Đặc trưng cơ bản của địa hình vùng đồng bằng này là thấp và tương đối bằng phẳng, dốc thoải từ tây bắc xuống đông nam, giảm dần đến độ cao mặt biển, thể hiện rõ nét dạng khí hậu 4 mùa xuân, hạ, thu, đông, tạo điều kiện cho việc canh tác nông nghiệp, làm thuỷ lợi thâm canh lúa và rau mầu. Cư dân chủ yếu của đồng bằng Bắc Bộ là người Việt với việc trồng lúa là chủ đạo. Vì vậy, dù qua những sự thăng trầm hay biến đổi của lịch sử kinh tế xã hội thì về cơ bản văn hoá của cư dân đồng bằng Bắc Bộ vẫn là văn hoá nông nghiệp lúa nước. Điều này ảnh hưởng mạnh mẽ đến lối sống sinh hoạt văn hoá của con người nơi đây.
Diện mạo đồng bằng Bắc Bộ mang đậm dấu ấn của yếu tố thiên nhiên môi trường với các điều kiện địa hình khí hậu nhiệt đới đặc trưng. Học giả Mĩ CL.Wissler cho rằng khi nghiên cứu vùng văn hoá tức là nghiên cứu một tổ hợp các yếu tố văn hóa được hình thành bởi "quá trình lâu dài nhóm cư dân ấy thích ứng với những điều kiện của môi trường sinh thái"1 (tr.29). Quả thực môi trường sinh thái thiên nhiên đồng bằng Bắc Bộ là yếu tố quan trọng tạo nên tính thống nhất đa dạng của bản chất văn hoá với những phong tục, tập quán, lối sống sinh hoạt của đời sống người dân nơi đây. Điều này được thể hiện rõ trong ca dao dân ca cổ truyền đồng bằng Bắc Bộ qua sự xuất hiện phong phú của các hình tượng thiên nhiên phản ánh sự "thích ứng", với mọi tác động ảnh hưởng của con người và tự nhiên vùng đất này.
Trong các tác phẩm ca dao dân ca trữ tình đồng bằng Bắc Bộ, sự phong phú và đa dạng của thiên nhiên được thể hiện rõ nét qua số lượng thống kê tần số xuất hiện của các hình tượng thiên nhiên ở 8 tư liệu tiêu biểu. Kết quả thống kê cho thấy 304 hình tượng thiên nhiên trong ca dao dân ca trữ tình đồng bằng Bắc Bộ thể hiện với các tần số: Nam phong giải trào 83 lần, Ca dao ngạn ngữ Hà Nội 559 lần, Tục ngữ ca dao dân ca Hà Tây 1230 lần, Hát ví đồng bằng Hà Bắc 1934 lần, Ca dao tục ngữ Nam Hà 1427 lần, Ca dao sưu tầm ở Thanh Hoá 851 lần, Văn học dân gian Thái Bình 1048 lần, Phương ngôn tục ngữ ca dao Hà Nam Ninh 1524 lần
I. Hệ thống hình tượng thiên nhiên liên quan đến ruộng vườn trong ca dao dân ca trữ tình Bắc Bộ
Căn cứ vào cảnh quan địa lí của vùng đồng bằng châu thổ Bắc Bộ với các yếu tố địa chất, địa hình đồng bằng xen lẫn đồi núi sót, kết hợp với quy luật của yếu tố khí hậu địa phương tạo nên môi trường sinh thái với giới sinh vật thích ứng, chúng tôi tiến hành khảo sát thiên nhiên trong ca dao dân ca đồng bằng Bắc Bộ theo các hệ thống hình tượng sau:
- Hệ thống hình tượng thiên nhiên liên quan đến ruộng vườn
- Hệ thống hình tượng thiên nhiên liên quan đến sông nước
- Hệ thống hình tượng thiên nhiên liên quan đến rừng núi
- Hệ thống hình tượng thiên nhiên liên quan đến các hiện tượng tự nhiên và vật thể vũ trụ
Các hệ thống hình tượng thiên nhiên này được phân loại dựa trên sự sắp xếp các sự vật hiện tượng theo phạm vi môi trường cư trú.
Thiên nhiên ở các hệ thống này thể hiện với mầu sắc đa dạng, phong phú; điều này được phản ánh qua các số liệu thống kê của từng hệ thống.
