TS. TrầnĐức Anh Sơn tại Hội thảo
1. Đặt vấn đề
1.1. Tháng 7/2007, tại thành phố Quảng Ngãi đã diễn ra hội thảo Văn hóa biển miền Trung và văn hóa biển Quảng Ngãi do Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam, Sở VHTT tỉnh Quảng Ngãi và Viện Nghiên cứu Văn hóa phối hợp tổ chức. Các học giả tham gia hội thảo đã đánh giá cao vai trò của biển đối với đời sống kinh tế, xã hội và văn hóa, đồng thời biển cũng tiềm ẩn nhiều bất lợi, có thể làm nguy hại đến tính mạng, đe dọa đời sống của người dân miền Trung và người dân Quảng Ngãi nói riêng. Nhiều học giả cho rằng tuy sống cạnh biển và “nương nhờ” vào biển nhưng từ bao đời nay người dân duyên hải miền Trung vẫn mang tâm lý “sợ biển”, sợ những thảm họa hiểm nguy đến từ biển, nên chưa thực sự “đối diện” với biển và sẵn sàng “sống chung” với biển. Tâm lý này không chỉ có trong các cộng đồng cư dân duyên hải miền Trung mà là tâm lý chung của người dân ở các miền duyên hải Việt Nam.1
1. Tâm lý “sợ biển” của người dân duyên hải miền Trung
1.2. Từ đầu thế kỷ XX, viên chức kiểm ngư người Pháp, J.B. Piétri, tác giả cuốn Les Voiliers d’Indochine (Thuyền buồm Đông Dương)2, nhận định rằng tàu thuyền của Việt Nam vào cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, chỉ là những loại tàu thuyền cận duyên, hoạt động trong những vùng biển gần bờ, chứ không phải là thuyền viễn dương như của các “quốc gia biển” khác trong khu vực.
1.3. Tại sao một đất nước có hơn 3.200 km bờ biển với khoảng 20 triệu dân cư có cuộc sống gắn liền với biển; một đất nước với địa hình có nhiều sông rạch3, có đầm phá, ao hồ dày đặc, phân bố trên hầu khắp lãnh thổ, có bờ biển trải dọc suốt chiều dài đất nước và đời sống của người dân luôn gắn liền với sông nước, biển cả từ bao đời nay; một đất nước mà thuyền bè không chỉ giữ vai trò quan trọng trong giao thông, thương mãi4, mà còn hiện diện trong đời sống văn hóa và tâm thức của cộng đồng5 từ hàng ngàn năm nay. Vậy mà chủ nhân của đất nước ấy lại mang tâm lý “e ngại biển khơi”? Đây là một vấn đề rất đáng suy ngẫm.
2. Người Việt với biển
2.1. Từ hàng ngàn năm qua, người Việt đã sống chung, khai thác và chinh phục biển.
Biển giữ một vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế, xã hội của người Việt từ bao đời nay. Không chỉ mang lại nguồn sống, biển còn ảnh hưởng đến diễn trình lịch sử của dân tộc Việt Nam, đến đời sống văn hóa, tâm linh và tín ngưỡng của người Việt. Dấu ấn của biển đã hiện diện trong đời sống của tổ tiên người Việt từ thời kỳ tiền sử. Những di chỉ “đống vỏ sò” hay “cồn sò điệp” trong các nền văn hóa khảo cổ như: văn hóa Quỳnh Văn, văn hóa Bàu Tró, văn hóa Thạch Lạc, văn hóa Hạ Long… là những dấu tích chứng minh rằng biển cả là nơi cung cấp nguồn sống chủ yếu cho các cộng đồng người tiền sử cư trú ở ven biển Việt Nam từ hàng ngàn năm trước. Những hoa văn “dấu vỏ sò” trên đồ gốm chính là dấu vết của biển trong đời sống kinh tế - xã hội của chủ nhân văn hóa Sa Huỳnh ở Trung bộ Việt Nam. Những tàn tích thức ăn và công cụ lao động được thu nhặt, chế tác từ sản phẩm của biển đã cho thấy từ hàng ngàn năm trước, tổ tiên của người Việt đã xác định được vai trò “kinh tế biển” đối với đời sống của họ.
