1. Thật không dễ khi viết về danh nhân, với danh nhân văn hoá Hồ Chí Minh thì lại càng khó hơn. Cái khó không phải do tình cảm, nhận thức của người viết mà chính là nỗi băn khoăn lo lắng vì sợ những dòng chữ ngắn ngủi này không với tới tầm cao và sức lan toả rộng lớn của danh nhân Hồ Chí Minh.
2. Là danh nhân văn hoá thế giới, anh hùng giải phóng dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại hết sức gần gũi, thân thuộc với mọi người dân Việt Nam và với tất cả những ai có lương tri trên trái đất này. Cuộc đời và nhân cách sống của người đã tác động đến mọi người một cách rất tự nhiên và hết sức sâu sắc. Sức chinh phục đó không là gì khác ngoài vẻ đẹp văn hoá - văn hoá Hồ Chí Minh.
Văn hoá Hồ Chí Minh tự thân hàm chứa những giá trị đích thực không cần tô vẽ, đánh bóng. Nếu giá trị văn hoá biểu hiện ở cái đẹp, trong cái đẹp thì vẻ đẹp văn hoá Hồ Chí Minh là vẻ đẹp tự nhiên, hài hoà với tự nhiên. Vẻ đẹp ấy được toát lên từ cuộc sống giản dị, giàu chất phương Đông:
“Bác sống như trời đất của ta,
Yêu từng ngọn lúa, mỗi cành hoa.
Tự do cho mỗi đời nô lệ,
Sữa để em thơ, lụa tặng già”.
(Bác ơi - Tố Hữu)
Một lẽ sống mà Lão Tử, Trang Tử hằng mong muốn lại được tìm thấy ở một con người đời thường của thế kỷ XX. Và khi loài người đang sống trong cái “thế giới nghiêng” vì hậu quả của lòng tham thì cái vẻ đẹp giản dị, chân thực ấy trở thành cao sang và lộng lẫy.
* Ở bình diện văn hoá vật thể, Hồ Chí Minh là một hiện tượng văn vật rất khác thường. Ở Người, tầm vóc đặc biệt của một nhân vật lịch sử hoà quyện trong một con người đời thường mang đậm dấu ấn thời đại. Nói cách khác, Hồ Chí Minh đã sống như thời đại yêu cầu sống và đã hành động như thời đại yêu cầu hành động. Nhân cách sống gương mẫu của Người đã hình thành một lý tưởng sống cao đẹp của thời đại: “Sống là cho đâu nhận chỉ riêng mình”. Lý tưởng sống ấy đã giáo dục và làm nên một thế hệ thanh niên biết yêu, ghét phân minh, dám “xẻ dọc Trường Sơn”, dấn thân vào cuộc trường chinh đầy gian nguy vì nền độc lập, tự do của Tổ Quốc. Khát vọng hành động của Người cũng chính là khát vọng của cả dân tộc: “Dù phải đốt cháy cả dãy Trường sơn, cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”, và “đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” (1). Sự hoà hợp giữa văn hoá Hồ Chí Minh với văn hoá dân tộc bắt đầu từ những mắt xích cơ bản này.
Văn hoá Hồ Chí Minh được nhân dân chấp nhận, tiếp đón và ngưỡng mộ bằng trái tim nên rất tự nhiên, tự nhiên như trong cuộc đời thực nhân dân đã coi “Người là Cha, là Bác, là Anh”. Hiếm thấy ở đâu trên trái đất này, đền thờ, tượng đài, hình ảnh lãnh tụ được tạo dựng một cách tự nguyện, tự giác từ bàn tay và trái tim của nhân dân. Những biểu tượng văn hoá hoá ấy được tạo dựng khắp nơi, ngay trong vùng địch tạm chiếm, bất chấp sự cản ngăn, đe doạ của kẻ thù.
