Các dân tộc khi chinh phục đồng bằng thì thường phải hội đủ hai điều kiện: 1) phải ở giai đoạn đồ sắt và 2) đồng bằng đó phải được bồi tụ và trở nên có một độ bằng phẳng nhất định. Vậy mà người Việt tiến xuống châu thổ sông Hồng khi trong tay chỉ có các công cụ đồng và đồng bằng Bắc bộ thì đang trong quá trình bồi đắp. Trong hoàn cảnh đó người dân phải chiếm lĩnh những gò đất cao làm căn cứ địa để cư trú và trồng cấy. Họ phải đắp đê bao quanh khu vực sinh sống của mình. Dần dần hình thành những đoạn đê, rồi cả hệ thống đê bao quanh những dòng sông ngăn không cho nước tràn vào làng mạc và đồng ruộng. Đê điều cùng với lũy tre làng đã tạo nên cảnh quan đồng bằng Bắc bộ, lối sống, lối ứng xử tiểu nông hằn lên tâm thức người dân châu thổ sông Hồng. Không phải ngẫu nhiên mà một học giả phương Tây gọi người Việt Nam là “dân tộc đắp đê”. Đê điều tuy bảo vệ được làng xóm và ruộng đồng khỏi lũ lụt, nhưng lại làm phù sa trôi tuột ra biển nên đồng bằng Bắc bộ còn lại những vùng trũng lớn Hà Nam (“cầu tõm”), Phú Xuyên Hà Tây ..., còn đất trồng trọt thì mỗi năm mỗi bạc màu. Có thể nói, lịch sử đồng bằng Bắc bộ là lịch sử của cuộc đấu tranh giữa Đất và Nước. Truyền thuyết Sơn Tinh - Thủy Tinh đã phản ánh cuộc đấu tranh khốc liệt này. Đất đã thắng nhưng hàng năm nước vẫn trả thù bằng những trận vỡ đê và nước trở thành kẻ thù số một của người Việt: Thủy, Hỏa, Đạo, Tặc. Sự mất cân bằng giữa đất và nước này khiến cho một loạt dòng sông trở thành sông chết như sông Đáy, Tô Lịch, Kim Ngưu ..., còn tưới tiêu ở đồng bằng Bắc bộ chủ yếu dựa vào nước mưa và hệ thống chứa ao, hồ, đầm cũng đang dần thu hẹp.
2. Đồng bằng sông Cửu Long đã phần nào tái hiện cái môi trường sông nước thuở ban đầu của đồng bằng sông Hồng. Do đó, ở một cạnh khía nào đó mà nói, lịch sử chinh phục đồng bằng sông Cửu Long của người Việt khi họ vào đây cũng phần nào tái lập lại lịch sử khai thác đồng bằng sông Hồng ở ngoài kia. Đó vẫn là cuộc đấu tranh muôn thuở giữa hai yếu tố vừa tương khắc lại vừa tương sinh là Đất và Nước. Có điều ở đồng bằng sông Cửu Long thiên nhiên ưu đãi hơn nên đã kìm hãm thế nước bằng sự điều hòa nhờ hai “hồ nước” tự nhiên là Biển Hồ ở Campuchia và Đồng Tháp Mười ở Việt Nam: Khi mùa mưa lũ thì nước sông Mêkông một phần chảy ngược vào Biển Hồ, phần khác thì chảy tràn vào Đồng Tháp Mười, một cánh đồng có diện tích gần 700.000 hécta nằm tại 3 tỉnh Long An, Đồng Tháp và Tiền Giang hiện nay, biến vùng này thành một vùng ngập nước. Vào mùa khô, nước lại từ Biển Hồ và Đồng Tháp Mười chảy ra hệ thống sông ngòi kinh rạch ngang dọc đảm bảo nước cho đồng bằng sông Cửu Long. Ngoài ra, hàng ngày, khi thủy triều dâng lên, đẩy nước sông chảy ngược vào đất liền theo các kinh rạch tưới tắm cho các khu vườn trồng cây ăn quả. Khi triều hạ, nước sông rút theo còn để lại nhiều tôm cá.