2. Người dân duyên hải miền Trung khai thác biển
Người Việt đã biết dùng nước biển để làm muối từ hàng ngàn năm trước và kỹ thuật làm muối của người Việt cũng vô cùng độc đáo: nấu nước biển để lấy muối. Chính vì thế, mà trong khi người Hoa gọi dân làm muối là diêm dân, thì người Việt lại gọi người làm muối là táo hộ hay táo công. Cách thức làm muối độc đáo ấy không chỉ được phản ánh trong sách Đại Việt sử ký toàn thư mà còn được chứng thực bởi nghề làm muối ở làng Nại Hiên (thành phố Đà Nẵng) với những dấu vết còn lưu giữ trên thực địa và cả trong ký ức dân gian.6
Không chỉ khai thác biển, người Việt còn biết chế biến những sản phẩm của biển thành những “đặc sản” để phục vụ cho nhu cầu ẩm thực của mình, mà nước mắm là “thành tựu” vĩ đại nhất mà người Việt đã phát minh trong quá trình sống chung với biển.
3. Làm nước mắm
Người Việt còn chinh phục biển bằng cách “quai đê, lấn biển”, “thau chua, rửa mặn” để biến những đầm lầy hoang vắng hoặc những vùng đất khô cằn ven biển thành những làng quê trù phú. Sự hình thành hai huyện Kim Sơn, Tiền Hải (tỉnh Thái Bình) vào thời Nguyễn (1802 - 1945) gắn liền với tên tuổi của Doanh điền sứ Nguyễn Công Trứ (1778 - 1858) là một minh chứng điển hình.
2.2. Cùng với quá trình quá trình sống chung, khai thác và chinh phục biển là quá trình xác lập chủ quyền và đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo
Từ thế kỷ XVI - XVII, các chúa Nguyễn ở Đàng Trong đã cử những đoàn thuyền vượt biển đi giao lưu, buôn bán với các lân bang như Trung Hoa, Nhật Bản, Lưu Cầu7, Nam Dương, Xiêm La… Chúa Nguyễn Phúc Chu (1675 - 1725) đã thành lập đội Hoàng Sa, dong thuyền đến các quần đảo Hoàng Sa và Bắc Hải (Trường Sa) để khai thác nguồn lợi hải sản, đo đạc hải trình, xác lập chủ quyền của Tổ quốc trên những vùng biển đảo xa xôi.8 Cư dân Việt từ các làng quê ven biển đã không quản ngại gian khó, vượt biển tìm đến những hòn đảo nằm giữa muôn trùng sóng dữ, vừa để khẩn hoang, lập làng làm nơi cư trú và mưu sinh muôn đời, vừa tạo nên những phên dậu vững chắc để bảo vệ chủ quyền của Tổ quốc.
