1.Trong công trình "Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam" viết vào năm 1996, tác giả Trần Ngọc Thêm có đưa ra một kiến giải về hệ toạ độ 3 chiều của văn hoá bao gồm: không gian văn hoá, thời gian văn hoá và chủ thể văn hoá nhằm xác định sắc thái chung, riêng của một vùng văn hoá. Quan niệm/cách kiến giải đó cho thấy: khi muốn tìm hiểu về dặc trưng văn hoá của một vùng, miền nào đó không thể nào lại tách riêng các yếu tố hợp thành. Dù thế trong bài viết này chúng tôi chỉ đi vào tìm hiểu yếu tố con người/chiều chủ thể cuả văn hoá (cụ thể hơn là tìm hiểu nguồn gốc các dân tộc-chủ nhân của những mảng màu làm nên sắc thái văn hoá Huế).
2. Huế (rộng ra là Thừa Thiên Huế) là một vùng đất có con người cư trú từ lâu đời. Kết quả nghiên cứu thời tiền sử, sơ sử trên đất Thừa Thiên Huế trong thời gian qua cho thấy vào thời đá mới (1) trên vùng đất này đã có con người ngụ cư. Tuy nhiên những con người của thời kỳ xa xưa này có phải là tổ tiên của những cư dân trên đất Thừa Thiên Huế hiện nay hay không còn đang chờ lời giải của các nhà khoa học. Dù thế một điều có tính chất khẳng định qua các nhà khoa học. Dù thế một điều có tính chất khẳng định qua các nghiên cứu về nguồn gốc dân cư ở Thừa Thiên Huế là vùng đất này luôn thể hiện tính liên tục, tính tiếp nối giữa quá khứ và hiện tại về mặt cư trú của các thành phần dân cư. Theo báo cáo của Chi cục Thống kê Thừa Thiên Huế, hiện bay trên vùng đất này có khá nhiều dân tộc khác nhau cùng sinh sống (số liệu của Chi cục Thống kê năm 2005 là 17 dân tộc). Trong các dân tộc đó, nếu xét về mặt số lượng, thời gian cư trú, sự gắn bó, về việc tạo dựng, giữ gìn và phát triển vùng đất (hay nói khác đi là cư dân bản địa-chủ thể làm nên sắc thái văn hoá Huế), theo chúng tôi gồm có dấu ấn văn hóa các dân tộc thiểu số,văn hoá Chăm, văn hoá Việt (Kinh) và văn hoá Hán (Hoa). Đó cũng là lý do cắt nghĩa cho việc khi tìm hiểu nguồn gốc dân cư ở Thừa Thiên Huế, chúng tôi chỉ đi vào giới thiệu khái quát nguồn gốc của những bộ phận dân cư được xem là có quá tình sống lâu dài, gắn bó mật thiết với vùng đất. Cụ thể:
2.1.Về nguồn gốc các dân tộc thiểu số ở phía Tây
Các dân tộc thiểu số sống ở miền Tây tỉnh Thừa Thiên-Huế (tập trung đông nhất là ở huyện A Lưới, huyện Nam Đông) hiện nay bao gồm người Tà Ôi (với các nhóm địa phương: Tà Ôi, Pacô, Pahy), người Cơtu và người Bru-Vân Kiều (nhóm Vân Kiều sống ở huyện Hương Trà, huyện Phong Điền và huyện Phú Lộc). Về nguồn gốc xa xưa của các dân tộc thiểu số này hiện vẫn còn nhiều ý kiến tranh luận khác nhau, bởi trên thực tế quá trình tộc người ở khu vực này là khá phức tạp (2). Dù thế về cơ bản các công trình nghiên cứu về nguồn gốc các dân tộc thiểu số phía tây của vùng đất Thừa Thiên Húê nói riêng, của khu vực Quảng Bình, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam nói chung cũng đã chỉ ra:
2.1.1.Các dân tộc Cơtu, Tà Ôi, Bru-Vân Kiều là những dân tộc bản địa, có quá trình hình thành, tồn tại và phát triển lâu dài, liên tục gắn bó với khu vực vùng núi bắc Trung Bộ. Nguyên xưa họ là những người Khạ, Sộ của vùng trung Đông Dương nhưng đã bị vỡ vụn để hình thành nên những tộc người mới, do nhiều nguyên nhân tác động (tự nhiên, lịch sử, xã hội), các nhóm người này khi chưa kịp định hình/chín muồi đã lại bị vô số các tác động/thúc ép từ bên ngoài và ngay cả bên trong làm cho khó đạt được sự thống nhất cao về mặt tộc người. Đó cũng là lý do cắt nghĩa cho việc hình thành nhiều nhóm địa phương của các dân tộc thiểu số trong khu vực.