Đối với Hồ Chí Minh, có thấu hiểu sâu sắc cuộc đời của Người mới ý thức hết được giá trị lớn lao của văn hoá Hồ Chí Minh. Mỹ học có nói đến Chân, Thiện, Mỹ”; có bàn về cái trác tuyệt thanh cao, cái trác tuyệt thán phục. Thiết nghĩ, những cái đó có đủ trong văn hoá Hồ Chí Minh nhưng có lẽ chúng ta cũng cần phải suy nghĩ thêm để tìm được từ ngữ nào khác phù hợp hơn để diễn tả thật đủ, thật đúng về giá trị văn hoá Hồ Chí Minh. Tuy chưa định danh được từ ngữ ấy là gì nhưng có một tiêu chí mà từ ngữ đó phải có là được nhân dân Việt Nam chấp nhận và truyền tụng.
* Ở bình diện văn hoá phi vật thể, văn hoá Hồ Chí Minh có một giá trị đặc biệt. Thật không sai chút nào khi các ký giả phương Tây cho rằng, trước khi lên đường cứu nước nhà cách mạng Nguyễn Ái Quốc đã tích lũy cho mình một “nền tảng văn hoá phương Đông vững chắc”. Phải nói thêm rằng cái nền tảng văn hoá phương Đông ấy trước hết là văn hoá Việt Nam. Kết tinh vững chắc những giá trị tinh thần của dân tộc nên dù đi xa ngàn dặm, từng sống nhiều nơi trên khắp trái đất, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn giữ nếp nhà và tập tục sinh hoạt của người Việt Nam, vẫn giữ cốt cách, tinh thần của người dân Việt. Nhân dân Việt Nam tin yêu Người trước hết vì Người là một con người Việt Nam rất Việt Nam. Thế giới ủng hộ Người trước hết vì Người là một con người Việt Nam rất Việt Nam. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về người Việt Nam nhưng có lẽ chỉ những người Việt Nam và những ai thật sự yêu và hiểu Việt Nam mới cảm nhận được “những mối quan hệ hữu cơ và diệu kỳ” ở trong từng mỗi con người Việt. Trong những mối quan hệ ấy có đầy đủ tất cả giá trị văn hiến dân tộc tích tụ từ hàng nghìn năm. Đó là những yếu tố đã góp phần làm nên bản sắc của dân tộc Việt Nam. Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, nhờ ý thức sâu sắc về bản sắc dân tộc mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có một bản lĩnh phi thường, một phong thái độc đáo với vẻ bề ngoài đầy khoan dung và độ lượng. Bản sắc dân tộc trong Hồ Chí Minh đã thôi thúc Người ra đi “tìm hình của nước”. Bản sắc đó giúp Người vượt qua bao gian nguy, thử thách. Bản sắc đó còn tạo ra được một sức thu hút lạ kỳ đối với bè bạn khắp năm châu.
Không dừng ở tầm mức giữ gìn bản sắc, văn hoá Hồ Chí Minh còn thể hiện sự phát triển và nâng cao những giá trị truyền thống một cách đầy sáng tạo. Tính dung hợp của nền văn hoá nông nghiệp lúa nước được thể hiện rất rõ trong cung cách giao tiếp, ứng xử của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người đã dung hợp tài tình văn hoá phương Đông - phương Tây, Việt Nam - thế giới, truyền thống - hiện đại. Đó là sự kết hợp hài hoà giữa cốt cách phương Đông với tư duy hiện đại cùng tác phong làm việc khẩn trương, kỷ luật, tự giác, ... Đó là sự kết hợp hài hòa giữa dân tộc và nhân loại. Dân tộc tính mà không dân tộc cực đoan; cộng đồng nhân loại mà không để mất dân tộc. Đó là sự giữ vững sắc thái truyền thống của quê hương, đất nước, giữa đời sống văn minh, hiện đại. Chính những điều này đã khiến cho Ôxíp Manđenxtam sớm phát hiện ở Hồ Chí Minh “toả ra một thứ văn hoá, không phải văn hoá Châu Âu mà có lẽ là một nền văn hoá tương lai” (2) - nền văn hoá của thời kỳ hội nhập và giữ gìn bản sắc mỗi dân tộc.