4. Hình thuyền đa tác ở trên Cao đỉnh
Những chuyến vượt biển ấy chính là tiền đề cho một ngành đóng thuyền phát triển mạnh mẽ vào thời chúa Nguyễn (1558 - 1786), thời Tây Sơn (1771 - 1802) và thời Nguyễn. Các chúa Nguyễn đã xây dựng một đội thuyền hùng hậu, đảm bảo cho các nhu cầu quốc phòng, giao thông và thương mãi. Theo Thomas Bowyear, một nhà buôn người Anh đến Đàng Trong trong 2 năm 1695 - 1696, thì lực lượng thủy quân ở Đàng Trong dưới thời chúa Nguyễn Phúc Chu có đến 200 chiến hạm, mỗi chiếc có từ 16 đến 22 khẩu đại bác, 500 chiến thuyền nhỏ từ 40 đến 44 tay chèo; 100 chiếc thuyền lớn từ 50 đến 75 tay chèo… và những chiến thuyền này đều do xưởng thuyền của phủ chúa đóng.9 Nhờ vào lực lượng thủy quân hùng mạnh này mà quân đội của chúa Nguyễn Phúc Lan đã đánh bại một đội tàu của Hà Lan ở cửa Eo (cửa Thuận An, ở gần Huế) vào năm 1644.10
5. Hình thuyền đĩnh ở trên Thuần đỉnh
Người Việt không chỉ đóng thuyền để lưu thông và chinh phục biển khơi mà còn đóng thuyền để xuất khẩu sang các nước láng giềng. Năm 1789, Nguyễn Ánh đã sai người đóng 40 đại chiến thuyền và hơn 100 ghe bầu cung cấp cho Xiêm La để đổi lấy vũ khí và sắt thép.11 Từ nửa sau thế kỷ XVIII, thương nhân người Hoa đã đến Đàng Trong thuê người Việt đóng thuyền để chở lúa gạo từ Nam Bộ đưa về Trung Quốc bán cả thuyền lẫn gạo. Thuyền đóng ra không chỉ để bán cho thương nhân người Hoa, mà bán cho cả thương nhân Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha.12 Tàu thuyền do người Việt đóng lúc ấy đã đạt trình độ kỹ thuật cao khiến người phương Tây phải khâm phục. Viên trung úy hải quân người Anh John White đến Việt Nam vào năm 1819 đã nhận xét trong cuốn hồi ký A Voyage to Cochinchina (Hành trình đến Nam Kỳ) rằng: “một đất nước có những chuyên gia tài giỏi, có thể đóng những con tàu tốt là thế, thì phải là một dân tộc đi biển rất cừ khôi”.13
Biển đã đi vào đời sống văn hóa và tâm linh của người Việt với những lễ hội cầu ngư, với tục thờ cúng cá ông, với những vị thần có gốc gác từ biển khơi hiện diện trong hệ thống thần linh của những cộng đồng cư dân ven biển. Biển cũng in đậm dấu vết trong kiến trúc nhà ở, trong việc chọn hướng nhà và cả trong việc gọi tên một số chi tiết kiến trúc nhà ở của người Việt.
3. Một quốc gia biển phải có chính sách bảo tồn văn hóa biển
3.1. Nhìn sang láng giềng
Các quốc gia láng giềng của chúng ta như Thái Lan, Indonesia, Nhật Bản, Hàn Quốc… đều có những chính sách bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa biển tích cực và hữu hiệu. Xin đơn cử một vài dẫn chứng sinh động mà tôi được biết: Tháng 10.2010, tôi sang Okinawa (Nhật Bản) tham dự hội thảo Nghiên cứu so sánh về tàu thuyền trong thời cận đại ở Lưu Cầu, Việt Nam và Triều Tiên do Viện Nghiên cứu về Tương tác Văn hóa (Đại học Kansai) phối hợp với Đại học Ryukyu tổ chức. Tại hội thảo này các học giả Nhật Bản và Hàn Quốc đã trình bày những tham luận cho thấy từ nhiều thế kỷ qua, Nhật Bản và Triều Tiên (sau này là Hàn Quốc) đã có chính sách nhất quán và đắc dụng trong chinh phục và khai thác biển, cũng như trong bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa biển. Các chính sách này góp phần tạo nên tâm lý “hướng biển”, kích thích hoạt động khai thác biển và nuôi dưỡng lòng tự hào về thành tựu chinh phục biển cho các thế hệ người dân Nhật Bản và Hàn Quốc.
