I. QUAN HỆ GIA ĐÌNH, LÀNG XÓM CỦA NGƯỜI VIỆT
1. QUAN HỆ GIA ĐÌNH
Hầu hết gia đình người Việt ở Quảng Ngãi đều theo kiểu tiểu gia đình phụ quyền, chung sống 3 thế hệ, bao gồm: ông bà - cha mẹ - con cái. Cũng có khi là 4 thế hệ: ông bà cố - ông bà - cha mẹ - con cái, nhưng trường hợp này không phổ biến, bởi lớp ông bà cố còn sống rất hiếm.
Trong thế thứ, người Việt ở Quảng Ngãi có cách xưng hô khác chút ít với người Việt ở phía Bắc. Có thể nhìn thấy sự khác biệt đó qua bảng so sánh dưới đây:
|
Tên gọi thế thứ trong gia đình |
||||||||
Người Việt ở phía Bắc |
Kỵ |
Cụ |
Ông Bà |
Cha Mẹ |
Tôi |
Con |
Cháu |
Chắt |
Chút |
Người Việt ở Quảng Ngãi |
Ông Bà Cao |
Ông Bà cố |
Ông Bà |
Cha Mẹ |
Tôi |
Con |
Cháu |
Chắt |
Chút |
Từ năm 1945 trở về trước, người vợ trong gia đình gần như phụ thuộc hoàn toàn vào người chồng. Đàn ông luôn giữ vai trò người chủ gia đình, quyết định mọi công việc trong gia đình, đợc quyền tham gia các hoạt động xã hội, người đàn bà chỉ gánh vác những việc nội trợ, chợ búa... Tình trạng ấy có nhiều nguyên nhân, trong đó có dấu ấn trọng nam khinh nữ của Khổng giáo. Người phụ nữ chịu nhiều thiệt thòi trong cuộc sống cũng như trong các hoạt động xã hội. Hiện nay, việc đối xử giữa nam - nữ, vợ - chồng có nhiều đổi khác. Người phụ nữ dần được đối xử bình đẳng với nam giới, tuy cũng còn nhiều nơi, nhiều gia đình, người phụ nữ vẫn chưa thật sự được coi trọng.
Người cha còn được gọi là ba (do ảnh hưởng của văn hóa Pháp), một số ít gia đình còn gọi là thầy, bố, cậu, chú (trong những trường hợp đặc biệt, là do khó nuôi con, hoặc người cha quá trẻ...). Những gia đình còn có ông bà thì ông nội là người quyết định mọi việc, thứ đến là bà nội, sau đó mới đến cha mẹ.
Trong thời phong kiến, người đàn ông được quyền lấy nhiều vợ (chế độ đa thê). Vợ lớn nhất gọi là vợ cả, hoặc là chính thất; vợ tiếp theo gọi là vợ lẽ, vợ thứ. Người nào có con thì người con gọi người mẹ sinh ra mình là mẹ đẻ, còn gọi là mẹ hay má. Nếu mẹ đẻ chết, cha lấy vợ khác, thì người ta gọi người vợ thứ, vợ lẽ đó là mẹ ghẻ hoặc dì ghẻ. Con của người vợ lớn cũng gọi người vợ thứ của cha là mẹ hay dì, mợ… Quan hệ giữa con chồng, mẹ ghẻ thường không tốt đẹp. Trong dân gian vẫn còn truyền tụng câu ca: "Mấy đời bánh đúc có xương; Mấy đời dì ghẻ mà thương con chồng". Ở Quảng Ngãi, con vợ kế, vợ thứ không gọi vợ cả của cha là mẹ già, mà chỉ gọi là mẹ lớn. Nếu người đàn bà không con mà nuôi con nuôi thì người con nuôi gọi người phụ nữ nuôi mình là mẹ nuôi. Các bà vợ thứ, vợ lẽ phải phục tùng vợ cả. Ngày xưa, người vợ cả còn có quyền đi cưới vợ lẽ cho chồng. Nay tục đa thê gần như đã hoàn toàn bãi bỏ, hiếm thấy gia đình nào còn đa thê. Pháp luật cũng ngăn cấm chế độ đa thê, chỉ cho phép một chồng, một vợ.