2.1.2. Địa bàn cư trú của các dân tộc Tà Ôi, Cơtu, Bru-Vân Kiều khá rộng, bao gồm phía tây và phía đông dãy Trường Sơn của các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế và Quảng Nam. Kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học cũng đã chỉ ra, do đặc thù của kiến tạo địa hình khu vực có nhiều dãy núi đâm ngang ra tận biển, đồng bằng chỉ là sự nối dài của chân núi...nên trong lịch sử cư trú của các tộc người thiểu số nơi đây có thời kỳ họ đã vượt vùng núi, vùng gò đồi tiến xuống cư trú ở đồng bằng (thậm chí nhích dần ra sát biển).
2.1.3 Hiện tại các nhà khoa học cũng thống nhất: các dân tộc Tà Ôi, Cơtu, Bru-Vân Kiều xét về mặt ngôn ngữ đều thuộc vào nhóm Môn Khơme của ngữ hệ Nam Á, xét về mặt nhân chủng đều thuộc vào loại hình Nam Á của tiểu chủng Mông-gô-lô-ít phương Nam, thuộc đại chủng Mông-gô-lô-ít.
2.1.4 Trên phương diện văn hoá, giữa các dân tộc Tà Ôi, Cơ tu, Bru-Vân Kiều có nhiều điểm khác nhau thể hiện trên các thành phố văn hoá (văn hoá sản xuất, văn hoá đảm bảo đời sống, văn hoá chuẩn mực xã hội, văn hoá phi vật thể), nhưng do cùng sống với nhau lâu đời trên cùng một khu vực lịch sử-dân tộc học (3), cùng một nguồn gốc, cùng mục đích chinh phục thiên nhiên và đấu tranh chống ngoại xâm nên giữa các dân tộc nơi đây đã hình thành sắc thái văn hoá chung của cộng đồng, góp vào sắc thái văn hoá của khu vực. Hay nói một cách khác trong sắc thái văn hoá Huế có mảng màu/dải tầng của văn hoá các dân tộc thiểu số-mảng màu góp phần làm đa dạng sắc thái văn hoá Phú Xuân, văn hoá Huế qua 700 năm tồn tại và phát triển.
2.2.Về nguồn gốc dân tộc Kinh (Việt)
Người Kinh (Việt) là tộc người có số lượng dân số đông nhất ở Thừa Thiên Huế, hiện tại người Kinh cư trú khắp các vùng sinh thái khác nhau của tỉnh. Ngược dòng thời gian về thời kỳ tiền sử, sơ sử, người Kinh hiện nay ở Thừa Thiên-Huế có gì liên quan với chủ nhân các di chỉ khảo cổ trên vùng đất này còn phải chờ kết luận của các nhà khảo cổ! Có điều theo các tư liệu thành văn (4) người Kinh ở thành phố Huế hiện nay có liên quan mật thiết về mặt nguồn gốc với người Kinh (Việt) trong quá trình Nam tiến của dân tộc Việt Nam. Quá trình này có thể được bắt đầu từ thời kỳ nhà Lý, nhưng để khẳng định vào thời kỳ này người Kinh (Việt) đã có mặt ở Thừa Thiên Huế thì chưa đủ cơ sở. Các tài liệu thành văn có được, khi nói đến sự có mặt của người Kinh (Việt) ở Thừa Thiên-Huế thường lấy sự kiện cuộc hôn nhân của vua Chế Mân và Huyền Trân công chúa dưới thời Trần Anh Tông, niên hiệu Hưng Long thứ 14 (1306) để nhắc đến sự có mặt đầu tiên của người Kinh (Việt) trên vùng đất này. Như thế với cuộc hôn nhân lịch sử Chăm-Việt, Châu Ô, Châu Lý đã thuộc về chủ quyền quốc gia Đại Việt và cũng từ đó cho đến nay liên tiếp, dồn dập diễn ra những đợt di dân lớn nhỏ từ Bắc vào, từ Nam ra trên đất Thừa Thiên-Huế. Đó là những đợt di dân:
- Đợt di dân theo Huyền Trân công chúa đầu thế kỷ XIV.
- Đợt di dân thời Lê thế kỷ XV.
- Đợt di dân từ miền Bắc vào giữa thế kỷ XVI, khi Nguyễn Hoàng vào trấn thủ xứ Thuận-Quảng.
- Đợt di dân từ Quy Nhơn, từ miền Nam ra thời Nguyễn Hụê và thời đầu các vua Nguyễn (cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX).