Trong thời gian diễn ra hội thảo, ban tổ chức đã mời các học giả đi tham quan các bảo tàng và di tích lịch sử liên quan đến nghề đi biển và văn hóa biển ở Okinawa để hiểu thêm về lịch sử chinh phục và khai thác biển ở đảo quốc này. Tại Bảo tàng Okinawa, đón chúng tôi tại tiền sảnh, người hướng dẫn tham quan của bảo tàng này đã mở đầu bài thuyết minh bằng một câu nói rất ấn tượng: “Một quốc gia biển phải có những bảo tàng về văn hóa biển. Bảo tàng Okinawa là một bảo tàng như thế. Và chúng tôi rất tự hào về nền văn hóa biển của vương quốc Ryukyu được trưng bày và bảo tồn trong bảo tàng này”.
6. Văn hóa biển ở Bảo tàng Okinawa
Ryukyu (Lưu Cầu) là tên gọi trước đây của quần đảo Okinawa, một vương quốc tồn tại độc lập với đế chế Nhật Bản. Người Ryukyu coi hải thương và khai thác biển là những nghề chính để mưu sinh. Hàng trăm năm trước, người Ryukyu đã dong thuyền đi lên các vùng biển Hoa Nam và Hoa Đông, biển Nhật Bản và biển Hoàng Hải, xuống tận vùng biển Đông Nam Á để buôn bán và đánh bắt hải sản. Họ sống nhờ vào biển cả nên ý thức chủ quyền của họ đối với biển cả được xác lập từ rất sớm (thông qua các văn kiện được trưng bày trong Bảo tàng Okinawa). Biển in đậm dấu vết lên đời sống kinh tế - xã hội, lên nền văn hóa vật thể và phi vật thể của đảo quốc Ryukyu. Tất cả đều được tái hiện một cách sống động, thông qua các hiện vật, tư liệu thành văn, phim ảnh và những tổ hợp kiến trúc phục dựng trong Bảo tàng Okinawa.
7. Mô hình tàu thuyền Nhật Bản
Nhưng Bảo tàng Okinawa không phải là nơi duy nhất bảo lưu dấu vết văn hóa biển của người Ryukyu. Nơi đây còn có Bảo tàng Hải dương học và Bảo tàng Tàu thuyền, là những nơi trưng bày tất cả những gì liên quan đến biển và cách thức người Ryukyu “sống chung” với biển. Chúng tôi cũng được mời đi khảo sát các bến cảng cổ ở Okinawa, thăm các ngôi mộ cổ của cư dân Ryukyu nằm trên triền một ngọn núi sát bến cảng Unten, thăm các ngôi nhà truyền thống của người Ryukyu có tường rào bằng đá bao quanh và có bức bình phong án ngữ phía trước để ngăn những cơn gió chướng trong mùa biển động khỏi thốc vào nhà… Ông Tetsuya Yasuda, một kiến trúc sư người Ryukyu, nói với tôi: “Người Ryukyu tự hào về truyền thống văn hóa biển của họ. Nền văn hóa ấy thể hiện trong đời sống, trong kiến trúc, trong ngôn ngữ cũng như trong các món ăn của người Ryukyu. Nền văn hóa ấy được lưu giữ và phát huy giá trị trong các bảo tàng; được thể hiện qua hoạt động gìn giữ, bảo tồn những di tích, di sản có liên quan đến biển, nghề đi biển và nền văn hóa biển đang hiện hữu ở Okinawa”.
8. Mô hình thuyền và nhà hình thuyền Đông Nam Á trong bảo tàng ở Okinawa
Trên thực tế, sau khi sáp nhập vương quốc Ryukyu vào lãnh thổ Nhật Bản vào năm 1879, chính phủ Nhật Bản đã thực hiện những chính sách nhằm bảo lưu nền văn hóa biển của Ryukyu, đồng thời đưa nền kinh tế của Okinawa phát triển theo hướng kinh tế biển. Nhờ chiến lược phát triển kinh tế biển và chính sách bảo hộ nền văn hóa biển nhằm nuôi dưỡng lòng tự hào về truyền thống của một “quốc gia biển”, nên Okinawa đã trở thành một thành tố quan trọng, cùng với các tỉnh thành ven biển khác, biến Nhật Bản trở thành một “quốc gia biển” hùng mạnh.