Trong gia đình, nếu người cha có nhiều vợ, thì con vợ thứ, vợ lẽ dù có sinh ra trước vẫn phải chịu vai em đối với con vợ cả. Người vợ lớn mà có con hiếm muộn, đẻ sau, thì người con đó vẫn ở vai anh (hoặc chị). Người con đẻ đầu tiên gọi là anh hai (nếu là con trai), chị hai (nếu là con gái), không gọi là anh cả, hay chị cả như ở phía Bắc (2). Vợ người con trai được gọi là con dâu, chị dâu, em dâu; chồng người con gái được gọi là con rể, anh rể, em rể, tuỳ theo thứ bậc trong gia đình. Con trai trưởng (trưởng tử, trưởng nam) là con trai lớn nhất của người vợ lớn, nếu người vợ lớn (chánh thất) không có con trai thì con trai của vợ thứ sẽ là con trai trưởng, là người sẽ gánh vác những trọng trách trong gia đình sau khi cha mẹ già yếu giao phó hoặc sau khi cha mẹ mất, và là người được quyền thừa kế nhà của cha mẹ hoặc nhà thờ.
Về họ hàng nhà nội, cách xưng hô của người Quảng Ngãi gần giống như cách xưng hô của người Việt ở phía Bắc. Bác là anh ruột hay anh họ của cha; chú, cô là em ruột hay em họ của cha. Vợ của bác được gọi là bác gái; vợ của chú được gọi là thím; chồng của cô được gọi là dượng. Nhưng ở đây, trong vai vế họ hàng nhà nội, có một sự khác biệt nhỏ so với người Việt ở phía Bắc. Ở phía Bắc, chị ruột, anh rể của cha vẫn được gọi là bác, trong khi ở Quảng Ngãi và phía Nam nói chung, chị ruột của cha cũng gọi là cô, và dĩ nhiên chồng của cô cũng được gọi là dượng (dù trong trường hợp này cô, dượng lớn tuổi hơn cha).
Về họ hàng nhà ngoại, cách xưng hô của người Quảng Ngãi cũng có khác chút ít so với người Việt ở phía Bắc. Ở phía Bắc, anh ruột, anh họ mẹ, chị ruột, chị họ mẹ đều được gọi là bác, nhưng ở Quảng Ngãi, anh ruột, anh họ mẹ, em trai mẹ đều gọi là cậu; chị ruột, chị họ mẹ, em gái mẹ đều gọi là dì. Vợ của cậu gọi là mợ (dầu là cậu lớn), chồng của dì gọi là dượng.
Có thể thấy hai cách xưng hô ấy đều thể hiện nét đặt trưng của mỗi miền. Cách xưng hô như vừa trình bày trong cư dân Việt ở Quảng Ngãi có điều hay là dễ phân biệt theo nội, ngoại, nhưng lại ít cho thấy về vai vế lớn nhỏ.
Từ cách xưng hô trong gia đình họ nội, họ ngoại mà người Quảng Ngãi mở rộng cách xưng hô ấy ra những người trong họ hàng xa. Những người trong họ hàng xa cũng được gọi tương tự như trong gia đình (ví dụ như dù có lớn tuổi hơn mẹ, nhưng là bà con phía ngoại thì vẫn gọi là cậu, là dì...).
Dưới dây là bảng so sánh:
HỌ HÀNG NHÀ NỘI
|
Chị ruột cha |
Anh ruột cha |
Cha |
Em trai cha |
Em gái cha |
Phía Bắc |
Bác |
Bác |
Con |
Chú |
Cô |
Quảng Ngãi |
Cô |
Bác |
Con |
Chú |
Cô |
HỌ HÀNG NHÀ NGOẠI
|
Chị ruột mẹ |
Anh ruột mẹ |
Mẹ |
Em trai mẹ |
Em gái mẹ |
Phía Bắc |
Bác |
Bác |
Con |
Cậu |
Dì |
Quảng Ngãi |
Dì |
Cậu |
Con |
Cậu |
Dì |
Cũng vì còn coi trọng vai trò người đàn ông trong gia đình, nên người Việt ở Quảng Ngãi nhìn chung coi trọng họ hàng nhà nội hơn họ hàng nhà ngoại.
