ biết rằng di sản của đời nay để lại, có cây đàn đó"(2); Đặc biệt đến đầu thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản thắng lợi, đã thiết lập thị trường của thế giới, thì mối liên hệ giữa văn hóa văn học giữa các dân tộc càng trở nên tất yếu, tự giác và phổ biến. Mác và Ăngghen viết: "Những thành quả hoạt động tinh thần của một dân tộc trở thành tài sản chung của tất cả các dân tộc. Tính chất hẹp hòi và phiến diện dân tộc ngày càng không thể tồn tại được nữa, và từ những nền văn học dân tộc và địa phương muôn hình muôn vẻ đang nảy nở một nền văn học dân tộc toàn thế giới" (Tuyên ngôn Đảng Cộng sản). Tất nhiên, do nhiều nguyên nhân lịch sử phức tạp, mỗi nền văn hóa dân tộc đều có hai mặt hay dở, và quá trình thực sự trở thành một bộ phận hữu cơ trong nền văn hóa toàn thế giới sẽ nhanh chậm khác nhau. Nhưng ngày nay chúng ta mở cửa giao lưu hội nhập, muốn làm bạn với tất cả các nước, hiển nhiên không bao giờ quên phải lấy cái tinh hoa văn hóa vốn có của dân tộc mình đề kháng với không biết bao nhiêu cái dở từ bên ngoài đang ào ạt tràn vào. Nhưng về mặt này "nguy cơ" đã đành là không nhỏ, nhưng "thời cơ" vẫn lớn hơn! Bởi vì đây cũng chính là lúc không phải chỉ biết giữ gìn bản sắc, mà phải thật sự cởi lòng, ra sức hấp thu không biết bao nhiêu là tinh hoa cực kỳ phong phú khắp nơi trên thế giới để thực sự bồi đắp cho nền văn hóa dân tộc Việt Nam phát triển mạnh mẽ trong thời đại ngày nay./.
P.L
Nguồn:vanhoanghethuat.org.vn