- Đợt di dân từ miền Bắc vào cua những năm 1954-1955.
- Đợt di dân từ Quảng Trị vào (năm 1972).
- Và cũng cần kể đến sự hội tụ của người Kinh, của các vùng/miền khác nhau của đất nước đến Thừa Thiên Huế từ sau năm 1975 (năm miền Nam hoàn toàn giải phóng) cho đến tận bây giờ.
Kết quả của những cuộc di dân đó đã hình thành nên cộng đồng người Kinh sống ở trên đất liền, cũng như trên sông nước ở Thừa Thiên-Huế hiện nay. Tuy nhiên trong các đợt di dân của người Kinh (Việt) đến Thừa Thiên-Huế như đã nói ở trên thì đợt di dân thời kỳ các chúa Nguyễn là lớn, ồ ạt nhất và đáng quan tâm nhất. Bởi vì, theo chúng tôi, kết quả di dân của thời kỳ này đã góp phần quan trọng vào việc làm nên diện mạo cư dân Thừa Thiên-Huế với những gì mà chúng ta biết hiện nay... Có thể nói quá trình tụ cư của người Kinh (Việt) trên đất Thừa Thiên-Huế là một quá trình liên tục, lâu dài. Quê hương bản quán của người Kinh (xưa và nay) trên đất Thừa Thiên-Huế có thể ở vùng Sơn Nam, Sơn Tây, Kinh Bắc và nhiều nơi khác nữa (5), nhưng đông hơn vẫn là vùng Thanh-Nghệ-Tĩnh. Điều này đã được Dương Văn An nói rõ trong "Ô châu cận lục", khi xét đến nguồn gốc dân cư Thuân Hoá "Nhân dân thì đàn ông khá cương cường, đàn bà hơi mềm mại. Tiếng nói hơi giống miền Hoan Ái"(6). Lý do, hoàn cảnh, thân phận của những người Kinh (Việt) đến Thừa Thiên-Huế là hoàn toàn không giống nhau. Có thể họ di cư đến Thừa Thiên-Huế một cách tự nguyện, xuất phát từ một thôi thúc, một tình cảm, nhưng có thể bị lưu đày, bị băt buộc. Theo sự tổng kết của tác giả Phan Khoang thì vào thời Lê-Trịnh-Nguyễn nhân dân Thuận Hoá bao gồm những thành phần rất phức tạp. Ngoài những người Chăm lo cày cấy làm ăn, còn có những người theo nhà Mạc hoặc khuấy động cho nhà Mạc, những người tù đầy, những người du đảng, phiêu lưu từ các miền Thanh-Nghệ-Tĩnh hoặc xa hơn nữa xâm nhập qua các thời đại, đi tìm may mắn ở miền đất mới. Những người quân dân bất mãn họ Trịnh hoặc bị lầm lỗi bỏ chạy vào nam, những thổ hào, thổ tù ương ngạnh, nhũng nhiễu lương dân... Trong thời kỳ cận đại nhất là thời kỳ hiện đại còn là những người vợ theo chồng, chồng theo vợ, hay những người được thuyên chuyển theo yêu cầu của công việc, của học tập, nghiên cứu khoa học,... Quả là hoàn cảnh, địa vị, thân phận, mục đích của người Kinh khi đến Thừa Thiên-Huế là rất khác nhau, bên cạnh những điểm chung giống nhau là muốn theo dòng chảy "quá trình Nam tiến" của dân tộc một cách vô thức hay ý thức. Có thể nói trên con đường phát triển về phía Nam của dân tộc, những người Kinh từ khắp các địa phương khác nhau của miền Bắc khi dừng chân ở Thừa Thiên-Huế đã lấy vùng đất này làm quê hương và sáng tạo nên những giá trị văn hoá mang sắc thái của miền núi Ngự, sông Hương.