Trong quan hệ gia đình, người ta luôn coi trọng nếp nhà, hay còn gọi là gia phong. Ông bà, cha mẹ luôn răn dạy con cháu là phải giữ "gia phong". Trong nhiều gia đình ngày xưa còn có một bảng gia phong bằng chữ Hán treo ngay gian chính ngôi nhà hoặc ở gian bên hữu ngôi nhà. Việc treo bảng gia phong hàm ý nhắc nhở mọi thành viên trong gia đình phải luôn chú trọng đến nếp nhà. Một số gia đình thì người ông hoặc người cha còn viết những câu răn dạy con cháu theo đạo Khổng Mạnh trên bảng, hay trên giấy dán trên tường nhà. Con cháu có nhiệm vụ phải lấy đó làm phương châm để sống và học tập.
Người Việt ở Quảng Ngãi luôn coi trọng sự học, hay nói cách khác có truyền thống hiếu học. Trong gia đình cha mẹ luôn khuyên bảo, nhắc nhở con cái phải luôn cố gắng học tập. Ngày trước, người ta luôn quan niệm dầu có đói khổ đến cỡ nào cũng gắng cho con học được ít "chữ thánh hiền". Ngày nay, truyền thống hiếu học vẫn tiếp tục được giữ vững trong mọi gia đình, vì thế đã có nhiều con em Quảng Ngãi rất thành đạt trong việc học tập. Các tác giả sách Đại Nam nhất thống chí đã có nhận xét về truyền thống hiếu học của học trò Quảng Ngãi: "Học trò thì tư chất thông minh, nhiều kiến thức (...), người nghèo thì thường khổ vì sinh nhai không đủ, học nghiệp phần nhiều không chuyên, nhưng nếu biết cố chí thì cũng nhiều người thành tựu" (3). Ngoài việc khuyên dạy con cháu phải học chữ, các bậc ông bà, cha mẹ luôn dạy con cái phải học lễ nghĩa - tức đạo lý làm người, như phải biết đối xử với người trên, kẻ dưới, phải sống giản dị, trong sạch, lành mạnh, thật thà, trọng danh dự, không trộm cắp, không vì tiền bạc mà dời lòng... Người Quảng Ngãi cũng đặc biệt chú trọng lễ phép. Khi thấy người lớn đi ngang qua, trẻ con vòng tay trước ngực và cúi đầu chào. Cũng nhờ luôn chú trọng đến lễ nghĩa, nên dù có nghèo khổ đến đâu, dù có phải đi bán hủ tíu, mì gõ, may vá... người ta vẫn hết sức giữ gìn nhân phẩm của mình. Có được điều đó là nhờ một phần lớn ở sự dạy dỗ của gia đình.
Trong gia đình các bậc ông bà, cha mẹ cũng luôn luôn giữ gìn sự hòa thuận, sự cẩn thận và chăm chỉ trong công việc, xem những thứ ấy là tấm gương cho con cháu. Con cháu lớn lên đều được ông bà, cha mẹ truyền cho những kinh nghiệm trong ứng xử, những sở trường nghề nghiệp. Việc dạy dỗ con cháu cũng đã bớt dùng roi vọt (Thương cho roi cho vọt/ Ghét cho ngọt cho ngào).
2. QUAN HỆ LÀNG XÓM
Khác với một số làng xóm của người Việt ở phía Bắc, nhiều làng chỉ có một dòng họ cùng chung huyết thống, dấu vết của chế độ thị tộc được thể hiện qua tên gọi của làng, như làng Đặng Xá, Ngô Xá..., dù làng quê của người Việt vốn từ lâu đã dựa trên quan hệ láng giềng là chính. Trong mỗi làng xóm của người Việt ở Quảng Ngãi thường có nhiều dòng họ. Mỗi làng có 4 - 5 dòng họ, làng lớn hơn có 7 - 8 dòng họ. Những dòng họ có đông người thường là dòng họ của những người tiền hiền, tức những người đầu tiên tổ chức khai khẩn, lập ra làng mạc, ruộng đồng. Trong làng xóm những người thuộc dòng họ tiền hiền bao giờ cũng được trọng vọng hơn dòng họ thuộc hậu hiền, dòng họ khác hoặc dân ngụ cư.