Hệ thống thiên nhiên liên quan đến sông nước có 57 hình tượng bao gồm các hình tượng có vị trí cư trú thuộc môi trường địa lí sông biển như ao, biển, đầm, ghềnh, hồ, nước, ngòi, sóng, sông... các hình tượng thiên nhiên thực vật như bèo, rong, rêu..., động vật như cá, đỉa, ếch, nhái, tôm, tép. Trong đó hình tượng xuất hiện nhiều lần nhất trong các lời ca dao dân ca đồng bằng Bắc Bộ là cá 194 lần, nước 428 lần.
Hệ thống thiên nhiên liên quan đến rừng núi có 24 hình tượng, những hình tượng này được sắp xếp phân loại theo tính chất sự vật thuộc khu vực cư trú của núi rừng như hổ, cọp, hươu, nai, rắn rết, khỉ, đèo đồi, sói, núi non... Theo bảng hệ thống này, rừng và núi non là các hình tượng có số lượng thống kê cao nhất: rừng 52 lần, núi non 310 lần.
Hệ thống thiên nhiên liên quan đến các hiện tượng tự nhiên và vật thể vũ trụ là các hình tượng trăng, sao, trời, sấm sét, mây, mưa, sương, nắng, gió, chớp, cầu vồng... Toàn hệ thống có 14 hình tượng. Đây là bảng thống kê có nhiều hình tượng tham gia với số lượng lớn: nắng 139 lần, mây 153 lần, gió 235 lần, mưa 274, trăng 315, trời 408 lần.
Thiên nhiên liên quan đến ruộng vườn chiếm ưu thế hơn so với các hình tượng thiên nhiên ở các bảng hệ thống khác. Các hình tượng này xuất hiện trong những lời ca dao dân ca trữ tình Bắc Bộ với mầu sắc phong phú:
Em như hoa nở trên cành
Anh như con bướm liệng vành bén hoa
Bây giờ anh lấy người ta
Như dao cắt ruột em ra làm mười.
(Tục ngữ ca dao dân ca Hà Tây)
Ngắt ngọn rau muống ngắt cuống rau răm
Làm chi đến nỗi chàng cầm cổ tay
Bướm đỗ thì bướm lại bay
Những lời chàng nói biết ngày nào quên.
(Hát ví đồng bằng Hà Bắc)
Sự đa dạng của thiên nhiên liên quan đến ruộng vườn được thể hiện ở các số liệu thống kê với 197 hình tượng. Qua khảo sát phân loại hệ thống này theo phạm vi môi trường, chúng tôi có kết quả các số liệu thiên nhiên thực vật là 144 hình tượng chiếm 73%, thiên nhiên động vật 47 hình tượng (23%), thiên nhiên môi trường địa lí - ruộng đồng có 6 hình tượng (3%).
Kết quả khảo sát cho thấy các hình tượng thiên nhiên này có số lần xuất hiện không đồng đều.
Thiên nhiên thực vật - ruộng vườn có số lượng lớn các hình tượng tham gia và tần số xuất hiện của các hình tượng cũng thể hiện ở mức cao: Bầu 12, Bí 14, Gừng 20, Nhài 23, Mạ 24, Mận 28, Mai 29, Mía 34, Đa 36, Quế hồi 51, Chuối 53, Ngô 53, Cà 54, Rau 57, Chè 74, Khoai 74, Tre nứa 81, Lúa 88, Lá 108, Cau 142, Cây 145, Trầu 241, Hoa 437 ...
Thiên nhiên động vật - ruộng vườn có: Nghé 7, Dê 10, Chuồn chuồn 11, Ruồi 12, Mèo 15, Chó 16, Vịt 19, Ong 34, Bò 39, Cò 43, Lợn 44, Bướm 54, Ngựa 65, Trâu 91, Gà 99, Tằm tơ 103, Chim 162
Thiên nhiên môi trường địa lí - ruộng vườn: Ngòi 3, Đầm 9, Cồn 11, Đất 120, Đồng ruộng 231
Trong đó, theo thống kê chi tiết, các hình tượng cây, hoa, rau, chim được thể hiện trong các lời ca với đầy đủ chủng loại phong phú của từng loài như: loài cây gồm cây cảnh, gạo, phướn, sòi, dương liễu...; loài hoa có hoa hồng, hoa nhài, hoa sen, hoa mây, hoa yên, hoa mai, hoa sói, hoa hồi...; các loại rau như rau muống, mùng tơi, cải cúc, bắp cải, dọc mùng...; các giống chim như cuốc, nhạn, phượng, chích choè, quyên, chào mào, bách diệp.... đây là những loài động thực vật quen thuộc ở vùng đồng bằng Bắc Bộ; điều này thể hiện tính muôn mầu sắc của thế giới động - thực vật vùng đất này.
