Trong quá trình đổi mới nền kinh tế, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương chính sách lớn được ban hành về nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Những chính sách này đã làm thay đổi bộ mặt của nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng. Với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nền nông nghiệp được củng cố và phát triển, năng suất lao động tăng lên. Nhiều xã ở nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng có cơ sở hạ tầng đã được xây dựng cơ bản như: điện, đường, trường học, trạm y tế, nước sạch, chợ… Đây là điều kiện quan trọng để các gia đình ở nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng tiếp cận thông tin, hội nhập và nhất là tiếp cận với dịch vụ kinh tế, xã hội. Nhờ vậy, cả sản xuất vật chất và đời sống tinh thần của các hộ gia đình ở nông thôn trong vùng được cải thiện. Theo số liệu thống kê, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân của vùng nông thôn đồng bằng sông Hồng năm 2007 đạt 13,2%, thu nhập bình quân đầu người đạt 16,6 triệu đồng, cao gấp 1,4 lần so với mức bình quân chung cả nước. Việc khẳng định gia đình là đơn vị kinh tế tự chủ trong sản xuất kinh doanh đã thực sự thúc đẩy, phát huy mọi nguồn lực ở nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng, đa dạng hóa việc làm và thu nhập, gia tăng các cơ hội thăng tiến và phát triển cho người nông dân. Mức sống thay đổi kéo theo sự gia tăng tiêu dùng, nâng cao văn hóa và sự biến đổi của hệ thống chuẩn mực giá trị. Trong gia đình người dân ở nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay không hiếm những vật dụng đắt tiền như, điều hòa, tủ lạnh, máy giặt, tivi, điện thoại, máy vi tính, xe máy, ô tô... Có những xã trong vùng đồng bằng sông Hồng 90% số gia đình có tivi và đài [Nguyễn Trọng Xuân 2006: 79]. Sự thay đổi này không chỉ chứng minh sự gia tăng mức sống mà quan trọng hơn nó chỉ ra rằng: đã xuất hiện ở nông thôn một không gian giao tiếp - truyền thông rộng lớn. Điều này cho phép sự xâm nhập của những ý tưởng mới, những giá trị mới làm cho người nông dân tự chủ hơn, năng động hơn. Không gian và điều kiện sống mở rộng tạo điều kiện cho người nông dân mở rộng giao lưu, tiếp xúc xã hội, tiếp nhận và trao đổi thông tin. Có thể khẳng định rằng, đặc trưng có tính bản chất của nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay là đang trong quá trình chuyển từ xã hội nông nghiệp, nông thôn sang xã hội công nghiệp, đô thị và hiện đại. Quá trình này, nhìn từ góc độ văn hóa, chính là sự chuyển đổi những giá trị xã hội từ văn hóa - văn minh nông nghiệp sang văn hóa - văn minh công nghiệp.
1. Tác động của sự phát triển kinh tế thị trường đến đạo đức gia đình ở nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay
Bên cạnh những thành tựu về kinh tế mà các gia đình đạt được, người dân trong mỗi gia đình ở nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay đang phải đối mặt với những thay đổi chóng mặt và nghiệt ngã trong đời sống tinh thần. Mô hình kinh tế - hành chính - xã hội: Nhà (gia đình) - Làng - Nước tỏ ra rất phù hợp với một vùng đất đặc trưng nông nghiệp lúa nước, góp phần tạo ra biết bao nhiêu thế hệ kế tiếp cho dân tộc, hiện nay đang bị đe dọa thậm chí đảo lộn. Chiến lược điều chỉnh hạ thấp tỷ trọng nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế quốc dân dẫn tới số lượng gia đình nông dân làm ruộng, sống ở nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng giảm mạnh. Mô hình gia đình truyền thống đã được thay thế bằng gia đình hiện đại đa khuôn mẫu: gia đình nông dân - công nhân, gia đình viên chức, gia đình doanh nhân. Ngay cả trong bộ phận nông dân còn lại, do chính sách “Tam nông” tích cực của Nhà nước, do giao lưu kinh tế - văn hóa rộng rãi, văn hóa của mỗi gia đình cũng thay đổi và mang màu sắc khác nhau. Không ít gia đình nông thôn trở thành những người nông dân trí thức biết làm chủ công nghệ hiện đại, tạo điều kiện cho mỗi thành viên trong gia đình ở nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay có cơ hội làm giàu, cống hiến, sáng tạo. Nhưng chính sự thay đổi đó lại cuốn họ vào vòng xoáy cạnh tranh khốc liệt của thị trường. Thái độ đo đếm sòng phẳng ngày càng phổ biến đến mức trở thành một thói quen được chấp nhận. Tất cả đều được quy thành phong bì, phong bao lạnh lùng vô cảm, kể cả trong các nghi lễ thân thiết của gia đình như sinh nhật, lễ cưới, mừng thọ hay phúng tang… Những bữa ăn ấm cúng trong gia đình trở nên ngày càng ít và nếu có, cũng diễn ra vội vàng vì nhiều người do công việc bận rộn hoặc ai cũng muốn nhanh quay về với những thiết bị công nghệ hiện đại như máy tính, ti vi, máy nghe nhạc, điện thoại... Đức hy sinh, sự nhường nhịn lẫn nhau của anh chị em, của vợ chồng, cha con trong gia đình ngày càng bị mai một, làm cho quan hệ giữa các thành viên trong gia đình trở nên lỏng lẻo, thờ ơ, đôi khi dẫn đến tình trạng vô trách nhiệm.