Trong thời phong kiến, mối quan hệ trong làng xóm đã định hình, có tính bền vững, được thực thi theo tập quán pháp và được chế định bởi hương ước. Hầu hết các bản hương ước hiện tìm thấy hầu như đều được lập năm 1937. Tuy nhiên, có thể phỏng đoán các làng Việt đều có hương ước từ rất xa xưa, có thể thành văn hay không thành văn, mà vì những lý do nào đó, đã bị thất truyền. Có lẽ, vào thời ấy, mỗi làng đều có một bản hương ước riêng. Bản hương ước bao giờ cũng có đầy đủ chữ ký của những người tham gia khoán ước, chức sắc, hào mục, có đóng triện của lý trưởng, có ấn chứng thị thực của cơ quan hành chính cấp tỉnh.
Trong thời phong kiến, dân chúng trong làng được chia làm 3 hạng. Theo Quảng Ngãi tỉnh chí, dân làng được chia ra các hạng sau đây:
"Hạng chức sắc gồm những người có hàm phẩm, từ các quan về hưu đến các bậc cửu phẩm lính. Ai vào hạng này lấy làm danh dự lắm, vì ra làng được ăn trên ngồi trước, không ai được sai, không đi canh gác, khỏi đi xâu. Người hàm phẩm lớn hơn, nhất là thủ chỉ trong làng, nghĩa là có giấy mực gì thì ông đứng trước hết.
Hạng hào mục gồm tất cả người đang làm việc làng hay người đã làm rồi thôi đã kể ở trên.
Hạng bình dân gồm tất cả dân tráng trong làng mà không có chức việc hàm phẩm gì" (4).
Rõ ràng, theo cách phân định nêu trên, việc phân chia các thứ hạng dân chúng trong làng ở Quảng Ngãi vào thời phong kiến không khác gì ở các làng xã khác trong cả nước. Tuy nhiên, nếu như ở các địa phương khác, các chức sắc ít khi dự việc làng (như các quan về hưu), chỉ khi nào làng cần mới tham dự, còn thường là vui thú điền viên cùng gia đình, thì ở Quảng Ngãi các chức sắc vẫn còn được trọng vọng. Cũng theo các tác giả Quảng Ngãi tỉnh chí, "ở Quảng Ngãi dân tình còn nghe lời các ông có danh dự, có phẩm vọng trong làng, ông nào không có lòng tư lợi thì dân tình đều phục, mà chỉnh đốn việc làng mau chóng. Việc chính trị cũng nhờ các ông ấy giúp sức thực nhiều, nhưng tiếc thay, các làng không có hạng người đàn anh, hay là có mà người ta không dự tới, thì việc làm đều về tay hào mục; hào mục mà được tốt thì không khác gì quan hưu. Nếu gặp những tay hào mục sinh sự thì việc làng lung tung suốt năm kêu kiện. Có nhiu người lấy sự kiện làm nghề sinh nhai" (5).
Hiện nay, việc phân chia các thứ bậc trong làng không còn nữa. Mọi người dân đều bình đẳng trước pháp luật. Việc phân biệt đối xử ít khi xảy ra và bị ngăn cấm.
