Biển tạo nên sự ảnh hưởng lớn tới khí hậu và thời tiết của trái đất. Biển là yếu tố chiến lược quân sự, an ninh của toàn cầu. Hiện nay, thế giới có 151 nước ven biển. Vùng biển rộng gần 109 triệu km² (khoảng 30% diện tích mặt biển toàn cầu) được các nước ven biển xác định là khu vực biển, trực thuộc quản lý dưới hình thức vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý theo Công ước của Liên Hiệp Quốc về Luật biển năm 1982. Có thể nói đại dương là một địa bàn đầy hứa hẹn đối với các hoạt động kinh tế trong thế kỷ này.
Hiện nay, vùng biển đặc quyền của Việt Nam rộng hơn một triệu km², lớn hơn gấp ba lần so với lãnh thổ. Trong đó, từ Móng Cái đến Hà Tiên, bờ biển dài 3.260km và có hơn 3.000 hòn đảo, kể cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Cả nước có 148 huyện thuộc vùng biển, đảo và ven biển (102 huyện, 34 quận ven biển và 12 huyện đảo) thuộc 28 tỉnh (25 tỉnh và ba thành phố trực thuộc Trung ương) với diện tích tự nhiên hơn 65.000km², chiếm khoảng 20% diện tích cả nước. Dân số vùng ven biển, đảo của cả nước là 29,2 triệu người (số liệu Tổng cục Thống kê năm 2006), bằng 34,6% dân số cả nước.
Trong thế kỷ 20, các hoạt động nghiên cứu khoa học trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa được tiến hành một cách bài bản. Đáng chú ý nhất đó là vào năm 1925, Viện Hải dương học và Nghề cá Đông Dương đã thực hiện cuộc khảo sát đầu tiên bởi tàu khảo sát kéo lưới Chalutier De Lanessan do M.A. Krempt làm giám đốc, cùng các nhà khoa học như De La Cour, Jabouille... Đến tháng 7-1927, Sở Địa chất và Sinh học đại dương cho người tiếp tục nghiên cứu và khảo sát ở Trường Sa. Gần đây nhất là cuốn sách Địa đàng ở phương Đông của tác giả Oppenheimei đã gây dư luận trong giới nghiên cứu khoa học. Tác giả đã đưa ra những giả thuyết rằng cái nôi của nền văn minh Đông Nam Á chính là biển Đông, bao gồm cả vịnh Bắc Bộ và khu vực biển Đông Việt Nam. Nếu những giả thuyết đó có cơ sở, thì vùng biển Việt Nam không những chứa đựng những tài nguyên thiên nhiên phong phú, mà còn có cả những yếu tố lịch sử văn hóa nguồn gốc của dân tộc Việt Nam.
Nằm ở khu vực trung tâm Đông Nam Á, Việt Nam là quốc gia có bờ biển chạy dọc theo chiều dài của đất nước. Từ xa xưa, biển đã gắn liền với sự phát triển kinh tế, văn hóa của dân tộc. Các sách sử cho biết: “đã từng có một nền văn minh dựa trên việc trồng lúa nước và những hoạt động hàng hải trên biển” [Dư Văn Toản 2010]. Hình ảnh con thuyền khắc trên trống đồng Đông Sơn đã minh chứng rằng: từ lâu, dân tộc ta đã gắn bó với môi trường sông nước, lấy thuyền làm phương tiện làm ăn sinh sống.
Cùng với đất liền, biển ra môi trường sinh tồn và phát triển là một bộ phận thuộc chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc. Lấn biển để dựng nước và thông qua biển để giữ nước là một nét độc đáo của bản sắc văn hóa Việt Nam ngàn đời.