Bên cạnh đó, ở nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay những gia đình hạt nhân ít con tăng dần. Trong khi đó, số lượng gia đình đông đúc tam tứ đại đồng đường ngày một giảm. Điều này tưởng chừng khó có thể thay đổi ở một vùng vốn dĩ gắn với những truyền thống thâm căn cố đế, ăn sâu vào trong nếp nghĩ, nếp sống của họ vậy mà giờ đây cũng bị thay đổi. Có lẽ đối tượng chịu tác động mạnh nhất của việc thu hẹp quy mô và cấu trúc gia đình ở nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay là trẻ em và người già. Ngày càng có nhiều đứa trẻ ở nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng tuy đầy đủ về mặt vật chất nhưng lại hụt hẫng về mặt tinh thần. Cha mẹ bận rộn với việc mưu sinh, thậm chí bỏ ra thành phố hoặc đi lao động xuất khẩu,… kiếm việc dài ngày, con cái phó mặc cho ông bà ở nhà chăm, làm cho những đứa trẻ này bị giảm thiểu các mối quan hệ giao tiếp và cũng giảm thiểu những bài học đầu tiên, cơ bản về giao tiếp xã hội. Trong khi môi trường xã hội ở thôn quê ngày càng trở nên phức tạp và đầy cám dỗ, khi không có sự quản lý, giám sát của cha mẹ, nhiều trẻ em bị lôi kéo dẫn tới bỏ nhà, hợp thành băng nhóm phạm tội cờ bạc, nghiện hút, giết người, cướp của. Theo báo cáo của ông Nguyễn Như Ước - chủ tịch UBND xã Tân Ước - thuộc nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng cho hay: một xã có 4 thôn với 1.924 hộ gia đình (8.335 khẩu) nhưng có đến 2/3 số hộ đã ly nông và trong số những hộ ly nông đó đa số đã ly hương. Ông cho biết: “Nếu đến đây vào dịp giáp Tết, chắc sẽ chẳng gặp ai đâu. Những gia đình đi làm ăn xa khi đó kéo theo họ hàng, anh em, trẻ nhỏ đi cùng, ai có việc của người đó. Thế nên chẳng có gì ngạc nhiên khi sau dịp ấy ai trở về cũng mệt mỏi, mắt thâm quầng vì phải làm việc đến 20 giờ/ngày” [Trần Minh Ngọc (chủ nhiệm) 2009: 80]. Chính việc di cư ra đô thị lớn làm ăn của một bộ phận các gia đình ở nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng kéo theo những hệ lụy không nhỏ, tệ nạn xã hội, thói hư tật xấu, lối sống thị dân thờ ơ, vô cảm… sẽ theo họ quay trở về nơi “chôn nhau cắt rốn” góp phần phá vỡ kết cấu văn hóa của gia đình nông thôn truyền thống.