Cũng trong hội thảo này, tôi còn được nghe TS. Lee Chul-han, đến từ Viện Nghiên cứu Quốc gia về Văn hóa Hải dương ở Mokpo (Hàn Quốc) giới thiệu một loại thuyền cổ của Triều Tiên, gọi là geobukseon (thuyền rùa). Đây là loại thuyền chiến bọc sắt đầu tiên ở châu Á, do Đô đốc Yi Sun-sin của Triều Tiên phát minh và được sử dụng trong những cuộc hải chiến chống lại quân xâm lược Nhật Bản trong các năm 1592 - 1598. Geobukseon là niềm tự hào của người Triều Tiên và hình ảnh loại thuyền rùa này đã được in trên tờ giấy bạc 10 won của Hàn Quốc. Ông Chung Ju-yung, người sáng lập tập đoàn Hyundai, đã sử dụng hình ảnh chiếc thuyền rùa trên tờ 10 won như một “bảo chứng quốc gia” để vay 80 triệu USD của Ngân hàng Barclays (Anh) để phát triển công nghiệp đóng tàu của Hyundai và biến Hyundai thành một thương hiệu toàn cầu trong ngành đóng tàu.
9. Hình Thuyền Rùa trên tờ giấy bạc 10 won của Hàn Quốc
được Ông Chung Ju-yung sử dụng như một “bảo chứng quốc gia”
để vay 80 triệu USD của Ngân hàng Barclays (Anh)
3.2. Nhìn lại nước ta
Hiện nay, nhà nước Việt Nam đang chủ trương xây dựng nước ta thành một “quốc gia biển”. Đó là một chủ trương đúng, nhưng các chính sách do nhà nước đề ra nhằm quảng bá hình ảnh và xây dựng Việt Nam trở thành một “quốc gia biển” thì chưa thực sự đắc dụng và hiệu quả như ở các nước láng giềng.
Tâm lý “sợ biển”, “quay lưngvới biển” là một hiện thực lịch sử trong thái độ ứng xử với biển của người Việt. Tâm lý ấy là một trở ngại trong chiến lược xây dựng Việt Nam trở thành một “quốc gia biển” hùng mạnh trong khu vực. Người Việt chỉ có thể từ bỏ tâm lý “sợ biển” và thay đổi cách ứng xử với biển theo hướng tích cực một khi tiềm năng và nguồn lợi của biển được khai thác một cách an toàn và hiệu quả, nghề đi biển được bảo trợ và tôn vinh. Và quan trọng là, nhà nước phải có một chính sách bảo tồn và phát huy giá trị nền văn hóa biển một cách thiết thực và hiệu quả.
Ngày trước, các chúa Nguyễn ở Đàng Trong không chỉ chăm lo phát triển ngành đóng thuyền mà còn chú trọng đến vấn đề xác lập và đấu tranh bảo vệ chủ quyền đối với những đảo và quần đảo ở ngoài khơi như Hoàng Sa, Bắc Hải (Trường Sa), Côn Lôn, Phú Quốc… Các chúa Nguyễn cũng đã phái những thương thuyền đi buôn bán, giao lưu với các “quốc gia biển” trong khu vực, vừa để mở rộng bang giao, vừa để phô trương thanh thế của mình. Những người có công lao với trong khai thác, chinh phục và giữ gìn chủ quyền biển đảo của Tổ quốc thì được tôn vinh là những “hùng binh” và được triều đình khen thưởng khi họ còn sống, được sắc phong và thờ tự sau khi họ qua đời. Dấu vết của nền văn hóa biển còn được phản ánh trong các bộ sách do các học giả biên soạn và được triều đình cho in ấn, phát hành và lưu truyền cho đời sau như các bộ sách: Phủ biên tạp lục (của Lê Quý Đôn), Lịch triều hiến chương loại chí (của Phan Huy Chú), Đại Nam nhất thống chí, Đại Nam thực lục… (do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn)…
10. Nhà nước phải có một chính sách bảo tồn và phát huy giá trị
văn hóa biển một cách thiết thực và hiệu quả
Một “quốc gia biển” chỉ thực sự hùng mạnh khi chủ quyền đối với các vùng biển đảo của Tổ quốc được bảo vệ vững chắc và chiến lược “phát triển kinh tế biển” phải gắn liền với “bảo tồn văn hóa biển”.