Tài liệu nghiên cứu khảo cổ học cho biết, vào khoảng cách nay từ 4.000 – 6.000 năm, đã từng tồn tại các cộng đồng cư dân có cuộc sống gắn liền với biển như các nền văn hóa Đa Bút, Hạ Long, Cái Bèo (Hải Phòng), Hoa Lộc (Thanh Hóa), Quỳnh Văn (Nghệ An), Thạch Lạc (Hà Tĩnh), Bàu Tró (Quảng Bình). Các nhà khảo cổ đã tìm thấy những hiện vật, dấu vết của di chỉ như chỉ lưới và một số ngư cụ khác. Đây có thể là những bằng chứng của nghề khai thác thủy sản, đánh bắt các loài cá biển. Như vậy, cư dân hồi đó đã có những quan hệ mật thiết với biển và thực sự có những hoạt động khai thác tài nguyên, sinh vật biển để sinh sống. Chẳng hạn như, hầu hết các học giả đều cho rằng cư dân Sa Huỳnh là cư dân biển. Họ đã tìm thấy nhiều hiện vật qua các đợt khai quật ở trên những vùng ven biển và các đảo. Nền văn hóa Sa Huỳnh rất đa dạng và phong phú, được phân bố dọc theo các vùng duyên hải ven biển, đảo từ Bắc Trung Bộ đến Đông Nam Bộ.
2. Tình hình nghiên cứu văn hóa biển đảo ở Việt Nam
Hiện nay, các công trình khoa học nghiên cứu về văn hóa và cư dân ven biển đảo không có nhiều. Theo nhận xét của Ngô Đức Thịnh, kết quả của việc nghiên cứu biển và cư dân ven biển, đảo- thuộc lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn- vẫn còn khá khiêm tốn. Riêng bộ môn văn hóa dân gian nghiên cứu về biển thì kết quả lại càng khiêm tốn hơn. Các công trình nghiên cứu khái quát về biển tiêu biểu như:
Thứ nhất là Trần Quốc Vượng, Cao Xuân Phổ, năm 1998 với công trình Biển với người Việt cổ. Đây là công trình khái quát lịch sử về biển nước ta từ thời tiền sử, sơ sử trong bối cảnh Đông Nam Á lục địa và hải đảo.
Thứ hai là công trình Văn hóa dân gian làng ven biển do Ngô Đức Thịnh chủ biên vào năm 2000. Tác phẩm đã đề cập đến khía cạnh lịch sử và văn hóa dân gian của cộng đồng cư dân ven biển của Việt Nam, chủ yếu các làng Bắc Bộ, bao gồm các làng cụ thể: Trà Cổ, Quan Lạn, Đồ Sơn, Kẻ Mom, Phương Cần, Cửa Sót, Nhượng Bạn, Cảnh Dương và Thuận An.
Thứ ba là luận án tiến sĩ lịch sử Văn hóa dân gian của cư dân ven biển Quảng Ngãi của Nguyễn Đăng Vũ (2003). Công trình này phản ảnh khá toàn diện bức tranh văn hóa dân gian của cộng đồng cư dân nơi đây: từ tín ngưỡng, lễ hội cho đến nghệ thuật diễn xướng dân gian, nghệ thuật tạo hình dân gian, ngữ văn dân gian.
Công trình của Trần Hồng Liên (2004): Cộng đồng ngư dân người Việt ở Nam bộ đã bước đầu nghiên cứu đối sánh qua trường hợp giữa hai làng biển ở Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ.
Thứ năm là tác phẩm Lễ hội dân gian của ngư dân Bà Rịa – Vũng Tàu của Phan An, Đinh Văn Hạnh (2004). Các tác giả đã nghiên cứu, miêu tả một số lễ hội dân gian của ngư dân địa phương tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu trong quá trình hình thành và phát triển.
Cuốn sách Văn hóa biển miền Trung và văn hóa biển Tây Nam Bộ (2007) là kết quả của 2 cuộc hội thảo do Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam phối hợp với Viện Nghiên cứu Văn hóa, Sở Văn hóa – Thông tin Quảng Ngãi, Hội Văn học Nghệ thuật Kiên Giang tổ chức, đã cung cấp khá nhiều tri thức về văn hóa biển ở 2 khu vực này.
Nguyễn Thị Hải Lê (2009) với Biển trong văn hóa người Việt đã khái quát toàn bộ biển trong các lớp văn hóa của người Việt về không gian và thời gian, trong đời sống văn hóa vật chất và tinh thần của người Việt.
Chuyên khảo Tín ngưỡng cư dân ven biển Quảng Nam-Đà Nẵng (hình thái, đặc trưng và giá trị) của Nguyễn Xuân Hương (2009). Cuốn sách đã tập trung nghiên cứu về tín ngưỡng thờ cá voi, tín ngưỡng thờ Mẫu, thờ âm linh, tiền hiền ở địa phương này.
