Thứ nhất, tác động của kinh tế thị trường
Trọng tâm của quá trình đổi mới ở nước ta là đổi mới kinh tế. Thực chất của đổi mới kinh tế là chuyển từ mô hình kinh tế tập trung quan liêu hành chính bao cấp sang phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế trong đó các quan hệ kinh tế, hoạt động kinh tế được thực hiện thông qua thị trường; là nền kinh tế vận động theo các quy luật thị trường trong đó quy luật giá trị giữ vai trò chi phối thông qua quan hệ cung - cầu trên thị trường. Kinh tế thị trường là thành tựu chung của văn minh nhân loại. Tuy nhiên, trong chế độ xã hội khác nhau, kinh tế thị trường được sử dụng với mục đích khác nhau. Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vừa phù hợp với xu hướng phát triển chung của nhân loại, vừa phù hợp với yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất, với yêu cầu của quá trình xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ kết hợp với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và giải quyết các vấn đề xã hội ở nước ta hiện nay.
Sau những năm xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, xã hội có những chuyển biến căn bản. Bên cạnh những thay đổi đáng ghi nhận theo chiều hướng tích cực trong đời sống vật chất, đời sống tinh thần - văn hóa, đạo đức, lối sống của nhân dân có sự chuyển biến theo chiều hướng tiêu cực. Điều này đã tạo nên sự chuyển đổi trong thang giá trị xã hội và định hướng giá trị trên quy mô toàn xã hội cũng như đối với từng tập thể, cá nhân.
Con người Việt Nam truyền thống giỏi chịu đựng gian khổ, coi nhẹ các giá trị vật chất, trọng tình, duy cảm, đề cao tính cộng đồng… Đây được coi là các giá trị truyền thống. Dưới tác động của các quy luật giá trị, cung cầu, cạnh tranh, kinh tế thị trường đòi hỏi con người ngày càng năng động, tháo vát trong sản xuất, biết chấp nhận ganh đua, cạnh tranh, dám phiêu lưu, mạo hiểm, biết tính toán hiệu quả kinh tế… Kinh tế thị trường lại đòi hỏi con người coi trọng cả giá trị vật chất lẫn giá trị tinh thần, cả giá trị cá nhân lẫn giá trị xã hội… Chính những đòi hỏi của kinh tế thị trường đặt ra khiến nhiều giá trị truyền thống trở nên bất cập trong điều kiện hiện nay, đồng thời đặt ra những yêu cầu bổ sung vào hệ giá trị những giá trị mới. Nhiều giá trị mới đã hình thành: vật chất, giàu sang, sở hữu (tư nhân), sòng phẳng, biết tính toán trong làm ăn, ứng xử theo pháp luật, đổi mới, sáng tạo, tiện nghi, cái đẹp… Đây là sự biến đổi phù hợp quy luật, mang tính khách quan.
Bên cạnh những tác động tích cực phải kể đến mặt trái của kinh tế thị trường: tính cạnh tranh không lành mạnh, quá coi trọng đồng tiền và lợi ích vật chất, đề cao tính thực dụng, gia tăng sự phân hóa giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Điều này dẫn đến tình trạng trong hệ giá trị đã và đang có những biểu hiện lệch chuẩn. Đó là từ chỗ coi trọng các giá trị chính trị - xã hội chạy sang cực các giá trị kinh tế vật chất, từ chỗ lấy con người xã hội - tập thể làm mẫu mực sang chỗ quá nặng về con người cá nhân, từ chỗ sống vì lý tưởng đến chỗ quá thực dụng với mọi lo toan cho cuộc sống đời thường…
Thứ hai, tác động của sự phát triển khoa học và công nghệ
Mục tiêu của CNH, HĐH ở nước ta không những chỉ là sự tăng trưởng kinh tế mà còn nhằm tạo ra những điều kiện thúc đẩy nhanh sự tiến bộ xã hội, thực hiện dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Mục tiêu đó chỉ có thể thực hiện bằng con đường phát triển khoa học và công nghệ: “Cùng với giáo dục đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” [Đại hội X 2006: 94-95].