Còn đối với người già trong gia đình ở nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay cũng không hiếm những hiện tượng chịu cảnh sống cô độc, hoặc ông bà nội, ngoại nuôi cháu để bố mẹ chúng đi làm ăn xa. Con cái muốn có tự do, muốn sống độc lập để thỏa mãn cái tôi cá nhân của mình, nhiều người đã tách khỏi mô hình gia đình truyền thống, bỏ mặc bố mẹ già mưu sinh. Nghiệt ngã hơn, trong quá trình chuyển đổi kinh tế, nhiều vùng ở nông thôn đồng bằng sông Hồng bị đô thị hóa, các hộ gia đình giàu lên một cách nhanh chóng dẫn đến hệ lụy cha mẹ, con cái, anh chị em, vợ chồng tranh giành tài sản, khi không thỏa mãn đã xảy ra tranh chấp, kiện tụng… thậm chí con cái giết bố mẹ, chồng giết vợ, anh chị em giết hại lẫn nhau. Đạo lý rường cột: con có hiếu với cha mẹ - vợ kính chồng - anh chị em thuận hòa vốn dĩ là một truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam đang bị phá vỡ. Đạo đức trong nhiều gia đình trở nên băng hoại, chất văn hóa trong gia đình bị phai nhạt. Khuôn mẫu gia đình tự thỏa mãn, tự thực hiện mọi phúc lợi cho các thành viên từ lúc mới sinh cho đến hết cuộc đời không còn nữa. Nhiều chức năng của gia đình đã được các thiết chế xã hội khác đảm trách hoàn toàn hoặc một phần. Chức năng xã hội hóa trẻ em cũng suy yếu, hoặc vì các cháu đã đi học bán trú cả ngày, hoặc vì chính người lớn mải kiếm sống không có thời gian giao tiếp với chúng. Ngay chức năng tái sản sinh con người nhờ hình thức “liên minh sinh sản” giữa nam và nữ cũng không còn là nhu cầu tất yếu ở mọi gia đình. Người ta lấy nhau không cần sinh con, hoặc xin con nuôi hoặc thụ tinh ống nghiệm… từ đó dẫn đến dịch vụ “đẻ thuê”, “đẻ mướn”, mua bán trẻ em gia tăng trong những năm gần đây. Hiện tượng bạo hành gia đình, ngoại tình, ly thân, ly hôn, gia đình đơn thân, gia đình không sinh con, gia đình đồng giới, hôn nhân hợp đồng… diễn ra trong các gia đình ở nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng nhiều và nhanh trong những năm qua.
2. Phát huy giá trị và đạo đức Phật giáo vào giáo dục đạo đức cho gia đình nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng
Thực trạng gia đình ở nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay cho chúng ta thấy rõ sự nghiêm trọng trong sự biến đổi của gia đình ở đây. Vậy nguyên nhân của những thay đổi đó là do đâu? Phải chăng là do tác động tiêu cực từ mặt trái của nền kinh tế thị trường, do thực thi không đầy đủ các quy phạm, văn bản pháp quy về hôn nhân và quan hệ gia đình, do lệch lạc trong nhận thức và vận hành các chức năng xã hội cơ bản của gia đình, dẫn tới quá chú trọng, hoặc lao theo kinh tế đơn thuần mà coi nhẹ hoặc quên mất chức năng môi trường văn hóa của gia đình… Có lẽ, còn một nguyên nhân quan trọng nữa mà chúng ta chưa lường hết hậu quả đó là trong khi chúng ta “mải mê” chạy theo những con số, chỉ số phát triển kinh tế, chúng ta đã “bỏ qua” hoặc “lơ là” việc tuyên truyền, giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho gia đình. Chúng ta quên mất rằng trong các yếu tố hợp thành “gia phong” , gia đạo là yếu tố quan trọng nhất và cũng tương đối bền vững nhất vì nó có hàm chứa ý nghĩa tâm linh. Có thể thấy sự thiêng liêng của gia đạo chính là căn cứ chủ quan cho niềm tin của chúng ta về sự tồn tại bền vững của gia đình và xã hội. Bởi vì, mọi chức năng mà gia đình thực hiện đều có ý nghĩa kép không chỉ thỏa mãn cá nhân mà còn đáp ứng yêu cầu xã hội. Sức mạnh của một dân tộc được nuôi dưỡng trong lòng mỗi gia đình: gia đình bền vững - xã hội ổn định, gia đình hạnh phúc - xã hội phát triển phồn vinh.