2.3 Về dấu ấn văn hoá Chăm và nguồn gốc của người Hoa
2.3.1 Thừa Thiên-Huế nói riêng, miền Trung nói chung có một thời kỳ từng là vùng đất sinh sống của người Chăm (Chàm) chủ nhân của vương quốc Chămpa-một vương quốc có nền văn hoá phát triển ở phía Nam nước Đại Việt. Vương quốc Champa có những phát triển mạnh mẽ ở thế kỷ VII, VIII, IX, nhưng do những nguyên nhân khách quan và chủ quan tác động đã bị suy yếu trong các thế kỷ XI, XII, vương quốc này suy tàn. Vương quốc mất, nhưng người Chăm thì vẫn còn.Cố giáo sư Trần Quốc Vượng rất có lý khi cho rằng: "có chiến tranh là có chết chóc, nhưng không hề sự tiêu diệt và khu trục người Chăm ra khỏi vùng Thuận Hoá, Quảng Nam(7),...Hơn thế khi lần theo các dấu tích văn hoá Chăm trên đất Thừa Thiên Huế với những đền tháp (Liễu Cốc, Linh Thái, Mỹ Khánh, Ưu Điềm, Trạch Phổ, Vân Trạch Hoà,...), thành luỹ (Hoá Châu, Thành Lồi), các di vật, văn bia (có khá nhiều trên các địa phương của tỉnh) và hậu duệ của các dòng họ Ôn, Ma, Trà, Chế,...chúng ta càng thấy rõ hươn nhận định đó. Như vậy, người Chăm ở lại vùng Thuận Hoá đâu chỉ có một nguồn từ cuộc hôn nhân Chế Mân-Huyền Trân mà còn là sự hiện hữu của nhiều nguồn khác nữa. Tất cả những điều đó đã làm nên mảng màu văn hoá Chăm trong văn hoá Huế.
2.3.2 Người Hoa ở Thừa Thiên Huế hiện nay có số lượng không nhiều (khoảng 500 người) và sống tập trung ở thành phố Huế (phường Phú Hoà, Phú Cát, Phú Hiệp). Hiện tại chưa có tài liệu nào khẳng định chắc chắn thời điểm có mặt sớm nhất của người Hoa ở thành phố Huế. Nhưng có thể nói cùng với sự ra đời của cảng Thanh Hà, của làng Minh Hương là sự có mặt của người Hoa trên vùng đất Thuận Hoá vào những năm cuối thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVII. Lúc đầu có thể người Hoa cư trú ở khu vực cảng Thanh Hà, nhưng sau đó họ chuyển lên khu vực Bao Vinh, Chợ Dinh, Gia Hội và hình thành nên cộng đồng người Hoa ở Thừa Thiên -Huế trong nhiều thế kỷ qua. Người Hoa ở Thừa Thiên -Huế hiện nay vốn có nguồn gốc là những người Hoa ở vùng Quảng Đông, Phúc Kiến của đất nước Trung Quốc. Có nhiều lý do cắt nghĩa cho vịêc người Hoa ở Trung Quốc sang di cư ở vùng đất Thừa Thiên Huế (buôn bán, làm ăn, chạy trốn sự truy nã của triều đại mới...) trong đó lý do chính trị gắn với sự kiện "Bài Thanh, phục Minh" là lý do được nhiều người tán đồng nhất. Người Hoa ở Thừa Thiên -Huế hiện nay làm nhiều công vịêc khác nhau để mưu sinh, tuy nhiên công việc sở trường của họ vẫn là hoạt động buôn bán, các dịch vụ thương nghiệp,...Với những công việc này cộng với truyền thống văn hoá dân tộc, trong quá khứ cũng như hiện tại, cộng đồng người Hoa ở Thừa Thiên Huế đã tạo nên một mảng màu trong văn hoá Huế.
3. Những nhận biết về mặt nguồn gốc dân cư của Thừa Thiên Huế trên đây cho thấy
-Thứ nhất: Xét về mặt thành dân tộc, nguồn gốc dân tộc, từ rất lâu trong lịch sử vùng đất Thừa Thiên Huế đã có sự cộng cư sinh sống của nhiều bộ phận dân cư khác nhau. Đó là các cư dân thuộc ngữ hệ Nam Á (bao gồm dân tộc Việt và các dân tộc thiểu số ở phía Tây), cư dân thuộc ngữ hệ Nam Đảo (người Chăm) và những cư dân thuộc ngữ hệ Hán-Tạng (người Hoa).
Từ rất sớm các cư dân này về mặt nhân chủng đã có sự hỗn dung đa phương, đa tuyến. Lịch sử đã từng nghi nhận có trường hợp người Việt lấy người Chăm (mà câu chuyện tình bi ai của Huyền Trân công chúa và vua Chế Mân là một ví dụ), người Việt lấy người Hoa (làng Minh Hương), người dân tộc thiểu số ở phía tây lấy nhau và về sau này (nhất là giai đoạn hiện nay) người Việt lấy người dân tộc thiểu số ở phía Tây,...Rõ ràng từ rất lâu trên đất Thừa Thiên -Huế đã có pha trộn dòng máu giữa các thành phần dân tộc sống trên vùng đất này.
