Một trong những biểu hiện của vận động và chuyển biến của làng theo sự vận động và chuyển biến của lịch sử xã hội Việt Nam từ thế kỷ XVII trở về sau là sự hiện diện của làng công giáo, cho thấy bên cạnh những nguyên tắc tổ chức của nông thôn Việt Nam truyền thống như huyết thống, địa bàn cư trú, nghề nghiệp – sở thích, giáp, hành chính, còn có nguyên tắc tổ chức theo cùng tôn giáo, cụ thể là Thiên chúa giáo, tạo nên làng Công giáo vừa có nguyên tắc tổ chức theo địa bàn cư trú, vừa có nguyên tắc đặc thù của tổ chức theo tín ngưỡng tôn giáo.
Nghiên cứu nguyên tắc tổ chức và đặc điểm văn hoá của làng công giáo sẽ góp phần hiểu rõ hơn văn hoá làng Việt Nam truyền thống, mặt khác hiểu rõ hơn sự thâm nhập của văn hoá Kitô giáo vào tổ chức xã hội Việt Nam cũng như quan hệ giao lưu và tiếp biến giữa văn hoá Việt Nam và văn hoá phương Tây, cụ thể là văn hoá Kitô giáo, qua đơn vị tổ chức cơ bản của xã hội Việt Nam là tổ chức làng.
NHỮNG TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH LÀNG CÔNG GIÁO
Từ thế kỷ XVII Thiên chúa giáo đã có mặt ở Việt Nam và cũng trong thế kỷ này giáo hội công giáo Việt Nam đã chia làm hai giáo phận: giáo phận Đàng Trong và giáo phận Đàng Ngoài. Giáo hội Thiên chúa giáo ở Việt Nam tuy gặp nhiều điều không thuận lợi nhưng đã không ngừng được mở rộng, “hình thành nên một Giáo hội vững mạnh ở Việt Nam với số lượng giáo dân khoảng 60 vạn người vào giữa thế kỷ XIX”(2). Qua bản tường trình của Giám mục Retord về tình hình mọi mặt của giáo phận Tây Đàng Ngoài (Tonkin Occidental) gồm 7 tỉnh: Thanh Hoá, Nam Định, Ninh Bình, Hà Nội, Sơn Tây, Hưng Hoá, Tuyên Quang gởi các vị lãnh đạo Bộ truyền giáo (La Mã) vào tháng 10.1851, có thể thấy tình hình giáo dân ở các tỉnh kể trên đã rất phát triển, ổn định với bình quân 1 giáo dân trên 40 -50 giáo ngoại(3). Còn theo khảo sát của Khổng Đức Thiêm, trong nửa đầu thế kỷ XX toàn bộ Liên khu IV với 3 địa phận Thanh Hoá, Vinh, Huế số giáo dân đã chiếm từ 4% đến 10%(4). “Sau bốn thế kỷ truyền đạo, tới nay Ki-tô giáo đã có chỗ đứng vững chắc ở Việt Nam với khoảng hơn 5 triệu tín đồ Công giáo và gần nửa triệu tín đồ Tin Lành”(5). Đến thời điểm 2005, số lượng giáo dân hẳn đã vượt xa rất nhiều.
Sự phát triển của cộng đồng giáo dân với nhu cầu sinh hoạt tôn giáo và những quy định chặt chẽ của giáo hội đòi hỏi có những hình thức tổ chức cộng đồng phù hợp và tất yếu tạo nên những làng công giáo: làng vừa Lương vừa Giáo hoặc làng Công giáo toàn tòng.