Dựa vào kết quả phân loại trên, chúng tôi có một số nhận xét về hình tượng thiên nhiên liên quan tới ruộng vườn trong ca dao dân ca trữ tình đồng bằng Bắc Bộ
II. Vai trò chủ đạo của thiên nhiên thực vật ruộng vườn trong ca dao dân ca trữ tình đồng bằng Bắc Bộ được lí giải dựa trên đặc điểm tự nhiên văn hoá vùng miền
Nằm giữa hai khu vực núi Đông Bắc và Tây Bắc, đồng bằng Bắc Bộ có địa hình tương đối bằng phẳng, đất đai phì nhiêu do sự bồi đắp của sông Hồng và sông Thái Bình, khí hậu mang độ ẩm cao, chịu ảnh hưởng sâu sắc của chế độ gió mùa phức tạp nên có sự phân định hai mùa đông và hè rõ rệt. Đó chính là điều kiện thuận lợi để thảm thực vật miền đất này phát triển phong phú.
Tuy được bao bọc bởi rừng núi và vịnh biển Bắc Bộ nhưng đồng bằng Bắc Bộ vẫn mang nặng yếu tố xa rừng nhạt biển do quá trình khai thác theo phương thức "đao canh hoả chủng" những rẻo đất cao quanh đồng bằng của cư dân nơi đây từ xa xưa nên rừng chỉ còn phần nhiều ở miền núi Việt Bắc và Tây Bắc. Yếu tố biển cũng nhạt nhoà vì biển ở đây nông, thấp, lầy lội và nhiều bùn, không có dòng hải lưu lớn chảy qua nên người Việt từ đồng bằng đã lấn biển làm nông nghiệp. Vì vậy, với cư dân đồng bằng Bắc Bộ thói quen sinh hoạt của cư dân nơi đây là hướng vào làm nông nghiệp một cách thuần tuý, trong đó chủ yếu là văn hoá nông nghiệp trồng lúa. 75% số dân vùng đồng bằng Bắc Bộ là làm nông nghiệp trồng lúa trên tổng diện tích toàn vùng là 14.700km2.
Hình thức nông nghiệp trồng lúa là tiền đề cho sự tập trung dân cư với lối sống định cư bởi lẽ đó là yếu tố quan trọng để hình thành nên tổ chức xã hội và tổ chức không gian của đồng bằng Bắc Bộ mà trong đó làng xã là đơn vị cơ bản. Văn hoá xóm làng mang tính cộng đồng tự trị chặt chẽ được gắn với thiên nhiên thực vật qua hình ảnh rặng tre bao bọc quanh làng, cây đa, cây si cổ kính đầu làng nơi tụ tập của người nông dân vào những trưa hè oi ả trong giờ nghỉ trưa và qua tính cộng đồng về lãnh thổ với hình thức sở hữu ruộng đất...
Việc trồng lúa được coi là hệ sinh thái mang tính phổ quát của vùng đồng bằng Bắc Bộ:
...Tháng tư cắt lúa tám xuân
Tháng năm cắt rạ ngày ăn quan tiền
Nhờ trời được chữ bình yên
Rơm thì lên đống thóc chiêm vào bồ
Tháng sáu lúa rài thấp tho
Kiếm dăm ba thúng ăn cho nở nồi
Tháng bảy xới lúa rong chơi
Tháng tám cắt lá bán nơi chợ Già...
(Ca dao tục ngữ Nam Hà)
Song bên cạnh đó cư dân nơi đây cũng đã sáng tạo một hệ sinh thái mang tính chuyên biệt đó là nghề trồng vườn. Do vậy khắp nơi ở vùng đất này đã hình thành một phức thể canh tác ruộng / vườn.... trong nghề trồng lúa. Mô hình hệ sinh thái nông nghiệp của vùng châu thổ Bắc Bộ là RVAC (ruộng - vườn - ao - chuồng) với trung tâm là nghề nông trồng lúa nước.