Gần đây là bài nghiên cứu Đặc điểm cư dân và văn hóa vùng ven biển và hải đảo: Một số lý luận cơ bản của Phan Duy Hợp và Đặng Vũ Cảnh Linh. Tác giả đưa ra những lý luận giải thích các khái niệm về văn hóa học như "Đặc điểm cư dân”, “Con người và văn hóa”. Các vấn đề này được cụ thể hóa bằng con đường diễn dịch từ hướng tiếp cận lý thuyết khinh - trọng, chứ không đi vào nghiên cứu các loại hình văn hóa cụ thể của cư dân vùng ven biển và hải đảo [vanhoahoc.edu].
Đáng chú ý là tác giả Dư Văn Toản (Viện Nghiên cứu biển và hải đảo) trong bài viết Lịch sử, văn hóa tại vùng biển và hải đảo Việt Nam đã cho rằng: “ở Trung Bộ và nhất là Nam Trung Bộ, do kiến tạo các luồng hải lưu trên biển đã dẫn dắt các luồng cá vào gần bờ, hơn thế về mặt địa hình ở đây núi ăn xuống sát biển…người Việt đã sắm thuyền, lưới vươn ra biển cả để đánh bắt và sinh tồn lâu dài cho đến tận ngày nay” [Dư Văn Toản 2010].
Văn hóa biển đảo những năm gần đây thu hút nhiều sự chú ý của giới nghiên cứu, quản lý thông qua các cuộc hội thảo như: Lễ hội đền Cờn, tục thờ Tứ vị thánh nương với văn hóa biển ở Việt Nam (Nghệ An, 2009), Di sản văn hóa Nam Trung bộ với sự phát triển du lịch trong hội nhập quốc tế (Phú Yên, tháng 4/2011), Khai thác tiềm năng biển, đảo vì sự phát triển bền vững của Quảng Ngãi và miền Trung (Quảng Ngãi, tháng 5/2011)...
Đề tài Đời sống kinh tế-văn hóa-xã hội của cư dân vùng biển, đảo Nam Bộ qua góc nhìn nhân học biển (Maritime anthropology) của Phan Thị Yến Tuyết (2011) đã cung cấp cho người đọc một bức tranh vừa khái vừa cụ thể về đời sống kinh tế, văn hóa cùng những biến động xã hội của các cư dân Nam Bộ trong sự tương tác, thích nghi, sáng tạo của con người đối với môi trường biển của Nam Bộ. Qua đó, giúp ta thấy được một số vấn đề bất cập trong thái độ ứng xử của con người đối với biển.
Gần đây nhất là cuốn sách Người Việt với biển của nhóm Nghiên cứu thương mại châu Á, tập hợp các nhà nghiên cứu trẻ. Từ cách tiếp cận liên ngành, chủ yếu là Khảo cổ học-Sử học-Quốc tế học..., các tác giả cố gắng làm sáng tỏ một số vấn đề, lĩnh vực truyền thống biển Việt Nam, qua đó giúp hiểu rõ hơn các giá trị văn hóa biển Việt Nam trong mối liên hệ với lịch sử.
Có thể nói, văn hóa biển của cư dân Nam Trung Bộ đã in đậm trong đời sống văn hóa tinh thần của mỗi người dân. Từ bao đời nay, cư dân ven biển, hải đảo đã tích lũy nhiều kinh nghiệm trong nghề khai thác biển, chế biến hải sản…và đã sáng tạo nên những giá trị văn hóa truyền thống vô cùng phong phú và đa dạng. Để định hướng và phát triển văn hóa vùng biển, đảo tốt hơn, chúng ta cần có những công trình nghiên cứu sâu hơn về văn hóa, lịch sử vùng cư trú của cộng đồng dân cư vùng ven biển, hải đảo của nước ta.
3. Nghiên cứu văn hóa biển đảo ở Khánh Hòa
3.1 Khảo cổ học
Qua các đợt khai quật di chỉ khảo cổ học tại các làng ven biển - đảo ở Khánh Hòa, một số tác giả trong các cuốn sách Văn hóa phi vật thể Khánh Hòa; Tìm hiểu giá trị lịch sử và văn hóa Khánh Hòa đã có những nhận định khái quát về lịch sử văn hóa biển, đảo: “Ngay từ thời tiền sử và sơ sử Khánh Hòa đã hình thành trung tâm cư trú mang đậm sắc thái của văn hóa rừng núi, văn hóa đồng bằng và văn hóa biển – đảo, trong đó yếu tố văn hóa biển chủ đạo và rất tiêu biểu qua sự phân bổ của các di chỉ khảo cổ”.