Có thể nói, cuộc tranh chấp giữa đất và nước ở đồng bằng sông Cửu Long đã đạt được điểm cân bằng. Mặt tương sinh giữa đất và nước được phát huy. Nhờ thế mà đồng bằng sông Cửu Long có một hệ sinh thái phong phú và ổn định, người dân nơi đây có một lối sống phóng khoáng, cởi mở và đặc sắc. Với một hệ sinh thái tự nhiên và sinh thái nhân văn như vậy, người dân đồng bằng sông Cửu Long chủ yếu sinh sống bằng 3 nghề. Trước hết là nghề trồng lúa. Đồng bằng sông Cửu Long với diện tích rộng, “thẳng cánh cò bay” và sự hình thành tầng lớp điền chủ đã sớm trở thành nơi sản xuất lúa gạo để cung cấp cho thành phố và xuất khẩu. Như vậy, lúa gạo đã trở thành hàng hóa. Thứ đến là nghề cá. ở đồng bằng sông Cửu Long có nhiều các loại cá tự nhiên: cá sông, cá đồng và cá biển. Trước đây người ta thường nói đến chuyện mỗi khi lội đồng người ta phải “rẽ cá mới đặt được chân xuống nước”. Cuối cùng là nghề trồng vườn. Đất đai màu mỡ rất phù hợp với nhiều loại cây trái như xoài, chôm chôm, sầu riêng, bưởi ... Bởi thế, ở Nam bộ đã hình thành những nơi chuyên trồng hoa quả gọi là miệt vườn với nhiều nét văn hóa, cảnh quan đặc sắc có thể gọi là “văn mình miệt vườn” (Sơn Nam). Nghề trồng vườn ngày càng chiếm một vai trò quan trọng trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp Nam bộ. Ba nghề này bổ sung cho nhau tạo nên văn hóa - sinh thái Tây Nam bộ đặc sắc.
3. Sự cân bằng giữa Nước và Đất ở đồng bằng sông Cửu Long ( và rộng ra là cả nước) bắt đầu bị phá vỡ khi con người có ảo tưởng về sức mạnh của mình nên đã thống trị, khai thác và cải tạo tự nhiên một cách thô bạo và thiển cận. Riêng với đồng bằng sông Cửu Long việc cải tạo này trước hết bị áp đặt bởi tâm thức tiểu nông vốn hình thành bởi những người nông dân - tiểu nông ở đồng bằng Bắc bộ sau trở thành tâm thức chung của người Việt Nam, bởi như giáo sư Trần Quốc Vượng khẳng định mọi người Việt Nam đều có căn tính nông dân. Đó là tâm lý trọng đất, tâm lý của người thiếu đất để trồng trọt, tâm lý của người luôn bị cảnh thiếu ăn đe dọa. Bởi thế, việc làm đầu tiên người ta nghĩ đến là biến những vùng đất ngập nước, chủ yếu là vùng Đồng Tháp Mười, thành vùng đất có thể trồng lúa được. Thế là người ta đào mương thoát nước, đắp đê bao quanh những vùng đất được chọn để trồng lúa. Túi nước Đồng Tháp Mười bị mất hoặc bị thu hẹp nên mỗi khi mưa lũ, nước sông dâng cao, một mặt làm ngập lụt những vùng trước đây không bị ngập lụt, mặt khác đe dọa làm vỡ đê bao những vùng mới cải tạo để trồng lúa. Thế là người dân phải tôn đê cao hơn ở những nơi đã có đê và phải đắp thêm đê mới ở những nơi vốn trước đây chẳng cần đê. Đồng bằng sông Cửu Long đang bắt đầu dẫm lại bước chân của đồng bằng Bắc bộ. Bóng ma của câu nói “Việt Nam là một dân tộc đắp đê” lại lởn vởn hiện về. Đắp đê (đê sông, đê biển) không chỉ ngăn nước đến với mình mà còn ngăn mình đến với nước, “xa rừng nhạt biển”. Tâm lý đắp đê không chỉ biến mình thành tiểu nông, tiểu kỷ (cái tôi bé mọn - từ của giáo sư Trần Đình Hượu), mà còn cản trở một tinh thần khai phóng, một tầm nhìn xa rộng.