Trong quan hệ xóm làng, người Việt ở Quảng Ngãi luôn chú trọng đến tình làng, nghĩa xóm, luôn nêu cao tinh thần tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau. Những câu nói dân gian về mối quan hệ láng giềng vẫn được trao truyền, vẫn được đề cao trong cộng đồng, như "Bầu ơi thương lấy bí cùng; Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn", hoặc "Chia ngọt sẻ bùi", "Nhường cơm sẻ áo", hay "Lá lành đùm lá rách"... Nhà nào có đau ốm, hoạn nạn, tang ma, hoặc làm nhà, cưới hỏi... thì cả làng đến giúp đỡ công sức lẫn tiền bạc, gạo, củi, mắm muối... Làng có thiên tai, lũ lụt thì cả làng cùng chung sức khắc phục. Tác giả sách Quảng Ngãi tỉnh chí cũng ghi nhận việc ấy: "Dân chăm lo làm việc... gặp khi bão lụt, cây cối ngã, nhà cửa sập, nhưng họ tức thì dọn dẹp ngay, trong một ngày thì đường cái đã thông hành được, còn nhà cửa thì trong một tuần lễ không thấy sập ngã nữa, nếu quan trên mà muốn đi khám cho biết quang cảnh bão lụt mà đi chậm trễ thì không thể thấy được cái chân cảnh" (6).
Hiện nay, ở một số làng xã "ngoại vi" vẫn còn giữ tục lệ: khi trong làng có đám cưới, thì ngoài việc đến giúp đỡ, bà con trong làng xóm còn tự nguyện đi đám cưới, không cần biết gia đình có cưới mời hay không. Ở thôn quê vẫn chưa có thói quen làm thiệp mời đám cưới. Nhưng thông thường khi nhà sắp có cưới thì người chủ gia đình, có khi là cha hoặc mẹ, đi khắp làng trên xóm dưới "mời miệng", hoặc chỉ "thông báo" cho bà con họ hàng lối xóm biết ngày giờ tổ chức cưới hỏi.
Người Việt ở Quảng Ngãi rất hiếu khách. Với khách hoặc cả với làng xóm luôn cởi mở, thoải mái, không đãi bôi, không dùng lời lẽ sáo rỗng, không ăn nói bỗ bã, nhưng vẫn theo kiểu "ăn cục, nói hòn", "có gì nói nấy". Ngoài việc coi trọng, tôn trọng họ hàng, làng xóm, khách khứa, bà con nội ngoại, người ta cũng luôn coi trọng mối quan hệ thầy trò, thầy dạy chữ lẫn thầy dạy nghề. Ngày lễ, ngày tết luôn thăm viếng và có quà tặng hoặc mời mọc để tỏ lòng biết ơn và ngưỡng vọng. Nhiều người, nhiều gia đình còn giữ mối quan hệ nồng mặn suốt cả đời người với thầy thuốc, những người đỡ đẻ, những người mai mối, sui gia, thông gia...
II. QUAN HỆ GIA ĐÌNH, LÀNG NÓC CỦA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ
1. QUAN HỆ GIA ĐÌNH
Cũng giống như người Việt, thời nay các tộc người Hrê, Cor, Ca Dong ở miền núi Quảng Ngãi sinh sống theo hình thức tiểu gia đình phụ quyền hoặc song hệ, với mô hình phổ biến là gia đình ba thế hệ: ông bà - cha mẹ - con cái.