Khoa học công nghệ không chỉ có ý nghĩa lớn lao trong lĩnh vực sản xuất vật chất mà còn là cơ sở để xây dựng nền văn hóa tinh thần của chế độ XHCN. Cùng với quá trình đổi mới về khoa học, công nghệ là quá trình chuyển đổi về tâm lý, phong tục, tập quán, lối sống thích ứng với nhịp độ và tốc độ của xã hội công nghiệp.
Tất cả những thành tố của công nghệ bằng cách này hay cách khác đều đòi hỏi và tạo điều kiện cho sự phát triển trí tuệ, tri thức của con người. Có tri thức mới có cơ sở để lựa chọn giá trị, sáng tạo và thẩm định các giá trị. Con người có tri thức thường nhạy bén hơn trước những đòi hỏi của cuộc sống. Chính vì vậy, có thể nói, sự phát triển của khoa học công nghệ là một tác nhân giúp hoàn thiện, làm sâu sắc và phong phú hơn những giá trị truyền thống, đồng thời hình thành và phát triển những giá trị mới.
Sự bùng nổ của khoa học và công nghệ làm cho trí tuệ con người phát triển chưa từng thấy, nhưng nó cũng làm cho tư duy của con người hình như trở nên khô khan, công thức hơn, cảm xúc đạo đức của con người trở nên sòng phẳng, lạnh lùng, nhạt nhẽo hơn. Con người mải mê khẳng định, chiếm lĩnh hơn là quan tâm, đồng cảm, chia sẻ cùng nhau. Con người ngày càng ích kỷ, vô cảm hơn.
Mặt khác, một trong những yêu cầu của tiến bộ công nghệ là sự quy cách hóa, chuẩn hóa các yếu tố của công nghệ, của sản xuất và sản phẩm. Quá trình này được phản ánh về mặt văn hóa thành sự đồng nhất hóa các giá trị, các chuẩn mực của lối sống, hành vi, cách ứng xử… Đây là một trong những nguyên nhân của xu hướng đơn điệu hóa về mặt văn hóa, đạo đức. Điều này dẫn đến xu thế xem nhẹ, lãng quên các giá trị truyền thống ở các xã hội đang đẩy mạnh quá trình hiện đại hóa hiện nay.
Đặc trưng của xã hội hiện đại là sự thay đổi nhanh chóng các thế hệ công nghệ và sản phẩm công nghệ. Sự thay đổi nhanh chóng ấy khuyên người ta không nên nhìn nhận giá trị của sự vật một cách bất biến, trường tồn. Khi chuyển dịch sang lĩnh vực văn hóa, người dân cởi mở và linh hoạt hơn cho sự biến đổi và tiếp thu các giá trị mới. Tuy nhiên, sẽ dẫn tới thái độ hư vô chủ nghĩa đối với những giá trị truyền thống, người ta khó tin vào những chân giá trị, những giá trị trường tồn. Điều này dẫn đến tâm trạng bất an về mặt xã hội, cản trở sự xác lập hệ giá trị mới. Để khắc phục mặt trái của khoa học công nghệ, vấn đề đặt ra chúng ta phải đổi mới, nâng cấp chúng trên tinh thần những đòi hỏi của điều kiện mới cũng là một trong những tính quy luật của việc xây dựng hệ giá trị mới.
Thứ ba, tác động của toàn cầu hóa
Ngày nay, không một dân tộc, một quốc gia nào có thể độc lập giải quyết các vấn đề của chính mình, có thể tự phát triển trong trạng thái biệt lập, khép kín, đứng ngoài xu thế biến đổi mạnh mẽ của thế giới. Do các quá trình liên kết, toàn cầu hóa đang làm hình thành một thị trường thế giới thống nhất, sự lưu thông tự do hàng hóa và phổ biến thông tin… qua đó làm liên thông các nền văn hóa với nhau. Cộng với các dòng dân cư di chuyển qua lại giữa các biên giới đã dẫn đến hiện tượng giao lưu và tiếp biến văn hóa một cách đa chiều. Xu thế mở cửa, giao lưu, hội nhập văn hóa đã thúc đẩy các dân tộc, các nền văn hóa trở nên gần gũi và hiểu biết nhau hơn, khắc phục sự biệt lập, tạo nên sự thống nhất trong đa dạng của các giá trị, các nền văn hóa. Giao lưu văn hóa sẽ thúc đẩy việc tiếp nhận những giá trị mới, làm phong phú và tăng cường sức sống cho hệ giá trị của xã hội, nó cũng tạo điều kiện thuận lợi cho việc xác nhận và đánh giá lại các chân giá trị truyền thống.