Có thể nói, thiên nhiên thực vật ruộng vườn gắn liền với đời sống sinh hoạt của cư dân đồng bằng Bắc Bộ. Hình tượng này chi phối mọi sinh hoạt văn hoá và lối sống của người dân nơi đây. Bất cứ ai đã từng biết đến làng Việt cổ truyền đồng bằng Bắc Bộ cũng hết sức ấn tượng với mầu xanh của luỹ tre bao bọc quanh làng, với các cây cổ thụ như cây đa, cây si, cây bàng trước cổng làng và những cánh đồng lúa, ngô, khoai, bát ngát. Ngay trong ngôi nhà của người Việt đồng bằng Bắc Bộ xưa cũng là sự phản ánh của nền văn hoá thực vật với chất liệu dựng nhà bằng gỗ xoan trồng trong vườn và tre ngâm, tường đất, mái lá. Vật liệu xây dựng này phù hợp với điều kiện khí hậu khắc nghiệt gió bão đông hè: đông ấm, hè mát. Cảnh quan xung quanh nhà của người dân nơi đây cũng được bao bọc bởi thiên nhiên thực vật: trước sân nhà trồng các loại cây cảnh hay các loại cây không chắn gió như cau, dạ hương, nhài, sói, mộc... sau nhà là vườn rau và các loại cây trồng khác... chạy quanh khuôn viên này là hàng rào cây duối hoặc râm bụt ngăn cách với láng giềng. Tất cả những hình ảnh đó ngày nay đã ít nhiều trở nên nhạt nhoà bởi cuộc sống hiện đại và tốc độ phát triển đô thị hoá. Người nông dân hôm nay cũng thay đổi cuộc sống và quan niệm thẩm mĩ để bắt nhịp với xu thế chung của thời đại: nhà tranh vách đất đã được thay thế bằng nhà gạch mái bằng; rặng tre bao bọc quanh làng cũng đã thưa dần bởi tốc độ khai thác của các ngành thủ công nghiệp sản xuất bàn, ghế, giường, tủ và các đồ nội thất hiện đại; điều này cũng chứng tỏ họ đã biết vươn ra thế giới bên ngoài, tiếp thu và học hỏi. Song sẽ còn có ý nghĩa hơn khi những thành tựu khoa học kĩ thuật tiên tiến được kết hợp hài hoà với giá trị truyền thống dân tộc. Bởi lẽ cuộc sống với thiên nhiên xanh vẫn luôn là niềm hi vọng của con người ở mọi thời đại. Và đặc biệt ở thời kì nào với người nông dân, thiên nhiên đồng ruộng cỏ cây cũng vẫn luôn là môi trường sống và lao động của họ.
Thiên nhiên thực vật ruộng vườn còn thể hiện ngay cả trong bữa ăn của cư dân đồng bằng Bắc Bộ với các thành phần cơ cấu thiên về thực vật: cơm - rau nhiều hơn cá - thịt. Người dân thường sử dụng các loại thực phẩm tự trồng như rau xanh, các loại quả theo mùa như bí, bầu, mướp, đu đủ, cà, đậu đỗ.... và các loại hoa như hoa bí, thiên lí, hoa chuối.....
Bị chi phối bởi nền văn minh nông nghiệp với việc trồng lúa nước là chủ đạo, người nông dân đồng bằng Bắc Bộ sống và điều khiển nhịp điệu sống phù hợp với chu kì sinh trưởng của thế giới cỏ cây, phù hợp với mùa vụ sản xuất.
Tháng giêng là tháng ăn chơi,
Tháng hai trồng đậu trồng khoai, trồng cà
Tháng tư hết vốn buôn dưa
Năm đậu, sáu dứa, bảy về buôn bông
Tháng tám là tháng chơi rong
Tháng chín buôn quýt, buôn hồng, buôn cau
Tháng một lên Giám hái giầu,
Tháng chạp buôn bấc, buôn dầu, buôn sa
Buôn từ xứ Nghệ buôn ra
Buôn những nước mắm cùng là đỗ đen.