Tuy nhiên, dường như chế độ song hệ đã dần mờ nhạt, nhường chỗ cho chế độ phụ hệ, nhưng những tàn dư của chế độ song hệ thì vẫn còn tồn tại phổ biến trong cộng đồng. Về mặt hình thức, biểu hiện rõ nhất của chế độ phụ hệ là việc khẳng định vai trò của người đàn ông trong gia đình, và việc coi trọng người con trai, nhất là con trai trưởng. Trong quan hệ vợ chồng, người đàn ông có quyền quyết định mọi công việc trong sản xuất, sinh hoạt, tín ngưỡng, hôn nhân, phân chia tài sản cho con cái, đối ngoại, được quyền dựng cây cột chính trong ngôi nhà sàn mới xây... Người đàn ông cũng là người gánh vác những công việc nặng nhọc, như vào rừng đốn gỗ, làm nhà, phát rẫy, cày bừa (Hrê), lợp nhà (phụ nữ kiêng leo mái nhà)..., và cũng chính người đàn ông là người được hưởng quyền tham gia các công việc quan trọng của plây, của nóc, như được tham gia vào hội đồng già làng, được làm chủ làng (kră plây), được làm thầy cúng (pơdâu)... Mặc dầu về biểu hiện, người đàn ông có vị trí quyết định trong gia đình và cả xã hội, nhưng vai trò của người phụ nữ cũng rất quan trọng. Phụ nữ cũng là người gánh vác những phần việc nặng nhọc, như trỉa hạt, làm cỏ, đi cấy, kiếm củi, hái rau, xay, giã, giần, sàng. Khác với phụ nữ người Việt ở Quảng Ngãi, không được đến cúng tế ở dinh, đình, miếu, lăng.... người phụ nữ Hrê, Cor, Ca Dong lại có được quyền đó. Họ được trực tiếp tham gia trong các hình thức tín ngưỡng, lễ hội của cộng đồng, không chỉ trong vai trò là người nội trợ mà còn được tham gia các hoạt động giao tiếp với thần linh, tổ tiên. Trong các lễ thức tín ngưỡng - lễ hội, như lễ ăn trâu, lễ cúng cơm mới, lễ cầu mưa, lễ cúng ngã ba đường..., người phụ nữ cũng được khấn tế thần linh như nam giới (trừ việc không được làm thầy cúng). Họ cũng được tham gia múa chiêng h’lênh (Ca Dong), được múa cà đáu (Cor), cũng có thể uống rượu say mà không bị người đời chê trách... Nói chung, mặc dầu quan hệ trong gia đình của người Hrê, người Cor, người Ca Dong đã chuyển sang chế độ phụ hệ, nhưng trên thực tế, dấu vết của chế độ song hệ vẫn còn, và nhờ đó mà quan hệ vợ chồng phổ biến vẫn là quan hệ bình đẳng, dân chủ, và cơ bản người phụ nữ vẫn được tôn trọng. Mặt khác, cũng nhờ thế mà quan hệ gia đình, thân tộc, nội ngoại luôn gắn bó, tương trợ lẫn nhau.
Trong quan hệ giữa cha mẹ và con cái, cũng như các dân tộc khác, trong gia đình của người Hrê, người Cor, người Ca Dong, cha mẹ có nghĩa vụ nuôi dưỡng, dạy dỗ, trao truyền các giá trị văn hóa tộc người cho con cái. Họ có ý thức trong việc dạy con cái chơi các loại nhạc cụ, như các loại đàn vơrook, các loại kèn môi, sáo tàlía..., các làn điệu dân ca, như ca choi, ca lêu (Hrê), xà ru, a giới (Cor), ra nghế, ta lêu (Ca Dong), các hình thức sản xuất và bảo vệ nương rẫy, cách săn bắt, hái lượm... mang truyền thống của tộc người. Cha mẹ có trách nhiệm chăm sóc, lo lắng chu toàn từng lễ thức trong chu kỳ vòng đời của người con, từ lúc sinh nở đến khi trưởng thành, ra riêng, đau ốm... Cha mẹ cũng có trách nhiệm phân chia tài sản cho con cái. Trong việc phân chia tài sản, người con trai trưởng bao giờ cũng được chia phần nhiều hơn và sau đó là người con gái út. Cách phân chia này dựa trên quan niệm về việc coi trọng huyết thống phía họ nội và việc phụng dưỡng bố mẹ tuổi già. Những người con gái khác trong gia đình bao giờ cũng được chia phần ít hơn, thậm chí chỉ nhận được ít của cải của cha mẹ lúc đi lấy chồng. Khi đã có gia đình riêng, nếu người con gái ấy trở về nhà cha mẹ đẻ thì cũng phải chịu những kiêng cữ không khác gì người ngoài gia đình, như không được đun nấu trong bếp lửa thiêng của gia đình, không được vào nhà nếu nhà cắm lá báo hiệu đang kiêng cữ, không được nằm ngồi chỗ dành cho con cái hiện sống trong gia đình... Đây là điều thường thấy trong hầu hết các gia đình của cả ba dân tộc ở miền núi Quảng Ngãi, đặc biệt là trong gia đình người Cor.