Chúng ta cũng nhận thức được rằng, toàn cầu hóa là cơ hội lớn để Việt Nam học hỏi và phát huy những giá trị của mình. Trong những năm gần đây, sự giao lưu rộng rãi về văn hóa giúp cho chúng ta có cơ hội tiếp xúc nhiều hơn, hiểu biết sâu sắc thêm về các dân tộc trên thế giới, chọn lọc và tiếp thu giá trị của nhân loại, từ đó có thể bổ sung và làm giàu có, phong phú thêm cho hệ giá trị truyền thống của dân tộc; đồng thời, giới thiệu với thế giới những giá trị và nét đẹp đặc sắc của văn hóa Việt Nam. Ở góc độ này, toàn cầu hóa thực sự là con đường đúng đắn để chúng ta xây dựng nền văn hóa “tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” làm nền tảng cho nhân cách, lối sống của con người Việt Nam hiện đại, hình thành những giá trị mới phù hợp với thời đại.
Cùng với kinh tế thị trường, toàn cầu hóa hình thành trong con người tính chủ động sáng tạo, độc lập trong suy nghĩ và hành động. Đồng thời, quá trình này cũng hình thành một số giá trị mới như: tinh thần làm việc độc lập, tự chủ, khả năng quyết đoán, dám làm dám chịu trách nhiệm trong công việc. Sự tác động mang tính tích cực này nhằm loại trừ thói dựa dẫm, ỷ lại vốn hình thành trong thời kỳ kinh tế bao cấp. Nó cũng khắc phục quan niệm giản đơn và ấu trĩ trước đây về chủ nghĩa xã hội khi hòa tan cá nhân vào tập thể.
Toàn cầu hóa còn tạo điều kiện cho sự truyền bá nhanh chóng và chuyển giao trên quy mô ngày càng lớn những thành tựu khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại. Nhờ đó, chúng ta có thể tiếp cận, cập nhật với nguồn thông tin, tri thức khổng lồ của nhân loại, giúp cho trình độ dân trí được nâng cao rõ rệt, từ đó con người Việt Nam trở nên linh hoạt, năng động, tư duy sắc bén hơn. Điều này rõ ràng có tác động tích cực tới sự biến đổi và hình thành hệ giá trị của chúng ta như đã phân tích ở phần trên.
Bên cạnh những mặt tích cực, tác động theo chiều hướng ngược lại của toàn cầu hóa đối với con người và các giá trị xã hội không phải là ít. Toàn cầu hóa là nguyên nhân, là điều kiện làm xuất hiện và thúc đẩy quá trình tác động, xâm nhập, bổ sung, thậm chí xung đột lẫn nhau giữa các hệ thống giá trị, các chuẩn mực đạo đức là truyền thống và hiện đại, dân tộc và quốc tế. Trong đó, khả năng diễn ra sự ảnh hưởng, tác động, thậm chí là áp đặt, lấn át về giá trị và lối sống của một số quốc gia, dân tộc tới các quốc gia, dân tộc khác là điều khó tránh. Điều đó làm dấy lên sự lo ngại trong xã hội về một kết cục không mấy tốt đẹp cho thế hệ trẻ trong tương lai, khi nguy cơ đánh mất mình, phai nhạt bản sắc văn hóa dân tộc là rất có thể xảy ra. Điều này đặt chúng ta trước những thách thức lớn đòi hỏi phải vượt qua để không “trở thành bóng mờ hoặc bản sao chép của người khác” trong việc xây dựng hệ giá trị mới.
Đi liền với tình trạng trên là sự du nhập của các quan điểm, các học thuyết tư sản phương Tây xa lạ về đạo đức, lối sống, trái ngược với truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc, thậm chí là những phản giá trị, phản văn hóa, phản đạo đức. Hiện nay, chúng ta phải đối mặt với những hiện tượng, những biểu hiện xuống cấp, biến chất về văn hóa, đạo đức, làm suy thoái nhân cách. Đó là căn bệnh sùng ngoại, chạy theo lối sống hưởng thụ, tự do cực đoan của phương Tây. Các sách báo, phim ảnh, băng hình… có nội dung kích động bạo lực nhập lậu vào nước ta đã gây tác động xấu đến đạo đức, lối sống, thuần phong, mỹ tục của dân tộc. Sự biến đổi nhanh chóng của các chuẩn mực hành vi, những giá trị xã hội dẫn đến tình trạng người lớn tuổi ngày càng suy giảm khả năng thích nghi với cái hiện đại. Trong khi đó, tuổi trẻ vốn năng động, nhạy cảm với cái mới, cái lạ, có khả năng và hào hứng tiếp thu nhanh chóng những quan niệm mới, lối sống mới, lạ, từ đó dễ tạo ra sự xung đột giữa các thế hệ.
