Trong kho tàng văn học dân gian yếu tố biển đảo chiếm một tỷ lệ khá nhiều như kiểu Thề non hẹn biển, Tát cạn biển Đông…Đặc biệt là những bài Vè các lái của dân buôn ghe bầu kể về lộ trình đi đường biển từ Quảng Bình đến Vũng Tàu dài hàng trăm câu vốn rất phổ biến ở vùng duyên hải Nam Trung Bộ.
Những hình thuyền chạm khắc trên trống đồng Đông Sơn đã được nhiều nhà nghiên cứu cho là thuyền đi biển của người Việt cổ.
Từ rất xa xưa, đã có những chuyến hải trình giao lưu giữa cư dân Việt cổ với các quốc gia ở Đông Nam Á thông qua những minh chứng về những chiếc trống đồng kiểu Đông Sơn xuất hiện ở Malaysia, Philippin, Indonesia...
Như vậy, người Việt không chỉ biết, mà còn hiểu, sống với biển từ rất sớm. Điều đó cũng là một tất yếu với một đất nước Việt Nam có trên 3.000 cây số bờ biển và một lãnh hải hàng trăm ngàn cây số vuông. Sự tồn tại của văn hóa biển đảo Việt Nam là một tất yếu.
2. Người Việt là cư dân nông nghiệp, thuộc văn minh trồng lúa nước. Vì vậy cách ứng xử với biển có những đặc trưng riêng so với một số quốc gia biển đảo khác. Có một số ý kiến trước đây cho rằng, người Việt quay lưng với biển, chỉ tìm cách lấn biển để trồng lúa, tôi nghĩ đó là một sai lầm lớn. Người Việt chưa bao giờ quay lưng với biển, mà luôn hướng ra biển, họ là những người đứng trước biển.
Bởi vì, người Việt có cách ứng xử với biển theo văn hóa của mình. Đó là sự kết hợp giữa đất liền với biển đảo. Biển đảo luôn gợi ra những khát vọng chinh phục của người Việt và nhiều cộng đồng cư dân các dân tộc khác.
Trở lại với truyền thuyết Lạc Long Quân – Âu Cơ, nếu nhìn ở một khía cạnh khác, nhìn về tương lai, cuộc di chuyển năm mươi con về biển, theo tôi có lẽ đó là dự báo cho một xu hướng phát triển mới của của cộng đồng các cư dân châu thổ sông Hồng. Hướng ra biển Đông, hẳn tổ tiên, cha ông ta, đã sớm nhận thấy đồng bằng sông Hồng sẽ có ngày cũng chật chội, người đông đất hẹp, chỉ có mở ra biển để mở mang, phát triển, để từ biển đi tiếp về những miền đất khác ở phương Nam. Những cuộc chinh phục vùng đất miền Trung, miền Nam về sau này, phần nhiều đi theo con đường biển. Và cả trong thời hiện đại chống Mỹ cứu nước, cũng có con đường Hồ Chí Minh trên biển đi về phương Nam…
3. Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc. Văn hóa Việt Nam là sự tổng hòa, tổng hợp của văn hóa các cộng đồng dân tộc anh em. Biển trong đời sống văn hóa trong các cộng đồng dân cư đó cũng tồn tại và thể hiện ở những mức độ, với màu sắc đậm nhạt khác nhau.