(Văn học dân gian Thái Bình)
Không nơi đâu trên đất Việt, lễ hội nông nghiệp lại mang tính chất phổ biến khắp các vùng miền như ở Bắc Bộ. Vào những ngày nông nhàn giữa các thời vụ, người dân thường tụ tập nhau trong những dịp lễ hội. Hình thức sinh hoạt văn hoá cộng đồng này phản ánh rõ nền văn minh nông nghiệp thực vật với sự phân bố thời gian lễ hội theo nhịp điệu mùa "xuân thu nhị kì": Lễ hội đầu vụ mùa được tổ chức vào tháng 4 là hội xuống đồng, hội cuối vụ mùa vào tháng 10 là hội lên đồng, sau đó đến tết cơm mới và mùa sắn... Không gian trung tâm của lễ hội là khung cảnh thiên nhiên quen thuộc của làng quê như một ngọn đồi, gò, đống, một khoảnh đồng bằng hay một thung lũng lớn. Vật dâng cúng của lễ hội trước tiên luôn là sản phẩm thực vật như bát cơm, quả cà (hội Gióng) rau, măng vầu luộc, củ mật, củ mài (hội làng vùng đất tổ Vĩnh Phú)... rồi sau đó mới đến thịt gia cầm. Trong hội đền Hùng, vật dâng cúng là cặp bánh trưng bánh dầy cũng được làm bằng các sản vật thiên nhiên thực vật như lúa gạo, đỗ bao bọc bên ngoài nhân thịt... thể hiện biểu tượng của trời đất, của nền văn minh nông nghiệp lúa nước. Thiên nhiên thực vật đi vào trong đời sống người Việt đồng bằng Bắc Bộ ngay cả trong tâm thức với các tục thờ thần lúa, thờ thần cây đa, cây si, cây gạo....
Là cái nôi của nền văn minh nông nghiệp lúa nước chịu sự ảnh hưởng mạnh mẽ của các điều kiện địa lí và khí hậu nhiệt đới gió mùa ẩm ướt mang nét đặc trưng vùng miền, đồng bằng Bắc Bộ có cơ cấu cây trồng quanh năm theo một chu kì nhất định thích nghi với điều kiện khí hậu nóng lạnh rõ rệt. Điều này chi phối toàn bộ lối sống sinh hoạt văn hoá của dân cư nơi đây tạo nên một nền tảng văn hoá thực vật trong đời sống tinh thần người Việt đồng bằng Bắc Bộ. Điều này lí giải tại sao hình tượng thiên nhiên liên quan đến ruộng vườn mà cụ thể hơn là thiên nhiên thực vật lại có tần số xuất hiện cao hơn các hình tượng thiên nhiên khác trong ca dao dân ca vùng đất này.
III. Thiên nhiên liên quan đến ruộng vườn trong ca dao dân ca trữ tình Bắc Bộ thể hiện sắc thái văn hoá truyền thống đồng bằng Bắc Bộ
Như đã trình bày ở trên, thiên nhiên thực vật có tần số xuất hiện cao hơn so với thiên nhiên động vật và thiên nhiên môi trường địa lí - ruộng vườn, trong đó hoa là hình tượng nổi bật với số lần xuất hiện tới 437 lần. Theo bảng phân loại đỉnh cao nhất của hệ thống phân loại nhân tạo của Linnee (1707 - 1778) thì "thực vật được chia thành 24 lớp trong đó 23 lớp thuộc về thực vật có hoa, còn lớp thứ 24 gồm các thực vật không có hoa như tảo, nấm, dương xỉ.... "2 (tr.5). Như vậy, xét về mặt thực vật học, hoa mang tính phổ biến hay nói một cách khác sự phát triển của thực vật gắn liền với những sắc mầu của hoa.