Đáng chú ý nhất là bài viết Khánh Hòa một cái nhìn địa – văn hóa của Trần Quốc Vượng. Tác giả đã nêu lên đặc trưng các nền văn hóa ven biển miền Trung thời tiền sử - sơ sử (đá mới – sơ kỳ kim khí) là văn hóa cồn bàu. Trong đó, có văn hóa Xóm Cồn với đảo Bích Đầm, đảo Hòn Tre của Khánh Hòa; văn hóa Gò Ốc (Phú Yên)... Ông cho rằng các nền văn hóa này có niên đại cách nay 3000 – 3500 năm. Nơi cư trú và mộ táng với quy mô từng di chỉ rộng hàng ngàn mét vuông, độ dày tầng văn hóa khoảng 0,5 – 1m chứa đầy vỏ nhuyễn thể và xương cá (cả nước mặn, nước lợ và nước ngọt), cùng nhiều loại đồ đá – đồng – gốm.
Với những chứng cứ vật thể đầy sức thuyết phục, nhóm nghiên cứu của Vũ Văn Hiền (Bảo tàng Lịch sử Việt Nam) đã xem văn hóa Xóm Cồn là một trong những cội nguồn của văn hóa Sa Huỳnh. Họ còn chứng minh được sự giao lưu văn hóa từ hàng mấy ngàn năm nay giữa đảo Hòn Tre – Bích Đầm – Cam Ranh (Khánh Hòa) với nhiều đảo ngoài khơi Thái Bình Dương”. Điều đó đã nói lên cái nhìn hướng ra biển và sắc thái tâm lý gắn với biển, tư duy sông nước, biển cả in đậm trong dấu ấn văn hóa của con người và mảnh đất Khánh Hòa [Nguyễn Văn Khánh cb 1999; Nguyễn Công Bằng 2007].
Tháng 8-2010, Viện Khoa học xã hội Việt Nam và Ủy ban nhân dân tỉnh Khánh Hòa tổ chức hội thảo quốc tế Khảo cổ học tiền sơ sử Khánh Hòa. Hầu hết các bài viết của các tác giả trong và ngoài nước đều có những nhận định “Bức tranh toàn cảnh về văn hóa tiền sử Khánh Hòa là một tiến trình khai phá, chiếm lĩnh và xác lập thế đứng của con người trên vùng biển – vịnh biển và hải đảo. Quá trình ấy đã gắn liền với sự thích ứng của con người với môi trường biển, đảo, họ đã tạo nên những công cụ bằng đá, đồng, sắt, gốm để khai thác biển”[Bảo tàng Khánh Hòa 2011].
3.2 Văn hóa dân gian
3.2.1.Về lễ hội
Các bài viết Lễ hội Cầu ngư ở Khánh Hòa của Nguyễn Tứ Hải; Lễ hội Cầu ngư ở Khánh Hòa của Khánh Hải đã khảo tả và đưa ra nhận xét chung về các lễ hội diễn ra tại các đình, lăng ven biển gồm các nghi lễ: rước sắc, lễ nghinh thủy triều, lễ tế sanh, tế chánh [Nguyễn Văn Khánh cb 1999; Nhiều tác giả 2005].
3.2.2.Về tín ngưỡng
Lê Quang Nghiêm với chuyên khảo Tục thờ cúng của ngư phủ lưới đăng Khánh Hòa đã thể hiện sự công phu, nghiêm túc trong nghiên cứu thực địa. Công trình không chỉ có giá trị không chỉ đối với tục thờ cá Ông mà còn về tín ngưỡng ngư dân ở vùng biển Khánh Hòa nói chung. Đây là một công trình biên khảo về văn hóa biển.
Phạm Vũ Dũng có bài Thờ cúng cá Ông ở Khánh Hòa trong dòng thờ cúng của ngư dân ven biển Nam Trung bộ đã đặt chúng trong bối cảnh thờ thần linh biển Việt Nam [Nguyễn Văn Khánh cb 1999].
Tục thờ cá Ông ở Khánh Hòa thông qua những tài liệu điền dã cụ thể trên địa bàn Khánh Hòa đã cung cấp một diện mạo chung về tập tục này ở địa phương [Nguyễn Thanh Lợi 2002].