Một số các các cộng đồng tộc người thuộc ngữ hệ Malayo – Polynesiens ở nước ta như Chăm, Êđê, Jarai, Churu, Raglai…được một số nhà nghiên cứu cho là có nguồn gốc từ khu vực Đông Nam Á hải đảo. Với những tộc người này, yếu tố về văn hóa biển đến nay chỉ còn lưu lại trong các truyền thuyết hoặc một số hành vi tín ngưỡng, một vài tàn dư trong văn hóa như mái nhà hình thuyền, hình thuyền trên nhà mồ…
Trong quá trình xuôi về Nam, người Việt đã tiếp nhận một văn hóa biển đảo của các dân tộc Nam Đảo, mà như đã nói, các tộc người đã lãng quên khi họ đi sâu vào vùng núi, và đồng bằng ở Trung và Nam Trung Bộ, vùng Tây Nguyên. Một số tác giả cho rằng, người Việt đã tích hợp vào văn hóa biển của mình tập tục thờ cúng cá ông voi, kỹ thuật làm nước mắm từ cá biển, tiếp thu ghe bầu…của người Chăm. Trong văn hóa người Chăm có nói đến vị thần biển Po Riyak, và truyền thuyết về cá Ông. Người Việt từ Thanh Hóa trở vào, dọc bờ biển thờ cá voi trong các lăng. Họ xem cá voi như thần Biển cứu giúp người hoạn nạn trên biển. Trịnh Hoài Đức, tác giả sách Gia Định thành thông chí cũng đã nhận xét “Bắc vi ngư, Nam vi thần” (Phương Bắc xem là cá, còn ở Nam tôn là thần). Hệ thống thần biển của người Việt còn thêm Phật Bà Quan Âm, một vị thần của Phật giáo, chuyên cứu khổ cứu nạn cho người đi biển.
Người Khmer Nam Bộ, một dân tộc ít người ở nước ta, vốn có nguồn gốc từ lục địa Đông Nam Á, khi di cư đến vùng duyên hải Nam Bộ Việt Nam, đã thêm vào hệ thống thần linh của mình vị thần Biển. Họ tổ chức lễ cúng Biển hàng năm cầu cho được mùa đánh bắt cá ven biển, cùng sự bình yên của phum sóc...
4. Vạn chài là một dạng thức văn hóa tổ chức xã hội độc đáo trong văn hóa biển của người Việt và một số cộng đồng cư dân Việt Nam. Rất tiếc, cho đến nay, chưa có nhiều công trình nghiên cứu về các vạn hay vạn chài này.
Vạn hoặc vạn chài, cũng có người gọi là làng “thủy sinh” (làng sống trên nước). Đó là một tổ chức mang tính cộng đồng của ngư dân chuyên đánh bắt trên biển. Ngày nay, dọc ven biển còn nhiều địa danh mang kèm chữ vạn như Cửa Vạn, Vạn Ninh, Vạn Giã... Vạn tập hợp những ngư dân của một vùng, thường cùng một ngư trường. Vào những thời gian không đi khơi, đi lộng đánh bắt thủy hải sản, họ neo thuyền ở một cửa sông kín gió trong vùng và tạo nên một cộng đồng. Ở đây, cũng có một tổ chức quản lý mang tính tự quản, đứng đầu là một ông trùm vạn và có cả những quy định chung giống như hương ước của làng. Hàng năm, vạn cũng có nhiều lễ hội cộng đồng, chủ yếu là lễ cúng Cầu ngư tại các lăng thờ cá Ông, giống với lễ kỳ yên của làng. Một số vạn còn chung nhau, mua một khoảng đất để làm nghĩa địa của vạn...
5. Với một bờ biển dài, một lãnh hải rộng lớn đã đem lại cho đất nước ta một tiềm năng kinh tế lớn lao nhưng cũng không ít khó khăn thách đố. Ngoài những tai họa của thiên nhiên như phong ba, bão tố, triều dâng…, biển cũng là nơi kẻ thù bên ngoài dễ dàng thâm nhập, quấy phá, cường bóc và là cửa ngõ của quân đội ngoại xâm tiến công vào nước ta.
Lịch sử Việt Nam đã ghi chứng khá đầy đủ và khá nhiều về những đoàn quân của phong kiến phương Bắc tiến vào nước ta bằng đường biển, rồi ngược sông Bạch Đằng với hàng trăm chiến thuyền và hàng vạn binh sĩ. Rồi cuộc xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp mở đầu bằng kéo các chiến thuyền pháo hạm đến cửa biển Đà Nẵng vào giữa thế kỷ XIX. Đà Nẵng và Cam Ranh cũng đã là những quân cảng quan trọng của đế quốc Mỹ xâm lược Việt Nam. Đó là chưa kể những cuộc xâm lược của Java vào vương quốc Chămpa ở biển Nha Trang ; cuộc tấn công của quân Xiêm vào Hà Tiên dưới thời Nguyễn giao cho họ Mạc cai quản...