-Thứ hai: Mỗi một thành phần dân tộc (Tà Ôi, Cơtu, Bru-Vân Kiều, Chăm, Việt, Hoa,...) trên đất Thừa Thiên -Huế trong quá trình hình thành, tồn tại và phát triển của mình đều sáng tạo nên những giá trị văn hoá riêng của từng dân tộc. Những giá trị văn hoá riêng đó là lẽ sống, là niềm tự hào, là động lực giúp các dân tộc thích ứng với mọi điều kiện/vượt qua được mọi thử thách của lịch sử, xã hội, tự nhiên. Tuy thế những cái riêng đó do nhiều nguyên nhân khác nhau tác động (yêu cầu cố kết sống còn của một vùng đất/của một quốc gia đa dân tộc, sự thúc ép dữ dội của những lựa chọn/những thách đố, hệ quả của một quá trình cộng cư, cộng cảm, cộng mệnh lâu dài,...) nên không bao giờ là một cái riêng tách rời, đối lập. Có thể nói những cái riêng đó qua tiến trình lịch sử của vùng đất đã quan hệ, trộn lẫn, tiếp thu, bổ sung, hoà quyện vào nhau dẫn tới một sự thống nhất trong đa dạng, làm nên một tiểu vùng văn hoá, một sắc thái văn hoá Huế. Hay nói một cách khác sự hiện diện của văn hoá Tà Ôi, Cơ Tu, Bru-Vân Kiều, văn hoá Chăm, văn hoá Việt, văn hoá Hoa là sự hiện diện của những mảng màu khác nhau trong bức tranh chung toàn cảnh văn hoá vùng, trong sắc thái văn hoá Huế.
Điều đó cũng có nghĩa khi nói đến chủ thể của văn hoá Huế (Thừa Thiên -Huế) là chúng ta nói đến các dân tộc khác nhau trên vùng đất này, là chúng ta nói đến sự sáng tạo không ngơi nghỉ của nhiều dân tộc, nhiều lớp người góp phần vào việc làm nên những sắc thái văn hoá Huế. Đó là chúng ta chưa nói đến tác động của dòng luân chuyển văn hoá Đông, Tây, dòng chảy văn hoá đất nước, quốc gia hoà lẫn vào đây khi Huế trở thành thủ phủ xứ Đàng Trong, kinh đô mấy trăm năm của nước Việt Nam thống nhất.
4. Những điều trình bày trên của chúng tôi về nguồn gốc dân cư, nguồn gốc các dân tộc ở Thừa Thiên Huế cũng chỉ là những phát hoạ khái quát về nguồn gốc các chủ thể văn hoá. Điều mà chúng tôi muốn đóng góp một tiếng nói vào hội thảo "700 năm Thuận Hoá-Phú Xuân-Thừa Thiên Huế" là chúng ta đã có những kết quả nghiên cứu rất có giá trị về thời gian văn hoá và chúng ta cũng cần có nhiều hơn nữa những nghiên cứu về chủ thể văn hoá, về không gian văn hoá Thừa Thiên-Huế là vùng đất có đủ các vùng sinh thái (Rừng núi, gò đồi, đồng bằng/đô thị, đất cát nội đồng, đầm phá, ven biển và biển) mà không phải nơi nào trên đất nước này cũng có được.Điều đó cũng có nghĩa đối tượng nghiên cứu cho sự phát triển của vùng đất đã có chiều dày 700 năm hãy còn rất lớn.
Ghi chú:
(1) Kết luận này dựa trên cơ sở các kết quả nghiên cứu của giới khảo cổ học trong thời gian gần đây như các bài viết về dấu vết thời tiền sử, sơ sử trên đất Thừa Thiên-Huế của TS. Lê Đình Phúc, Ths. Lê Duy Sơn.
(2) Xem các công trình nghiên cứu về các dân tộc ở Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế và Quảng Nam trong thời gian gần đây của các tác giả: Nguyễn Quốc Lộc, Nguyễn Văn Mạnh, Nguyễn Hữu Thông, Trần Văn Tuấn, Dương Đình Khôi, Nguyễn xuân Hồng, Tạ Đức,... (3) Khu vực lịch sử-DTH là khái niệm mà các nhà khoa học Liên Xô trước đây đưa ra nhằm bổ sung thêm vào cách phân loại tộc người.
(4) Các tác phẩm xưa, các bộ sử cua các triều đại phong kiến, văn bia, gia phả, các công trình nghiên cứu.
(5).Huỳnh Đình Kết, làng mạc xứ Huế.
(6) Dương Văn An, Ô Châu cận lục, Văn hoá Á Châu xuất bản, Sài Gòn, 1961, tr. 93.
(7) Đô Thị cổ Hội An, Nxb KHXH, HN, 1991, tr. 60.
Nguồn: http://www.hue.vnn.vn