Như vậy, sự biến đổi của giá trị ở nước ta hiện nay diễn ra phức tạp, có cả tích cực lẫn tiêu cực, thậm chí có đảo lộn nền văn hóa trước nguy cơ mai một, mất bản sắc. Để hội nhập một cách có hiệu quả, không để hòa tan vào xu thế chung mà vẫn giữ được những nét riêng của dân tộc thì cần nhận thức rõ những cơ hội và thách thức mà quá trình toàn cầu hóa mang lại. Mỗi quốc gia, dân tộc phải tự tìm cho mình định hướng giá trị đúng đắn trong bối cảnh toàn cầu hóa nhằm mục đích giữ gìn và phát huy các giá trị truyền thống của mình. Phải thấy được những biến đổi của các giá trị truyền thống trong bối cảnh toàn cầu hóa để đưa ra phương pháp mang tính định hướng cho sự phát triển hài hòa, không bị tác động bởi những giá trị mang tính tiêu cực.
Thứ tư, tác động của các giá trị truyền thống
Nhân tố truyền thống luôn là cơ sở quan trọng để làm nền tảng cho sự đổi mới. Để hình thành hệ giá trị Việt Nam thì một trong những yêu cầu mang tính nguyên tắc đó là phải: kế thừa các giá trị truyền thống của dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa của loài người.
Nói đến các giá trị truyền thống của dân tộc ta là nói đến những phẩm chất tốt đẹp đã hình thành và được lưu truyền, chọn lọc, kế thừa từ thế hệ này đến thế hệ khác. Đó là các giá trị nhân văn mang tính cộng đồng, tính ổn định tương đối, thể hiện trong các chuẩn mực mang tính phổ biến có tác dụng điều chỉnh hành vi của con người. Do giá trị truyền thống có tính ổn định tương đối, vai trò và sự tác động của các giá trị truyền thống có thể khác nhau qua các thời kỳ lịch sử. Có những giá trị truyền thống trước đây có ý nghĩa tích cực, nhưng này nay lại bị coi là phản tiến bộ, phản phát triển. Vì thế, nghiên cứu sự tác động của các giá trị truyền thống đến cuộc sống hiện tại là một nhiệm vụ quan trọng để giúp chúng ta phân biệt được những tác động tích cực với những tác động tiêu cực, để từ đó phát huy mặt tích cực và khắc phục mặt tiêu cực của các giá trị truyền thống, hình thành hệ giá trị mới.
Dựa trên những quan điểm của các nhà khoa học cũng như của Đảng ta, có thể thấy các giá trị truyền thống cơ bản của dân tộc ta bao gồm: chủ nghĩa yêu nước, lòng nhân ái, bao dung, ý thức cộng đồng, tinh thần đoàn kết, truyền thống cần cù, tiết kiệm, sáng tạo trong lao động, tinh thần lạc quan, lòng dũng cảm, bất khuất, tinh thần hiếu học. Trong giai đoạn hiện nay chúng ta cần tiếp tục khai thác có hiệu quả các giá trị truyền thống nhằm mục tiêu phát triển và hiện đại hóa đất nước.
Một điều đáng lưu ý là, trong hệ thống các giá trị truyền thống Việt Nam có không ít những giá trị mà chúng ta có thể thấy ở các dân tộc khác bởi lẽ trong cái dân tộc bao giờ cũng có cái nhân loại và cái dân tộc không thể đứng ngoài cái nhân loại. Tuy nhiên, cái làm nên sự đặc thù, độc đáo, nét riêng trong các giá trị truyền thống chỉ có ở Việt Nam chính là được tạo nên bởi những điều kiện tự nhiên đặc thù, hoàn cảnh lịch sử - xã hội mà dân tộc Việt Nam đã trải qua.