Việc biến đồng bằng sông Cửu Long thành một “vựa lúa” đã ảnh hưởng không ít đến nghề đánh bắt cá tự nhiên, đặc biệt là cá sông, cá đồng. Thu hẹp diện tích đất ngập nước (Đồng Tháp Mười) là thu hẹp môi trường sinh sống của cá. Đấy là chưa kể việc bón phân hóa học, phun thuốc trừ sâu cho lúa ảnh hưởng nặng đến môi trường cá, làm nảy sinh dịch bệnh. Sự phát triển cá nuôi/nuôi cá chứng tỏ sự sa sút của nghề đánh bắt cá tự nhiên. Không ai có thể ngờ được rằng ngày nay xuống Miền Tây du khách phải xài cá nuôi !
Hơn nữa, do “nước dự trữ” cho mùa khô ít vì “mất” Đồng Tháp Mười, nên mực nước sông giảm, nước biển tiến sâu hơn vào đất liền nên một số đất trồng trọt ngày xưa là “bờ xôi ruộng mật” nay dần dần bị nhiễm mặn nên hoặc không trồng cấy được, hoặc cho thu hoạch thấp. Đặc biệt, những khu đất trồng lúa ở Đồng Tháp Mười nay bị phèn hóa rất nặng do không có nước ngọt chảy qua để “thau chua rửa mặn”. Năm 2007, tôi có dịp cùng bạn bè đến vùng đất này thì thấy người nông dân vô cùng khốn đốn. Đất thì không trồng được lúa nên phải chuyển sang trồng những thứ có thể kháng phèn như dứa. Con người thì thiếu nước ngọt để sống. Nhà ai cũng phải có dăm bảy chiếc chum to để chờ mưa hay đựng nước từ nơi khác chở đến.
4. Như vậy, một lần nữa, đất lại chiến thắng nước trong sự tranh chấp giữa Đất và Nước. Hệ sinh thái tự nhiên và nhân văn ở đồng bằng sông Cửu Long bị phá vỡ. Môi trường sinh sống của thiên nhiên và con người bị xuống cấp. Những nét văn hóa đặc sắc của “miền Tây”, thậm chí cả cá tính Nam bộ mà nhà văn Nam Sơn ca ngợi cũng mất mát, hư hao đi nhiều. Có thể thấy sự thay đổi diện mạo, cảnh quan của môi trường sông nước Tây Nam Bộ, nhất là vùng Đồng Tháp Mười qua ba bộ phim được quay ở đây: 1) Cánh đồng hoang, 2) Mùa len trâu và 3) Cánh đồng bất tận. Bộ phim đầu là một môi trường nước tự nhiên, không hề thù địch với con người, thậm chí còn chở che cho con người trong chiến tranh chống Mỹ. Bộ phim thứ hai thì môi trường nước trong phim ít nhiều đã phải dàn dựng, con người phải đấu tranh với nước. Đến bộ phim thứ ba thì môi trường nước biến mất, mặc dù trong tác phẩm văn học cùng tên mà phim chuyển thể thì là một cánh đồng nước ... bất tận.
Hiện nay, đồng bằng Nam bộ đang phát triển du lịch sinh thái. Du khách chủ yếu đến thăm các miệt vườn, ăn trái cây và nghe đờn ca tài tử. Tôi tiếc cho miền Tây Nam bộ đang mất dần thế mạnh của du lịch sông nước, đặc biệt khi túi nước Đồng Tháp Mười chẳng còn. Có lẽ đã đến lúc cần khôi phục lại mối tương sinh giữa đất và nước bởi nếu để đất lấn át nước thì chính bản thân đất cũng bị tổn hại. Làm sao cho Đất và Nước trở thành một hợp thể đất nước.
Nguồn: Kỷ yếu Hội thảo Văn hóa phi vật thể người Việt miền Tây Nam bộ 2010