Cộng đồng các dân tộc Việt Nam đã anh dũng chiến đấu chống ngoại xâm không chỉ trên bộ mà còn cả trên biển đảo (về sau còn cả trên không nữa). Nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đã viết nhiều tác phẩm ca ngợi nghệ thuật thủy chiến đánh bại kẻ thù xâm lược trên biển của quân và dân Việt Nam. Đó không chỉ là lòng dũng cảm, mà còn là trí tuệ văn hóa của dân tộc Việt Nam. Theo tôi, đó cũng là một phần của văn hóa biển đảo Việt Nam. Ông cha ta đã biết cách hành xử một cách có văn hóa trên biển đảo Việt Nam!
Văn hóa biển đảo Việt Nam hết sức đa dạng và phong phú, thể hiện với nhiều loại hình như văn hóa vật vật thể và văn hóa phi vật thể, tổ chức xã hội, truyền thống chống ngoại xâm... Các nhà văn hóa xem văn hóa biển đảo Việt Nam có thể nghiên cứu từ nhiều góc cạnh khác nhau như văn hóa nhận thức, văn hóa ứng xử, văn hóa tổ chức... Dân tộc Việt Nam đã biết và hiểu rõ về biển đảo của mình, đã biết cách ứng xử rất linh hoạt và độc đáo để tồn tại và phát triển với biển đảo. Đó là một dân tộc hướng biển.
Những dẫn liệu và suy nghĩ trên đây tuy chỉ là một phần rất nhỏ về văn hóa biển đảo Việt Nam nhưng là sự khẳng định về sự tồn tại của một văn hóa biển đảo Việt Nam từ rất lâu đời. Văn hóa biển đảo Việt Nam là một phần của văn hóa dân tộc Việt Nam.
Tài liệu tham khảo
- 1.Dương Hoàng Lộc 2008: Văn hóa tín ngưỡng cộng đồng ngư dân ven biển Bến Tre, Luận văn thạc sĩ Văn hóa học, Trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn TP. Hồ Chí Minh.
- 2.Đinh Văn Hạnh, Phan An 2004: Lễ hội dân gian của ngư dân Bà Rịa- Vũng Tàu.-TP.Hồ Chí Minh: NXB Trẻ.
- 3.Nguyễn Duy Thiệu 2002: Cộng đồng ngư dân ở Việt Nam.-Hà Nội: NXB Khoa học xã hội.
- 4.Nguyễn Hữu Nghị 2010: Văn hóa ứng xử với biển của người Việt miền Tây Nam Bộ, Luận văn thạc sĩ Văn hóa học, Trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn TP. Hồ Chí Minh.
- 5.Nguyễn Thanh Lợi 2006: Tục thờ cá Ông ở ven biển Nam Trung Bộ, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 4.
- 6.Nguyễn Thị Hải Lê 2009: Biển trong văn hóa người Việt.- Hà Nội: NXB Quân đội nhân dân.
- 7.Nguyễn Việt, Vũ Minh Giang 1983: Quân thủy Việt Nam trong lịch sử chống ngoại xâm.- Hà Nội: NXB Quân đội nhân dân.
- 8.Phan Ngọc 2006: Một vài suy nghĩ về văn hóa biển, Tạp chí Văn hóa quân sự, số 15.
- 9.Trần Hồng Liên (cb) 2004: Cộng đồng ngư dân Việt ở Nam Bộ.-Hà Nội: NXB Khoa học xã hội.
Nguồn: Văn hóa Biển Đảo Khánh Hòa, NXB Văn hóa, 2012.