Hiện tại, ở nước ta chưa có một bảo tàng nào liên quan đến nghề đi biển hay truyền thống văn hóa biển của người Việt. Nhà nước cũng chưa có chính sách nhằm bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa biển Việt Nam. Niềm tự hào về một truyền thống văn hóa biển của người Việt đang có nguy cơ mai một trong khi tâm lý “sợ biển”, “ngại biển” vẫn đang hiện hữu. Đây là một thực tế đáng buồn. Đã đến lúc cần thay đổi thực trạng trên. Và có lẽ, chúng ta nên bắt đầu bằng những chính sách và cách thức mà người Nhật Bản và người Hàn Quốc đã thực hiện trong việc bảo tồn truyền thống văn hóa biển ở quốc gia của họ.
Theo tôi, không thể chỉ lưu giữ truyền thống văn hóa biển ở trong ký ức của cộng đồng các cư dân duyên hải, mà phải bảo tồn chúng trong các bảo tàng quy mô và hiện đại do nhà nước đầu tư và thông qua các chính sách phát triển văn hóa do nhà nước chủ trương. Vì thế, tôi đề nghị nhà nước đầu tư xây dựng ít nhất là ba bảo tàng về văn hóa biển và lịch sử hàng hải Việt Nam. Theo đó, cần có một bảo tàng về ngành hàng hải ở miền Bắc, một bảo tàng về ngành đóng thuyền ở miền Nam và một bảo tàng về văn hóa biển ở miền Trung. Những bảo tàng này không chỉ là nơi lưu dấu về lịch sử khai thác và chinh phục biển của người Việt, mà là môi trường giáo dục niềm tự hào về truyền thống văn hóa biển, về thành tựu khai thác, chinh phục và giữ gìn chủ quyền biển đảo của các thế hệ người Việt.
11. Bảo tàng biển không chỉ là nơi lưu dấu về lịch sử chinh phục biển
mà còn là môi trường giáo dục niềm tự hào về truyền thống văn hóa biển
Ngoài ra, nhà nước phải giao cho các cơ quan hữu quan tổ chức tổng kiểm kê di sản văn hóa biển của người Việt (cả văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể) để định hướng bảo tồn và phát huy các di sản này sao cho hiệu quả. Cần phải ưu tiên nguồn vốn cho các công trình trùng tu, tôn tạo những di tích lịch sử - văn hóa liên quan đến quá trình khai thác, chinh phục, xác lập và giữ gìn chủ quyền biển đảo; xây dựng các chương trình quảng bá di sản văn hóa biển Việt Nam đến với cộng đồng trong nước và quốc tế.
Niềm tự hào về một truyền thống văn hóa biển, về thành tựu khai thác và chinh phục biển đã được tiền nhân khai mở và vun đắp, cần tiếp tục được nuôi dưỡng và trao truyền cho các thế hệ người Việt kế cận. Khi ấy thì ước vọng về một “vị thế đại dương” cho “quốc gia biển” Việt Nam mới có thể trở thành hiện thực.
T.Đ.A.S.