Điều kiện khí hậu miền bắc 4 mùa xuân, hạ, thu, đông rõ rệt đã tạo yếu tố thuận lợi để cây cối đâm chồi nảy lộc, ra hoa kết trái. Đến với vùng đồng bằng Bắc Bộ vào mùa xuân - thời tiết se lạnh, độ ẩm cao là điều kiện lí tưởng để hoa không bị nở và tàn quá sớm - chúng ta có thể được thưởng thức mầu sắc rực rỡ của muôn hoa; mầu hồng của hoa đào, mầu tím của violet, mầu vàng rực của hoa cúc, mầu đỏ thắm và trắng toát của hoa layon... hoa được trồng ở khắp nơi ven đường làng, trong vườn nhà, đầu ngõ xóm... Từ xa xưa "ở xứ Bắc, thời Lý có Hoa Lâm (rừng Hoa) bên bờ sông Thiên Đức (sông Đuống). ở thành Nam, quê hương Tức Mặc nhà Trần, với hành cung Thiên Trường rồi với biệt cung Trùng Quang của Thánh Tông - Nhân Tông... thì cũng mọc dựng những Hoa Nha, Liễu Nha... vườn hoa, bến Liễu, rặng Quất vàng"3 (tr566). Đặc biệt đất Thăng Long xưa với 36 phố phường thế kỉ XVI, bên cạnh các sản phẩm ngành nghề thủ công còn có trại Hàng Hoa chuyên về rau hoa quả. Và vào những năm đầu thế kỉ, Thăng Long Hà Nội cũng đã hình thành những làng trồng hoa chuyên biệt với những làng hoa nổi tiếng như Ngọc Hà, Nhật Tân... Đó cũng là cơ sở hình thành sắc thái văn hoá của chợ hoa ngày tết vùng châu thổ Bắc Bộ. Hoa là niềm cảm hứng bất tận cho sáng tác của các ngành văn học nghệ thuật mà đặc biệt là ca dao dân ca trữ tình, một thể loại văn học dân gian được tạo hứng từ những cảm xúc thiên nhiên gần gũi với đời sống con người nơi thôn dã.
Một trong những nét văn hoá truyền thống của cư dân vùng đồng bằng Bắc Bộ đó là văn hoá TRầU CAU. Sau hình tượng hoa, trầu cau cũng là một hình tượng thiên nhiên được nhắc đến nhiều lần trong những câu ca dao dân ca (trầu 241 lần, cau 142 lần). Trầu cau và tục ăn trầu không chỉ có ở Việt Nam mà còn phổ biến ở các vùng Đông Nam á và một số nơi khác trên thế giới như ấn Độ, Siri-Lanca, hay Madagascar của châu Phi. Miếng trầu là sự kết hợp của trầu, cau, vôi, rễ, được quấn trong lá trầu cay nồng, thơm gắt, có tác dụng chữa được nhiều bệnh, kích thích tiêu hoá, ăn uống dễ, tránh đầy bụng, thơm miệng....
Từ xa xưa trong lịch sử dân tộc, cây trầu, cây cau đã có trên đất Việt Nam và tục ăn trầu cũng là một phong tục lâu đời của người Việt Nam. So với các vùng miền khác, văn hoá trầu cau được thể hiện đậm nét hơn ở đồng bằng Bắc Bộ, cái nôi sản sinh ra nền văn hoá dân tộc. Phụ nữ Việt Nam trong xã hội cổ truyền hầu như ai cũng ăn trầu. A. De Rhodes đã viết về tục ăn trầu của cư dân người Việt ở Thăng Long vào thế kỉ XVII: "họ có tục đem theo một túi con hay một bị con đầy, đeo ở thắt lưng, họ để mở trong khi qua lại phố phường để gặp bạn bè. Khi gặp, họ bắt đầu chào hỏi nhau rồi mỗi người lấy ở trong túi của bạn một miếng trầu để ăn....."4 (tr.352). Tục mời trầu trở thành một hình thức phổ biến trong văn hoá giao tiếp thể hiện thế ứng xử của người Việt đồng bằng Bắc Bộ:
Gặp đây ăn một miếng trầu
Không ăn cầm lấy cho nhau bằng lòng.
(Ca dao Nam Hà)
Mời trầu là hình thức lễ nghi không thể thiếu thể hiện sự kính trọng, thân thiện, tính cách hoà đồng mang bản sắc truyền thống trong văn hoá giao tiếp của người Việt châu thổ Bắc Bộ. Đặc biệt trong những dịp lễ hội cổ truyền với các cuộc hát dặm hát ví, miếng trầu tạo âm hưởng cho khúc dạo đầu trong các cuộc hát
Thoạt vào hát nước hát trầu
Hát chào, hát hỏi đôi câu chuyện trò.
(Hát ví đồng bằng Hà Bắc)
Đối với người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ "miếng trầu là đầu câu chuyện". Phong cách ứng xử của người Việt là không trực tiếp đi thẳng vào vấn đề trong giao tiếp. Bao giờ cũng là những lời thăm hỏi dạo đầu trước để tạo cảm giác thoải mái cho các đối tượng tham dự. Vì vậy, miếng trầu là sự ý nhị, khiêm nhường giúp câu chuyện trở nên dễ dàng và những người tham gia trở nên cởi mở với nhau hơn.