Làng vừa lương vừa giáo thường được hình thành qua những đợt khai hoang lập ấp. Ví dụ vào năm 1898, tại ấp Văn Hải tỉnh Ninh Bình chúng ta thấy có sự ra đời của tổ chức giáp theo tôn giáo, có giáp Lương và có giáp Giáo. Sự phân chia này theo nhà nghiên cứu Nguyễn Phú Lợi “là để tiện cho việc tín ngưỡng thờ phụng khác nhau giữa lương và giáo. Thứ nữa,là để cho làng xã tiện việc quản lý ruộng đất theo nhân đinh , thuế khoán…”(6). Như vậy, tiếng là cùng một làng nhưng khác giáp (giáp Lương và giáp Giáo). Người của giáp nào thì do giáp ấy quản lý, tiện cho các việc thuế khoá, phu dịch, lễ nghi và các việc khác.
Sự phân chia giáp theo tín ngưỡng tôn giáo đã vượt khỏi khung quy định phân giáp theo quan hệ làng xóm, hoặc theo quan hệ họ hàng… nó cũng vượt qua cơ cấu tổ chức giáp theo giới.
Trong một làng các giáp lương và giáp giáo thường cách nhau bằng một cái giồng đất. Trong làng vừa lương vừa giáo, ngoài những địa điểm thờ và tập trung từng giáp theo tín ngưỡng vẫn có những nơi sinh hoạt chung của cả cộng đồng làng vào dịp lễ tết truyền thống trong năm, đó là đình làng. Đây là điểm khác biệt so với xã toàn tòng (ở những làng này không có đình làng mà chỉ có nhà thờ xứ đạo, địa điểm mà cả làng hội họp).
ĐẶC ĐIỂM VĂN HOÁ CỦA LÀNG CÔNG GIÁO TOÀN TÒNG
Làng Công giáo toàn tòng có những điểm khác biệt về cơ cấu tổ chứ và sinh hoạt văn hoá, tín ngưỡng.
Giống như làng nông dân truyền thống, làng công giáo là một tổ chức cộng đồng bền vững nhưng yếu tố huyết thống và sư liên kết về kinh tế khá mờ nhạt. Nhân tố đoàn kết tất cả thành viên lại là tổ chức các cấp theo tôn giáo trong phạm vi làng.
Đối với làng công giáo, tên làng chỉ là tên gọi hành chính trong sổ bộ của nhà nước, còn tổ chức trong làng thì tuân theo cơ cấu tổ chức của Thiên chúa giáo. Đầu tiên là xứ đạo (giáo xứ) tương đương cấp làng, tiếp đó là họ đạo tương đương cấp xóm, cũng đều theo nguyên tắc đại bàn cư trú “cận lân”, một họ đạo thay thế cho một họ tộc, dân trong họ đạo không cùng một họ tộc mà bao gồm nhiều họ tộc. Mỗi họ đạo có một “ông Tổ” được gọi là Thánh quan thầy. Ngày kỷ niệm vị Thánh quan thầy đó được xem như là ngày giỗ họ. Đây cũng chính là nét gần gũi với truyền thống thờ cúng ông bà tổ tiên của nhân dân ta.
Dưới họ đạo là dâu. Dâu là tập hợp những người theo công giáo trong một ngõ (khoảng 10 gia đình). Đứng đầu dâu là trùm dâu. Dâu là đơn vị hạt nhân trong làng công giáo (xứ đạo).
Tuy tổ chức theo hoạt động tôn giáo nhưng xứ – họ – dâu đều gắn chặt sinh hoạt đạo với đời. Các hoạt động theo lễ tục của làng nói chung như tham gia vào các hoạt động tang ma, hiếu hỉ, hay giúp nhau đào ao làm nhà… người có đạo đều tham dự rất tích cực.
Trong làng công giáo những tổ chức của đạo dựa trên giáo luật và qui định của giáo hội để điều hành hướng dẫn giáo dân sống kính chúa yêu nước, còn giáo dân thì phải tự giác tuân theo giáo luật. Chính vì vậy, giống như làng không theo đạo, làng công giáo có tính tự quản và tự trị rất cao.
Làng công giáo tổ chức thực hiện sống theo qui định của công giáo.
Đó là việc thực hiện đầy đủ những nghi lễ từ khi con người vừa mới được sinh ra cho đến khi lìa đời.