Nói tóm lại, các công trình trên đã làm rõ những nghi lễ, tục thờ, tín ngưỡng của cộng đồng cư dân ven biển, đảo ở Khánh Hòa.
3.2.3.Về nghệ thuật biểu diễn dân gian
Nhiều tác giả đã giới thiệu và miêu tả chi tiết các loại hình nghệ thuật trình diễn dân gian của cư dân vùng ven biển, đảo ở Khánh Hòa. Chẳng hạn như: bài viết Hò Bá trạo ở Khánh Hòa của Khánh Hải miêu tả một buổi trình diễn hoàn chỉnh của đội hò bá trạo, gồm trò diễn chèo thuyền và điệu hò biển để phục vụ cho nghi thức cúng tế cá Ông của ngư dân ven biển. Hoặc bài Múa bóng, múa hò bả trạo, múa siêu của cộng đồng cư dân ven biển ở Vạn Ninh của tác giả Nguyễn Sỹ Chức; bài Nghệ thuật hát bội trong lễ hội Cầu Ngư ở Khánh Hòa [Nhiều tác giả 2005].
3.2.4. Về nghề truyền thống
Một số tác giả đã giới thiệu, miêu thuật, cung cấp nhiều tư liệu quý về các nghề đánh bắt truyền thống, đặc biệt là nghề lưới đăng ở Khánh Hòa. Dưới đây là một số bài viết tiêu biểu:
Bài viết Nghề lưới quây tại Khánh Hòa là một khảo cứu về kỹ thuật, kinh tế, xã hội có giá trị trong cuốn Tục thờ cúng của ngư phủ lưới đăng Khánh Hòa [Lê Quang Nghiêm 1970].
Năm 2007, kế thừa nhiều thành tựu nghiên cứu của Guy Moréchand, 1952, Nguyễn Thụy Anh (1952), Lê Quang Nghiêm (1970), Võ Khoa Châu, Nguyễn Viết Trung có bài Lưới đăng-nghề biển truyền thống ở Khánh Hòa.
Các bài viết khác như: Như Hoàng có 2 bài Nghề đăng ở Khánh Hòa (1996), Nghề đăng ở Bích Đầm (1997); Nguyễn Âu Hồng với bài Nghề lưới đăng truyền thống ở Khánh Hòa [Nguyễn Văn Khánh cb 1999]; Lê Đình Chi với bài Nghề lưới đăng ở Khánh Hòa (2000); bài Nghiên cứu điều tra nghề lưới đăng ở Nha Trang (2003) của tập thể tác giả ở Viện Hải dương học Nha Trang; Võ Khoa Châu với bài Nghề truyền thống đầm đăng ở Vạn Ninh, Khánh Hòa (2005); Lê Đình Chi có bài khảo cứu Nghề câu cá biển ở Nha Trang [Nhiều tác giả 2010].
3.2.5. Về kiến trúc, điêu khắc dân gian
Các nhà nghiên cứu ít quan tâm về mảng nội dung này. Theo sự tìm hiểu của chúng tôi, đối với đề tài này, mới chỉ có 2 bài viết Lăng Tân Mỹ và tục thờ cúng Ông Nam Hải của Võ Khoa Châu và Lăng Nam Hải ở Bình Ba của Hoàng Quý [Nhiều tác giả 2010]. Hai tác giả trên đã khái quát lịch sử hình thành, kiến trúc xây dựng, mục đích, ý nghĩa và vai trò của lăng Ông trong đời sống văn hóa cư dân ven biển và đảo ở Khánh Hòa.
4. Kết luận
Nhìn lại tình hình nghiên cứu văn hóa biển đảo ở Khánh Hòa, cho đến nay chỉ có 2 cuốn sách và trên 30 bài viết in trên các tạp chí, tuyển tập. Những công trình này bước đầu khảo tả sơ lược các lễ hội, tín ngưỡng, nghệ thuật biểu diễn, nghề truyền thống... Do vậy, vẫn chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện và mang tính phương pháp luận hoàn chỉnh về nhận thức và thực tiễn trong môi trường sinh thái nhân văn đặc thù của văn hóa cư dân vùng biển đảo ở Khánh Hòa. Cho nên, trong việc khai thác tiềm năng lợi thế của biển đảo đối với các chiến lược, phát triển kinh tế biển đảo theo hướng bền vững trong điều kiện hội nhập của đất nước hiện nay, việc đầu tư cho các công trình nghiên cứu, mà trước hết là một chuyên khảo mang tính hệ thống, toàn diện về văn hóa biển Khánh Hòa là rất cấp bách.