Trầu cau
Tư duy của cư dân đồng bằng Bắc Bộ mang ảnh hưởng sâu sắc của nền "văn minh thực vật", điều đó không chỉ được phản ánh qua lối sống sinh hoạt hàng ngày mà ngay cả ở trong sự thể hiện của tư duy định lượng, cư dân ở đây cũng gắn sự liên tưởng của mình với hình ảnh thiên nhiên xung quanh: thước tầm một sào tre, mặt trời lên một sào tre... Cũng như vậy trầu cau được sử dụng như là thước đo của thời gian mang tính ước lượng như: thời gian được đo bằng chừng giập bã trầu hay có thể là một, hai, ba tuần trầu....
Chị em căn dặn ở nhà
Cứ mỗi câu ví là ba tuần trầu
Không trầu em chẳng ví đâu
Có trầu em ví vài câu huê tình.
(Hát ví đồng bằng Hà Bắc)
Trầu cau mang sắc thái đậm nét văn hoá của cư dân đồng bằng Bắc Bộ trong xã hội cổ truyền; và từ cái nôi truyền thống này trầu cau trở thành hiện tượng văn hoá phản ánh lối sống và phong tục của người Việt trên khắp mọi miền đất nước.
Một trong những hình thức lao động phổ biến của cư dân nông nghiệp đồng bằng Bắc Bộ là nghề trồng dâu nuôi tằm. Đặc biệt ở những vùng chiêm trũng chỉ trồng được một vụ lúa, không bị quy định chặt chẽ bởi nhịp điệu thời vụ canh tác, thì trồng dâu nuôi tằm là một trong những hình thức lao động phổ biến. Có thể nói, tơ tằm đã xuất hiện sớm ở Bắc Bộ ngay từ giai đoạn Đông Sơn khoảng 3.000 đến 2.500 năm trước đây. Điều này được khẳng định dựa trên trang phục váy áo và khố của hình người trên trống đồng. Trong xã hội cổ truyền vùng đồng bằng Bắc Bộ, hầu như nhà nào cũng có khung dệt, làng nào cũng có nghề nhuộm thâm. Sách An Nam chí lược đã dẫn lời của Lưu Hàn Kì đời Tấn nói rằng ở nước ta "một năm tám lứa tằm... Dâu thì có thứ lớn nhỏ, thứ dâu nhỏ, trong tháng mạnh xuân thì tốt tươi, cành gai rườm rà. Từ tháng ba đến tháng tám, dân đều làm công việc nuôi tằm, ươm tơ, dệt lụa"5 (tr151). Tên tuổi của các sản phẩm dệt từ tơ tằm như tơ, lụa, gấm vóc, nhiễu the, lĩnh, đũi... thường gắn liền với các làng nghề dệt nổi tiếng ở đồng bằng Bắc Bộ như: the La Cả, La Khê; đũi, lụa Đại Mỗ, gấm Vạn Phúc; lĩnh của Tây Hồ, Bưởi; lụa Sơn Tây... Và từ trong lịch sử xa xưa, tên tuổi của một số vị anh hùng dân tộc đã gắn với nghề dâu tằm tang như: Hai Bà - ngoài việc giúp dân phát triển nghề dâu tằm thì tên của hai bà cũng mang ý nghĩa từ tên hai loại kén (Trưng trắc nghĩa là kén trứng trắc, loại kén dày; Trưng Nhị là kén trứng nhì, loại kén mỏng); Con gái vua Hùng là công chúa Thiều Hoa cũng đã tìm ra một loại kén tằm và dạy cho dân, vì vậy làng Cổ Đông (Vĩnh Phú) trở thành làng nổi tiếng dệt các loại lụa, lĩnh, là, đoạn... Dân nơi đây đã tôn bà là thành hoàng làng và lập miếu thờ tại làng; công chúa Quỳnh Hoa con gái vua Lý Thần Tông đã xin vua cha ra tu ở chùa Đống Long (tức chùa Kim Liên), tại đây nàng dạy cho dân làng biết nghề tằm tang canh cửi. Lụa Nghi Tàm nổi tiếng từ đây cho mãi tới thế kỉ XV vẫn còn được ca ngợi; Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan đã học kinh nghiệm từ nước ngoài để giúp cho dân làng Đại Phùng trở thành làng nổi tiếng với nghề dệt lượt đẹp, bền, chắc... Tằm tơ với việc trồng dâu nuôi tằm thực sự là một nghề truyền thống lâu đời ở đồng bằng Bắc Bộ. Điều này được phản ánh trong ca dao, dân ca nơi đây như một hình thức lao động gắn bó chặt chẽ với nghề nông (nông tang) của mỗi gia đình cư dân nông nghiệp vùng đất này.