Trước thực trạng của gia đình ở nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay, chúng ta cần nghiêm túc nhìn nhận lại và tăng cường công tác giáo dục giá trị đạo đức truyền thống. Chúng ta phải thấy rằng, sự phát triển của nền đạo đức và lối sống mới không phải là hoàn toàn phủ nhận quá khứ. Ngược lại, nó chỉ có thể phát triển được trên cơ sở kế thừa những giá trị truyền thống và trong những giá trị đạo đức truyền thống không thể xem nhẹ và bỏ qua vai trò của đạo đức Phật giáo. Bởi vì trong lịch sử, đạo đức Phật giáo có vai trò rất lớn đối với việc xây dựng đạo đức gia đình ở nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng. Biết bao nhiêu thế hệ gia đình được giáo dục những giá trị tích cực của Phật giáo về con người, cuộc đời con người, về nhân quả, nghiệp báo, từ bi, hỷ xả… để từ đó trưởng thành, tạo nên cốt cách của gia đình Việt Nam. Mặc dù là một tôn giáo ngoại sinh nhưng với một vùng đất mà cuộc sống con người ở đây luôn phải đối mặt với thiên tai và địch họa, những tư tưởng đạo đức tích cực của Phật giáo ở một khía cạnh nào đó rất phù hợp với thế giới quan và nhân sinh quan của họ. Đạo đức của Phật giáo không chỉ giúp họ nhận biết nguyên nhân và con đường giải thoát khỏi khổ đau, nhấn mạnh về tình thương, sự vô ngã, vị tha và lòng từ bi đối với chúng sinh, mà còn nhắc nhở họ muốn hoàn thiện đạo đức cá nhân, cần phải thực hiện các “hạnh” lành, giữ tâm thanh tịnh.
Bên cạnh đó, đến với đạo đức của Phật giáo, người ta được giáo dục tinh thần hướng thiện thông qua quy định về “Ngũ giới”, “Thập thiện” như những chuẩn mực đạo đức để họ thực hiện: không được sát sinh, không được trộm cắp, không được thông dâm với người khác ngoài vợ hay chồng, không được nói điều sai trái, không tham lam, v.v. Ngoài ra, thuyết Nhân quả, Nghiệp báo và Luân hồi trong đạo đức Phật giáo giúp cho họ điều chỉnh ý thức, hành vi đạo đức và bồi dưỡng tình thương yêu, sống vị tha, làm điều thiện, tránh điều ác cho mỗi thành viên trong gia đình. Nó còn góp phần nâng cao trách nhiệm của các thành viên trong gia đình với nhau: con cái phải hiếu thuận với cha mẹ “thờ cha, kính mẹ ấy là chân tu”; chồng vợ phải tôn trọng và thủy chung với nhau; anh em phải thuận hòa và thương yêu nhau. Những chuẩn mực đạo đức xã hội này phù hợp với giá trị văn hóa tôn giáo nên được củng cố bởi niềm tin tôn giáo và niềm tin tôn giáo ấy sẽ được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Nó không chỉ góp phần duy trì và củng cố nếp sống gia phong trong gia đình mà còn gìn giữ và phát huy đạo đức truyền thống của dân tộc. Mỗi gia đình ở nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng đều ý thức được mình là con dân của làng, của nước. Vận mệnh của nước bị lâm nguy thì vận mệnh của gia đình cũng bị đe dọa. Niềm tin tôn giáo góp phần làm cho tinh thần yêu nước thấm sâu vào tình cảm của mỗi gia đình và trở thành một chuẩn mực đạo đức cho mỗi gia đình. Hình ảnh ngôi chùa làng ở nông thôn Bắc Bộ ẩn dấu bao nhiêu điều về triết lý nhân sinh, về đạo làm người cho mỗi thành viên trong gia đình ở nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng, gắn liền với tình làng, nghĩa xóm, với tinh thần cố kết cộng đồng. Vì vậy, các gia đình ở nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng luôn đề cao tinh thần hòa hợp, đoàn kết, nhân nghĩa và khoan dung trong quan hệ với nhau.
Như vậy, bản thân đạo Phật đã chứa đựng trong nó nhiều giá trị đạo đức chuẩn mực, phù hợp với đạo đức tốt đẹp của mỗi gia đình Việt Nam nói chung và vùng đồng bằng sông Hồng nói riêng. Trong quá khứ, những giá trị của đạo đức Phật giáo từng đóng vai trò lớn trong việc thiết lập gia phong cho mỗi gia đình ở nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng. Với những giá trị đạo đức mà Phật giáo mang lại cùng với sự ảnh hưởng sâu đậm trong nếp sống, nếp nghĩ của các thế hệ gia đình ở nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng trong suốt chiều dài khai phá nền văn minh, chúng tôi thiết nghĩ những giá trị đạo đức của Phật giáo vẫn chưa hề xưa cũ đối với mỗi gia đình ở nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay. Thực tế cho thấy trong những năm qua, một số hoạt động của Giáo hội Phật giáo các tỉnh trong khu vực đồng bằng sông Hồng như: xây dựng chùa tinh tiến, thực hiện tang ma văn minh, tiến bộ, nuôi dạy trẻ em mồ côi, người già không nơi nương tựa, quyên góp ủng hộ đồng bào lũ lụt, trợ cấp cho bà mẹ Việt Nam anh hùng, thương binh nặng và những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn… là phương thức tuyên truyền, giáo dục hữu hiệu tinh thần từ bi, hỉ xả, vô ngã, vị tha, nhân quả… của đạo đức Phật giáo đến với mỗi cá nhân con người, mỗi gia đình ở nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay. Những hoạt động này tiếp tục phát huy tinh thần “nhập thế”, gắn đạo với đời của Phật giáo Việt Nam.