Tài liệu tham khảo
- 1.Bảo tàng Khánh Hòa 2011: Kỷ yếu hội thảo khoa học Khảo cổ học Khánh Hòa.-Nha Trang.
- 2.Dư Văn Toản 2010: Lịch sử, văn hóa tại vùng biển và hải đảo Việt Nam, Tạp chí Biển, tháng 3.
- 3.Lê Quang Nghiêm 1970: Tục thờ cúng của ngư phủ lưới đăng Khánh Hòa. - Sài Gòn: Tác giả xuất bản.
- 4.Ngô Đức Thịnh (cb) 2000: Văn hóa dân gian làng ven biển. - Hà Nội: NXB Văn hóa dân tộc.
- 5.Nguyễn Công Bằng 2007: Tìm hiểu giá trị lịch sử và văn hóa Khánh Hòa. - Nha Trang: Sở Văn hóa Thông tin Khánh Hòa.
- 6.Nguyễn Đăng Vũ 2003: Văn hóa dân gian của cư dân ven biển Quảng Ngãi, Luận án Tiến sĩ Lịch sử.-Hà Nội: Viện Văn hóa nghệ thuật Việt Nam.
- 7.Nguyễn Hồng Thao (cb) 2008: Công ước biển 1982 và chiến lược biển Việt Nam.-Hà Nội: NXB Chính trị Quốc gia.
- 8.Nguyễn Thanh Lợi 2002: Tục thờ cá Ông ở Khánh Hòa, Tạp chí Xưa & Nay, số 122, tháng 8.
- 9.Nguyễn Thị Hải Lê 2009: Biển trong văn hóa người Việt. - Hà Nội: NXB Quân đội nhân dân.
- 10.Nguyễn Văn Khánh (cb) 1999: Văn hóa phi vật thể Khánh Hòa. - Hà Nội: NXB Văn hóa dân tộc.
- 11.Nguyễn Văn Kim (cb) 2011: Người Việt với biển. - Hà Nội: NXB Thế giới.
- 12.Nguyễn Viết Trung 2007: Lưới đăng-nghề biển truyền thống ở Khánh Hòa. - Nha Trang: Hội Văn học Nghệ thuật Khánh Hòa.
- 13.Nguyễn Xuân Hương 2009: Tín ngưỡng cư dân ven biển Quảng Nam-Đà Nẵng (hình thái, đặc trưng và giá trị). - Hà Nội: NXB Từ điển bách khoa.
- 14.Nhiều tác giả 2005: Những tục thờ và lễ hội tiêu biểu ở Khánh Hòa.-Nha Trang: Sở Văn hóa - Thông tin Khánh Hòa.
- 15.Nhiều tác giả 2010: Văn nghệ dân gian Khánh Hòa tuyển tập 2005 – 2010. - Nha Trang: Hội Văn học nghệ thuật Khánh Hòa.
- 16.Tô Duy Hợp và Đặng Vũ Cảnh Linh: Đặc điểm cư dân và văn hóa vùng ven biển và hải đảo: Một số lý luận cơ bản.- http://www.vanhoahoc.edu
- 17.Phan An, Đinh Văn Hạnh 2004: Lễ hội dân gian của ngư dân Bà Rịa – Vũng Tàu.-TP.Hồ Chí Minh: NXB Trẻ.
- 18.Phan Thị Yến Tuyết 2010: Đời sống kinh tế - văn hóa - xã hội của cư dân vùng biển, đảo Nam Bộ, Đề tài nghiên cứu trọng điểm cấp Đại học quốc gia TP.Hồ Chí Minh.-Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn.
- 19.Trần Hồng Liên (cb) 2004: Cộng đồng ngư dân người Việt ở Nam Bộ. - Hà Nội: NXB Khoa học xã hội.
- 20.Trần Quốc Vượng, Cao Xuân Phổ (cb) 1998: Biển với người Việt cổ. - Hà Nội: NXB Văn hóa.
Nguồn: Văn hóa Biển Đảo Khánh Hòa, NXB Văn hóa, 2012.