Trong ca dao dân ca đồng bằng Bắc Bộ, hình tượng cây lúa, mạ không được đề cập đến nhiều như một số các hình tượng thiên nhiên liên quan đến ruộng vườn khác. Tuy nhiên ruộng đồng và trâu, những hình tượng liên quan chặt chẽ với hình ảnh cây lúa thì được lặp lại nhiều lần trong những lời ca. Nếu như lúa có tần số xuất hiện là 88 lần, mạ 24 lần thì trâu được nhắc tới 91 lần, ruộng đồng 231 lần. Điều này phản ảnh đúng thực tế sản xuất nông nghiệp của vùng châu thổ Bắc Bộ từ xưa tới nay là một vựa lúa lớn của cả nước. Vì vậy tính chất đặc trưng của đất vùng đồng bằng này là "đất lúa nước" hay đất feralit biến đổi do trồng lúa nước. Lê Quý Đôn, nhà nông học lớn nhất nước ta thế kỉ XVIII trong Vân Đài loại ngữ đã đề cập đến cây lúa nhiều nhất qua các ghi chép của ông. Theo sự phân chia của ông, nước ta có 9 giống lúa chiêm, 23 giống lúa mùa, 29 giống lúa nếp. Mỗi giống lại phân chia ra theo đặc tính của nó, cho nên có tới hàng trăm giống lúa. ở một nước lao động sản xuất nông nghiệp là chủ yếu như nước ta thì cây lúa chiếm ưu thế đặc biệt quan trọng. Năm 1940, theo tính toán của P.Gourou6 (tr.320) thì có tới 1.100.000 ha trồng lúa một vụ và 500.000 ha trồng lúa 2 vụ. Đến năm 1994 đất trồng lúa nước chỉ còn khoảng 650 ha, nhưng 75% diện tích đó trồng lúa 2 vụ và cho năng suất cao trung bình từ 3,8 tấn/ha cho vụ mùa và 4,3 tấn/ha cho vụ đông xuân. Họ chăm chỉ cần cù lao động, tận dụng tối đa đất đai để sản xuất nông nghiệp. Và trên những cánh đồng lúa mênh mông bát ngát thẳng cánh cò bay, hình ảnh người nông dân với con trâu đi trước cái cày đi sau là một trong những hình ảnh khắc họa nét chân dung nổi bật về đời sống cư dân trong xã hội cổ truyền nơi đây.
Xu hướng thẩm mĩ thiên về thiên nhiên thực vật của cư dân đồng bằng Bắc Bộ được phản ánh đậm nét qua ca dao dân ca trữ tình với sự phong phú đa dạng của số lượng hình tượng. Điều này được minh chứng rõ nét qua sự xuất hiện thường xuyên của thiên nhiên thực vật trong đó một số hình tượng có tần số xuất hiện cao thể hiện sắc thái đặc trưng vùng miền cũng như cơ cấu sản xuất nông nghiệp tiêu biểu của cư dân vùng đất này.
Tài liệu tham khảo
1.Văn hoá vùng và phân vùng văn hoá ở Việt Nam, Ngô Đức Thịnh, Nxb. Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh, 2004
2. Phân loại học thực vật, Hoàng Thị Sản, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2003.
3. Văn hoá Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm, Trần Quốc Vượng, Nxb. Văn học (tái bản), Hà Nội, 2003
4. Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam, Trần Ngọc Thêm, Nxb. Tp. Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh, 2001
5. Tìm hiểu xã hội Việt Nam thời Lý Trần, nhiều tác giả, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1981.
6. Việt Nam lãnh thổ và vùng địa lí, Lê Bá Thảo, Nxb. Thế giới, 2002.
Nguồn: www.vae.org.vn