Chẳng hạn, nói đến lòng yêu nước thì bất cứ một dân tộc nào cũng có lòng yêu nước của họ. Lòng yêu nước đó tuy một phần là tình cảm rất tự nhiên, nhưng mặt khác quan trọng hơn, nó chính là sản phẩm của lịch sử, được hun đúc bởi chính lịch sử dân tộc. Cùng với sự tiến triển của lịch sử Việt Nam, lòng yêu nước đã trở thành chủ nghĩa yêu nước, trở thành một giá trị, một động lực tinh thần mạnh mẽ thúc đẩy giúp nhân dân ta chiến thắng giặc ngoại xâm mạnh hơn mình gấp bội, nó cũng là động lực to lớn trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước hiện nay.
Hiện nay, với việc phát triển kinh tế thị trường và sự tác động mạnh mẽ của toàn cầu hóa, khoa học công nghệ làm cho tư tưởng, lối sống của con người Việt Nam hiện nay có những biến đổi nhất định. Do đó, chúng ta cần nhận thức sâu sắc hơn nữa về vai trò của giá trị truyền thống, cần kế thừa chọn lọc và phát huy những giá trị phù hợp với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay. Có một số giá trị truyền thống đã không còn phù hợp thì ta cần phải lọc bỏ (tư tưởng trọng nông, tư tưởng an bần lạc đạo…) và cũng có những giá trị mới cần được khẳng định và đề cao như giá trị cá nhân, tính năng động sáng tạo, sự quyết đoán, khả năng thích ứng nhanh với điều kiện mới. Dẫu vậy, chúng ta không phủ nhận vai trò nền tảng của các giá trị truyền thống. Hệ giá trị mới sẽ không thể hình thành và phát triển nếu gạt bỏ các giá trị truyền thống. Việc xây dựng nền văn hóa mới, lối sống mới, con người mới mà không lấy những giá trị truyền thống dân tộc làm cơ sở là sẽ tự đánh mất mình, “trở thành bóng mờ hoặc bản sao chép của người khác”.
Theo quan niệm của chủ nghĩa Mác, tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, một khi nền tảng kinh tế - xã hội thay đổi tất yếu dẫn đến những thay đổi trong hệ thống giá trị tinh thần. Cùng với quá trình xây dựng xã hội mới, hệ giá trị Việt Nam đang có sự biến đổi nhanh chóng, phức tạp, có cả biến đổi tích cực và tiêu cực, thể hiện sự đấu tranh, giằng co quyết liệt giữa tiến bộ và lạc hậu, thiện và ác, giá trị mới và giá trị cũ. Sự thay đổi đó không chỉ phản ánh quá trình vận động và phát triển thường xuyên của hệ giá trị mà suy cho cùng, nó phản ánh và là biểu hiện hợp quy luật của quá trình vận động, phát triển của đời sống tinh thần của xã hội dưới tác động của những biến đổi diễn ra trong đời sống kinh tế - xã hội. Sự thay đổi hệ giá trị của xã hội đã ảnh hưởng đến sự thay đổi trong quan niệm, chuẩn mực, phẩm chất và hành vi đạo đức cá nhân của từng con người thuộc những thế hệ, giới tính, vị thế xã hội và nghề nghiệp xã hội. Nắm bắt đúng quá trình chuyển đổi này có ý nghĩa rất quan trọng. Nó giúp chúng ta nhìn nhận quá trình chuyển đổi này với thái độ bình tĩnh, kịp thời phát hiện những biểu hiện tiêu cực cần ngăn chặn và những nhân tố tích cực hợp lý cần được phát huy.
Tài liệu tham khảo và trích dẫn
1. VOV 2013: Xây dựng Hệ giá trị văn hóa Việt Nam trong tình hình mới (ngày 19-8). http://vov.vn/van-hoa/xay-dung-he-gia-tri-van-hoa-viet-nam-trong-tinh-hinh-moi-276535.vov
2. Đại hội X 2006: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X. - NXB Chính trị Quốc gia.
Nguồn: Bài viết tham gia hội thảo “Hệ giá trị Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”. Kỷ yếu hội thảo in thành sách “Một số vấn đề về hệ giá trị Việt Nam trong giai đoạn hiện tại”