Theo thiển ý, còn một điều rất quý báu ở văn hoá Hồ Chí Minh, đó là nhân cách sống giàu tính nhân văn. Nói theo triết lý phương Đông đó là lẽ sống “đạo người phù hợp với đạo trời”. Đạo trời là sự vận hành mạnh mẽ của vũ trụ theo quy luật “thừa bớt, thiếu bù”. Đó cũng là trạng thái tự cân chỉnh để đạt đến sự cân bằng vĩnh cửu của tự nhiên. Đạo người phù hợp với đạo trời là con đường đạt đến công bằng, lẽ phải, an dân, khiến cho “thôn cùng, xóm vắng” đâu đâu cũng ấm no, hạnh phúc.
3. Xây dựng văn hoá Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh vừa là nhiệm vụ cách mạng vừa là tình cảm của mỗi cán bộ đảng viên đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh - người sáng lập, lãnh đạo và giáo dục Đảng Cộng sản Việt Nam. Xây dựng văn hoá Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ giúp mọi người hiểu biết, thấm nhuần giá trị văn hoá Hồ Chí Minh mà còn biết tự thể hiện, tự bộc lộ những giá trị đó. Đây là việc làm đầy ý nghĩa và cần sự kiên trì, nhẫn nại, đặc biệt là sự tự nêu gương sống tích cực, gương mẫu của những cán bộ Đảng.
Không phải đợi đến hôm nay chúng ta mới nói về văn hoá Hồ Chí Minh. Văn hoá Hồ Chí Minh đã từng hiện diện và thấm sâu vào tâm thức mỗi Người Việt Nam ngay khi Người còn sống. Giá trị lớn lao của văn hoá Hồ Chí Minh chính là sức lan toả rộng lớn và luôn luôn có ý nghĩa thực tiễn. Trước lúc đi xa, Người còn kịp để lại cho chúng ta những trang di chúc như một thông điệp văn hoá quý báu có giá trị lâu dài đối với toàn Đảng, toàn dân ta. Nếu ở đâu đó, nếu ai đó “có vấn đề” về văn hoá thì hãy soi mình trước tấm gương văn hoá Hồ Chí Minh để học tập và tự hoàn thiện. Điều này, trước đây, Đảng ta, dân tộc ta, nhân dân ta đã từng làm, làm thật chân thành và chắc chắn sẽ còn làm được trong bối cảnh kinh tế xã hội ngày càng thuận lợi hơn.
Về mặt học thuật, dù có cố gắng phân tích, hệ thống hoá cấu trúc văn hoá Hồ Chí Minh đến đâu cũng khó có thể phản ánh đầy đủ về một đối tượng nghiên cứu rất đặc biệt này. Trộm nghĩ, nghiên cứu, học tập văn hoá Hồ Chí Minh chỉ bằng đầu óc khoa học khách quan tinh tế không thôi thì chưa đủ; người nghiên cứu và người học còn cần phải có trái tim thật nhạy cảm mới có thể nhìn thấy và cảm nhận được những sợi rất nhỏ trong khối sợi liên kết vừa đa sắc màu vừa có tính đặc thù của văn hoá Hồ Chí Minh. Đây là điều khó, thậm chí rất khó, nhưng lại là điều kiện cần và đủ khi nghiên cứu văn hoá Hồ Chí Minh. Nói cách khác, nghiên cứu văn hoá Hồ Chí Minh không chỉ có lý luận mà cần phải có thực tiễn - thực tiễn cuộc sống chiến đấu của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thực tiễn mối quan hệ giữa quần chúng và lãnh tụ trong thời đại Hồ Chí Minh.
Vấn đề là khó nhưng không thể không nói, không làm; và trên đây là những điều cần nói, cần làm để chúng ta cùng nghe và cùng ngẫm nghĩ. Mong sao khi nghiên cứu, học tập văn hoá Hồ Chí Minh, mọi người càng hiểu, càng yêu Bác và để “lòng ta trong sáng hơn”.
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, H.2002, t.2, tr.268.
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, H.2002, t.1, tr.478.