- Lễ rửa tội: theo quan niệm của công giáo, con người lúc vừa được sinh ra đã mang tội tổ tông, nên cần phải rửa tội. Để thực hiện nghi lễ này, em bé được đưa đến nhà thờ để được linh mục dùng nước lã tinh khiết vẩy lên đầu làm phép. Nghi lễ này cũng được thực hiện khi có người ngoài muốn xin vào đạo. Đối với những trường hợp sẩy thai, lưu thai, hay vừa mới sinh ra đã chết cũng phải chịu lễ rửa tội.
- Xưng tội, chịu lễ lần đầu: điều kiện để được đến chịu lễ lần đầu của một em nhỏ là phải thuộc “Bổn đồng ấu” - một loại kinh dành cho trẻ nhỏ khi xưng tội và chịu lễ lần đầu.
- Phép thêm sức: Dành cho trẻ từ 9 đến 12 tuổi với quan niệm cho cho trẻ được thêm ơn chúa. Chỉ có giám mục mới được phép làm lễ này, nếu linh mục được phép riêng của giáo hoàng ban thì cũng được làm phép thêm sức.
- Phép hôn phối: Công giáo đề cao hôn nhân một vợ một chồng, thủ tục cưới hỏi gần như của người bên lương trừ lễ cưới được tổ chức ở nhà thờ xứ đạo linh mục được thông báo chuyện hôn nhân này trước và rao giảng tin này trong một buổi lễ ngày chúa nhật để giáo dân biết, xem ai có phát hiện điều gì dối gian ở đôi vợ chồng tương lai không, nếu không có thì hôn phối sẽ được tổ chức trong một thánh lễ gần nhất tại nhà thờ xứ. Trong buổi lễ cưới đôi vợ chồng phải trả lời trước Chúa và Giáo hội là đồng ý làm vợ chồng của nhau, cuối cùng họ cùng ký tên vào sổ hôn nhân.
- Lễ vượt qua (lễ đối với người chết): Quan niệm của người công giáo, chết là sự an bài của chúa, ngưòi chết nếu rửa sạch tội sẽ được lên thiên đường. Vì vậy khi người chết hấp hối người nhà sẽ mời một linh mục tới để người đó xưng tội . Sau khi làm lễ xưng tội họ được chịu phép mình thánh. Lúc người đó qua đời gia đình sẽ đọc kinh cầu và tiếp đến là kinh tẩm liệm.
Quan tài người chết sẽ được đưa đến nhà thờ xứ, nhà thờ rung chuông nhịp 3 gọi là chuông sầu ,người chết là đàn ông thì rung 3 hồi 7 tiếng, còn người chết là đàn bà thì rung 3 hồi 9 tiếng. Sau đó một thánh lễ dành cho người chết được cử lên trong nhà thờ.
Từ nhà thờ người ta đưa quan tài ra bãi tha ma của người công giáo, đã được linh mục làm phép, có thể làm phép tại huyệt mộ (người công giáo không có tục cải táng).
Luật công giáo qui định, người có tội lúc chết không được rung chuông sầu, không có đoàn họ đi đưa đám không được linh mục làm phép ở huyệt mộ .
Những luật lệ của công giáo có phần khắt khe so với bên lương, hàng ngày họ phải đọc kinh cầu nguyện, mỗi năm ít nhất một lần xưng tội. Mỗi con chiên từ tuổi thanh niên đến 60 tuổi phải tuân thủ 4 điều sau:
Giữ 10 điều răn của chúa Trời và 6 điều răn của Hội thánh buộc.
Tin những điều mầu nhiệm của Đạo.
Xin ơn lành phần hồn phần xác cho mình và gia đình trong các buổi cầu kinh sáng, chiều, tối.
Chịu các bí tích giải tội.
Trong các làng công giáo thì các hoạt động tôn giáo được trải đều trong năm.