CHÚ THÍCH
1 Nhiều bài viết của các học giả Việt Nam đăng tải trên báo chí trong những năm qua cũng phản ánh tâm lý này của người Việt. Chẳng hạn: GS. Tương Lai trong bài Tâm thức đại dương (Báo Pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh, số Xuân 2008) đã nhận xét: “(Người Việt) đứng trước biển nhưng không có tâm thế vươn ra biển,… tâm thế lục địa vẫn lấn át cảm hứng đại dương”; Nguyễn Thị Hải Lê trong bài Đặc trưng văn hóa biển của người Việt (Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, Số 315, tháng 9/2010) nhận định: “người Việt sống cạnh biển nhưng lại thích nương tựa vào rừng… từ xưa, họ đã có những mối quan hệ với biển nhưng chỉ dừng lại ở biển cận duyên”; GS.TS. Ngô Đức Thịnh trong bài Truyền thống văn hóa biển cận duyên của người Việt (Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, Số 317, tháng 11/2010) cũng nhận định: “Người Việt đứng trước biển hơn là ra biển” sau khi cho rằng “Người Việt có truyền thống văn hóa biển cận duyên”…
2 J.B. Piétri. 1943. Les Voiliers d’Indochine, Sài Gòn.
3 Trên diện tích 170.000km2 vùng đồng bằng, ven biển của Việt Nam có tới hơn 1.000 con sông lớn nhỏ. Dọc bờ biển, cứ khoảng 20 km thì có một cửa sông. (Ngô Đức Thịnh - Nguyễn Việt 1984, 48).
4 Hình ảnh thuyền bè đã xuất hiện rất nhiều trong các nền văn hóa cổ của dân tộc Việt Nam. Trên đồ đồng Đông Sơn xuất hiện nhiều hoa văn hình thuyền và người chèo thuyền như trên mặt trống đồng, thạp đồng, muôi đồng…, thậm chí trên những mảnh hộ tâm bằng đồng đeo trước ngực để chặn mũi tên của kẻ thù; hình thuyền cũng được trang trí trong kiến trúc nhà cửa của người Việt; nhiều bộ phận nhà cửa của người Việt có tên gọi xuất phát từ các bộ phận của những chiếc thuyền; nhiều ngôi nhà của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam còn mô phỏng hình chiếc thuyền. Người Việt từ cổ chí kim đều dùng thuyền để đi lại, vận chuyển, mưu sinh, thậm chí, khi chết họ cũng được mai táng trong các quan tài hình thuyền hay trong các ngôi mộ hình thuyền…
5 Theo Thích Đại Sán, một hòa thượng người Hoa đến Đàng Trong vào cuối thế kỷ XVII, thì bấy giờ giao thông ở Đàng Trong vẫn sử dụng đường thủy là chính: “Các phủ đều không có đường lối thông nhau, mỗi phủ đều do một cửa biển đi vào; nếu đi từ phủ này sang khác tất do đường biển”. (Thích Đại Sán 1963, 230).
6 Lê Văn Hảo. 2011. “Trao đổi với ông Lưu Anh Rô về bài viết ‘Lại bàn về địa danh ở Đà Nẵng’” (Đà Nẵng: Phát triển Kinh tế - Xã hội Đà Nẵng, 13+14), 57-61.
7 Trong 23 năm từ năm 1715 đến năm 1738, đã có 485 chiếc thuyền mành từ Quảng Nam (tức Đàng Trong) đến Nhật Bản và Lưu Cầu để buôn bán. Mặc dù chỉ huy các thương thuyền này là người Hoa nhưng hàng hóa và hoạt động giao thương này đã được thực hiện theo yêu cầu của chính quyền của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong, nơi xuất phát của các thương thuyền này. (Nguyễn Văn Kim 2007, 44-46).
8 Lê Quý Đôn. 1977. Toàn tập. Tập 1, “Phủ biên tạp lục”. Đỗ Mộng Khương, Nguyễn Trọng Hân và Nguyễn Trọng Tĩnh dịch, Đào Duy Anh hiệu đính. (Hà Nội: Khoa học Xã hội 1977) 325.
9 L. Cadière et Mme Mir. 1920. “Les Européens qui ont vu le vieux Hué: Thomas Bowyear 1695 - 1696” (Hué: Bulletin des Amix du Vieux Hué, Vol. 2), 183-240.