Trước những biến động của mô hình gia đình truyền thống ở nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay, một mặt, để giữ gìn bản sắc văn hóa gia đình, chống lại sự tấn công của những tư tưởng văn hóa nước ngoài không phù hợp với văn hóa và đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc, mặt khác, giúp cho sự hòa nhập của mỗi gia đình ở nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay vẫn giữ vững độc lập và tự chủ về kinh tế, các thành viên trong gia đình được chăm lo cả về thể chất lẫn tinh thần mà không bị tụt hậu, không bị hòa tan, hơn bao giờ hết chúng ta cần phải tuyên truyền, giáo dục những giá trị đạo đức tích cực của Phật giáo để thiết lập lại gia phong, gia đạo khi chưa quá muộn. Chúng ta thử hình dung, nếu một ngày nào đó các thành viên trong gia đình ở nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng không được tiếp cận và giáo dục những giá trị đạo đức truyền thống thì tương lai của họ sẽ như thế nào? Đời sống tinh thần của họ sẽ ra sao? Sẽ có bao nhiêu hệ lụy xảy ra đối với xã hội? Sẽ có bao nhiêu cá nhân mang hình hài người nhưng tâm hồn là quỷ? Khi đó sự tan rã của gia đình truyền thống không chỉ dừng lại ở nguy cơ mà là hiện thực.
3. Một số khuyến nghị
Trước tình hình suy đồi đạo đức của một bộ phận thành viên trong gia đình ở nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay, chúng ta nên nghiên cứu, vận dụng các giá trị đạo đức Phật giáo để giáo dục đạo đức, lập lại trật tự trong gia đình. Vấn đề đặt ra là cách thức mà chúng ta thực hiện sẽ như thế nào. Bản thân các giá trị đạo đức trong Phật giáo tự nó khó có thể cải tạo hiện thực nếu không có vai trò của chủ thể giáo dục. Điều này rất cần đến sự chung tay góp sức của các tăng ni, Phật tử, của các cơ quan có thẩm quyền và bản thân chủ thể - các thành viên trong gia đình. Từ thực trạng này, chúng ta cần thực hiện một số việc như sau:
Thứ nhất, cần tạo ra môi trường kinh tế, văn hóa, xã hội lành mạnh, thuận lợi phát triển cả về vật chất lẫn tinh thần cho nhân dân. Khắc phục tình trạng thiếu việc làm và thất nghiệp đối với những hộ gia đình nông dân bị thu hồi đất phục vụ cho phát triển công nghiệp và các nhu cầu công cộng khác ở vùng đồng bằng sông Hồng, bởi vì đây có thể xem là căn nguyên của những đổ vỡ trong gia đình ở nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay. Nâng cao chất lượng dịch vụ xã hội bằng cách hoàn thiện các chương trình và giải pháp nhằm nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ y tế, giáo dục, nước sạch và dinh dưỡng cho những hộ gia đình khó tiếp cận. Công cuộc đấu tranh phòng chống các tệ nạn xã hội như mại dâm, ma túy, tình trạng vi phạm pháp luật cần tiến hành đồng bộ giữa các biện pháp phát triển kinh tế, giáo dục và hành chính, pháp luật, đặc biệt là giải pháp kết hợp pháp luật với giáo dục nhân cách. Nhu cầu vật chất của mỗi gia đình ở nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng được đảm bảo sẽ là cơ sở thuận lợi để phát huy giá trị đạo đức của Phật giáo trong đời sống tinh thần của họ.