Trong tuần, vào chúa nhật giáo dân phải đi lễ nhà thờ. Trong năm có những ngày lễ quan trọng như: Giáng sinh, Phục sinh, Thăng thiên… Trong các ngày lễ, giáo dân các làng công giáo đều tích cực tham gia thể hiện sức mạnh cộng đồng. Nhìn chung làng công giáo mang đậm nét dương tính, có ý thức tự quản cao, những lễ hội của họ bắt buộc và thưòng xuyên còn nhằm củng cố đức tin của giáo dân.
MỘT VÀI NHẬN ĐỊNH
1. Ngay từ buổi đầu du nhập vào VN, KiTô giáo đã bị chính giới và thương nhân lợi dụng, thêm vào đó là những sai lầm của nhừng người đi truyền đạo… dẫn đến chính sách “cấm đạo”, “sát đạo” của triều Nguyễn. Chính điều đó, đã tạo nên một khoảng cách khá lớn giữa những người dân VN theo đạo với cộng đồng dân cư còn lại. Điều đó lý giải vì sao ngay từ khi mới hình thành làng công giáo đã có một lối sống biệt lập “khép kín” hơn so với làng nói chung của cư dân người Việt.
2. Làng công giáo là một loại hình làng Việt được hình thành trong quá trình truyền đạo của giáo sĩ phương Tây ở VN, vì vậy làng công giáo chứa đựng những thành tố của làng Việt đồng thời có tiếp nhận những nhân tố mới do Kitô giáo đưa vào. Làng công giáo dù có những đặc điểm tôn giáo nhưng vẫn kết cấu trên cơ sở xóm, làng… Hoạt động trong làng công giáo vẫn đan xen lẫn nhau giữa đạo và đời. Và so với làng nói chung thì làng công giáo mang tính “mở” hơn. Người theo đạo luôn có ý thức sống đúng theo qui lễ của công giáo và văn hoá ứng xử của người VN. Thực tế ngoài đặc điểm tôn giáo, thì kết cấu cộng đồng của người theo đạo hoàn toàn giống làng Việt bình thường.
3. Cuối cùng chúng ta thấy rằng những sinh hoạt của làng công giáo vẫn có những đóng góp nhất định cho văn hoá VN, những hoạt động văn nghệ, lễ rước kiệu, tế hoa… các hoạt động của trường tư thục đã làm phong phú thêm mô hình hoạt động của hệ thống làng Việt.
4. Dù có lối sống đặc thù tôn giáo, riêng biệt so với làng lương, nhưng tronglịch sử từ trước đến nay cộng đồng công giáo luôn chứng tỏ không phải là một cộng đồng bất thường, và tinh thần đoàn kết giáo –lương luôn là một điểm son trong lịch sử dân tộc.
CHÚ THÍCH:
1. Hà văn Tấn, Đến với lịch sử văn hoá Việt Nam. Nxb. Hội nhà văn, 2005, tr. 37.
2. Nguyễn Văn Kiệm, “Vai trò của Giáo hội Thiên chúa giáo trong cuộc xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp nửa sau thế kỷ XIX”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 3 – 1998, tr. 37- 46, tr. 37.
3. Nguyễn Văn Kiệm, Hình ảnh 7 tỉnh miền Tây Đàng Ngoài giữa thế kỷ XIX (sưu tầm và dịch), Tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 4 – 2003, tr. 30 – 38.
4. Khổng Đức Thiêm, “Vài nét về tình hình công giáo ở Liên khu IV trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 3 – 2002, tr. 22 – 29.
5. Trần Ngọc Thêm, Cơ sở văn hoá Việt Nam, Nxb. Giáo dục, 1999, tr. 288.
6. Nguyễn Phú Lợi, “Văn bản chia giáp Lương – Giáo cuối thế kỷ XIX ở ấp Văn Hải (Kim Sơn – Ninh Bình)”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 5 – 1995, tr. 51- 54, tr. 53.
Nguồn: tác giả