10 Quốc sử quán triều Nguyễn. 1962. Đại Nam thực lục. Tập I. Bản dịch của Viện Sử học (Hà Nội: Sử học 1962) 73-74.
11 Đoạn ghi chép sau đây trong sử liệu Xiêm La đã chứng thực điều này: “Vào ngày đầu tiên thượng tuần tháng 11 ta, năm Hợi, vua An Nam gửi thư đề nghị mua 1.000 súng hỏa mai và 1.000 hap nặng bằng sắt để làm cầu tàu. Kèm theo thư là 30 cái võng Việt Nam được tặng cho nhà vua cùng với 70 chiến thuyền được yêu cầu đóng trước đó. Thuyền được thu nhận và neo ở bán đảo Bang-o theo lệnh nhà vua. Vào thứ năm, ngày thứ hai hạ tuần của tháng 3 ta, nhà vua ra lệnh gửi 200 hap nặng bằng sắt để làm cầu tàu và 200 súng làm tặng vật tới vua An Nam”. (Li Tana 2002, 86).
12 Li Tana. 2002. “Bài đã dẫn”, 84.
13 Patrick J. Honey. 1999. “Việt Nam vào thế kỷ 19 qua hồi ký của John White, John Crawfurd, George Gibson”. Trương Ngọc Phú chú giải (Huế: Nghiên cứu Huế, Tập 1), 215.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- J.B. Piétri. 1943. Les Voiliers d’Indochine, Sài Gòn.
- L. Cadière et Mme Mir. 1920. “Les Européens qui ont vu le vieux Hué: Thomas Bowyear 1695 - 1696”. Bulletin des Amix du Vieux Hué 2, 183-240.
- Lê Quý Đôn. 1977. Toàn tập, Tập 1, “Phủ biên tạp lục”. Đỗ Mộng Khương, Nguyễn Trọng Hân và Nguyễn Trọng Tĩnh dịch, Đào Duy Anh hiệu đính. Hà Nội: Khoa học Xã hội.
- Lê Văn Hảo. 2011. “Trao đổi với ông Lưu Anh Rô về bài viết ‘Lại bàn về địa danh ở Đà Nẵng’”. Phát triển Kinh tế - Xã hội Đà Nẵng 13+14, 57-61.
- Li Tana. 2002. “Thuyền và kỹ thuật đóng thuyền ở Đàng Trong cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19”. Đức Hạnh dịch. Nghiên cứu và Phát triển. 1: 79-94.
- Ngô Đức Thịnh - Nguyễn Việt. 1984. “Tìm hiểu về thuyền bè truyền thống Việt Nam (Đặt một số vấn đề dưới góc độ dân tộc). Nghiên cứu Lịch sử 6: 48.
- Ngô Đức Thịnh. 2010. “Truyền thống văn hóa biển cận duyên của người Việt”. Văn hóa Nghệ thuật 317 (11).
- Nguyễn Thị Hải Lê. 2010. “Đặc trưng văn hóa biển của người Việt”. Văn hóa Nghệ thuật 315 (9).
- Nguyễn Văn Kim. 2007. “Thuyền mành Đông Nam Á đến Nhật Bản thế kỷ XVII - XVIII”. Nghiên cứu Lịch sử 11: 44-46.
- Patrick J. Honey. 1999. “Việt Nam vào thế kỷ 19 qua hồi ký của John White, John Crawfurd, George Gibson”. Trương Ngọc Phú chú giải. Nghiên cứu Huế 1: 209-227
- Quốc sử quán triều Nguyễn. 1962. Đại Nam thực lục. Tập I. Bản dịch của Viện Sử học. Hà Nội: Sử học.
- Tương Lai. 2008. “Tâm thức đại dương”. Pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh. Xuân 2008.
- Thích Đại Sán. 1963. Hải ngoại kỷ sự. Huế: Ủy ban phiên dịch sử liệu Việt Nam - Viện Đại học Huế.
Nguồn: Tác giả