Thứ hai, Giáo hội Phật giáo các tỉnh ở đồng bằng sông Hồng cần dùng nhiều phương pháp, cách thức hơn nữa để tuyên truyền những giá trị đạo đức của Phật giáo đến được với mọi đối tượng trong gia đình ở nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay, nhất là đối với thanh thiếu niên là những người sắp sửa bước vào ngưỡng cửa hôn nhân nhưng lại ít có điều kiện tiếp cận nhất đối với giáo lý Phật giáo. Những giá trị tích cực của đạo đức Phật giáo sẽ giúp họ biết “sợ” trước những hành động trái luân thường đạo lý để điều chỉnh hành vi của mình trong cuộc sống. Ở một góc độ nào đó, về mặt tâm linh mặc dù đây là luật “vô hình” nhưng lại có giá trị cải tạo thực tiễn rất lớn. Cần hiện thực hóa hơn nữa giá trị đạo đức của đạo Phật, gắn đạo với đời để cho bản thân mỗi thành viên trong gia đình ở nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng được kiểm chứng, được thể nghiệm thì sự thuyết phục và sức mạnh cải tạo của đạo đức Phật giáo mới có hiệu quả.
Thứ ba, nâng cao nhận thức của người dân về vai trò của gia đình, về chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước có liên quan đến gia đình. Tuyên truyền và bồi dưỡng cho các cá nhân kỹ năng sống, cách thức tổ chức cuộc sống gia đình, xây dựng mối quan hệ gia đình, bình đẳng giới trong gia đình, phòng chống bạo hành trong gia đình.
Gia đình không chỉ là nơi duy trì nòi giống, mà còn là môi trường cơ bản hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách con người, bảo tồn và phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp, cung cấp nguồn nhân lực phục vụ đất nước. Ở mọi thời đại, mỗi một quốc gia, mỗi dân tộc muốn tồn tại và phát triển đều cần phải biết chăm lo xây dựng gia đình. Gia đình có thể trở thành tổ ấm hay tổ lạnh, là thiên đường hay chốn ngục tù tất cả phụ thuộc vào sự chung tay góp sức của mọi thành viên trong gia đình cùng với sự hỗ trợ tích cực thông minh từ phía xã hội. Gia đình ở nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng là đại diện cho mô hình gia đình truyền thống của dân tộc Việt Nam, được hun đúc hàng nghìn năm trong lịch sử và phản ánh văn hóa của dân tộc. Trước những biến đổi của xã hội, để xây dựng gia đình ở nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng “no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc”, cần phải luôn tuyên truyền, giáo dục những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp, trong đó có giá trị đạo đức của Phật giáo. Thiết nghĩ đây là một hướng đi đúng và sẽ có hiệu quả.
Tài liệu tham khảo và trích dẫn
1. Dương Phú Hiệp 2012: Cơ sở lý luận và phương pháp luận nghiên cứu văn hóa và con người Việt Nam. - H.: NXB Chính trị Quốc gia.
2. Mai Văn Hai 2006: Một số giá trị văn hóa làng Việt vùng châu thổ sông Hồng trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. - Báo cáo đề tài cấp Bộ, Viện Xã hội học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam.
3. Nguyễn Trọng Xuân 2006: Luận cứ khoa học góp phần thực hiện điều chỉnh định hướng chiến lược phát triển vùng đồng bằng sông Hồng theo nguyên lý bền vững. - H.: Đề tài khoa học cấp Bộ, Viện Kinh tế, Viện KHXH Việt Nam.
4. Phạm Minh Hạc, Thái Duy Tuyên (cb) 2012: Định hướng giá trị con người Việt Nam thời kì đổi mới và hội nhập. - H.: NXB Chính trị Quốc gia.
5. Tổng cục thống kê 2013: Niên giám thống kê 2012. - H.: NXB Thống kê.
6. Thích Nhuận Đạt (tuyển dịch) 2012: Tư tưởng hiếu đạo trong Phật giáo. - NXB Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh.
7. Trần Minh Ngọc (chủ nhiệm) 2009: Việc làm của nông dân trong quá trình CNH, HĐH vùng ĐBSH đến 2020. - H.: Đề tài khoa học cấp bộ, Viện Kinh tế Việt Nam, Viện KHXH Việt Nam.
8. Viện NC Tôn giáo 2013: Phát huy giá trị tôn giáo nhằm xây dựng, nâng cao đạo đức, lối sống con người Việt Nam hiện nay: thực trạng những vấn đề đặt ra và phương hướng, giải pháp. - Kỷ yếu Hội thảo tổ chức tại viện KHXH vùng Nam Bộ, TP. Hồ Chí Minh.
Nguồn: Bài viết tham gia hội thảo “Hệ giá trị Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”. Kỷ yếu hội thảo in thành sách “Một số vấn đề về hệ giá trị Việt Nam trong giai đoạn hiện tại”