Cũng do tục coi trọng nam giới mà người Hrê, người Cor, người Ca Dong coi trọng họ nội hơn họ ngoại. Một biểu hiện dễ thấy là nếu cùng quan hệ huyết thống, về phía nội thì phải qua 4 đời hoặc 5 đời cháu chắt mới được lấy nhau, nhưng nếu về phía ngoại thì chỉ cần qua 3 đời là cháu chắt được quyền lấy nhau. Trong lúc hành lễ, khi khấn vái ông bà, tổ tiên, họ thường khấn ông trước, bà sau, cha trước, mẹ sau, cha mẹ chồng rồi đến cha mẹ vợ..., tức toàn bộ phía nội trước rồi mới đến phía ngoại. Theo các tác giả sách Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Nam), thì riêng hệ thống thuật ngữ thân thuộc của người Cor thôi cũng đã bao gồm 17 từ tối thiểu, thuộc các loại hình khác nhau, và đang trong quá trình chuyển biến. 17 từ đó là: Kơi = ông; Mah = bà; Wah = cha; Mih = mẹ; Karê = vợ; Kanau = chồng; Kót = con (trai lẫn gái); Sau = cháu trực hệ (trai lẫn gái); Wu = vợ chồng anh của cha, vợ chồng chị của cha, vợ chồng anh của mẹ, vợ chồng chị của mẹ; Nhu = em trai cha, em rể cha, em trai mẹ, em rể mẹ; Mư = em gái cha, em dâu cha, em gái mẹ, em dâu mẹ; Amưi = em dâu, con dâu; Ak = em rể, con rể; Neo = chị dâu, anh rể; Ay = anh, chị ruột và những người hơn tuổi êgô (tôi, bản thân) trong số các con (trai, gái) của anh, chị, em ruột cha, anh, chị, em ruột mẹ; Ok = em ruột (trai, gái) và những người ít tuổi hơn êgô trong số các con (trai, gái) của anh, chị, em ruột cha, anh, chị em ruột mẹ; Kamon = con trai, con gái của anh, chị, em ruột (7).
Các dân tộc ở miền núi Quảng Ngãi vốn có tên mà không có họ, vì thế không có thuật ngữ riêng để chỉ dòng họ. Mỗi người có tên gọi riêng và kèm theo đó là một bổ ngữ chỉ giới tính. Với người Ca Dong, trước tên nam giới có từ Xăng (ở các nhóm Xơ Đăng khác là A), trước tên nữ giới có từ Y. Với người Hrê, trước tên nam giới có nơi cũng có từ Đăm, Xăng, có nơi là Éo, trước tên nữ giới là Y, hoặc Iêng. Với người Cor, trước tên nam giới cũng là Xăng, Đăm, trước tên nữ giới cũng là Y.
Vào thời nhà Nguyễn và Pháp thuộc, để dễ theo dõi hộ tịch, hộ khẩu và số đinh trong các làng nóc miền núi Quảng Ngãi, các dân tộc miền núi trong tỉnh đều được đặt họ Đinh (theo họ cha), tức có nghĩa là thằng, đứa (con trai), dần dần con gái cũng theo họ cha mà ghi trong hộ tịch, hộ khẩu, hoặc kê khai đi học là họ Đinh (8).
Năm 1969, khi Bác Hồ mất, hầu hết người Cor ở Trà Bồng đổi sang họ Hồ. Số đông người Hrê ở Ba Tơ lấy họ Phạm (họ của đồng chí Phạm Văn Đồng), phần lớn đồng bào người Hrê ở Sơn Hà, Minh Long, đồng bào Ca Dong ở Sơn Tây vẫn còn giữ họ Đinh.
2. QUAN HỆ LÀNG, NÓC
Plây của người thiểu số ở miền núi Quảng Ngãi tương đương với đơn vị làng của người Việt, là đơn vị tổ chức xã hội cơ bản, là những công xã láng giềng nguyên thủy, hiện vẫn còn phổ biến dẫu có thay đổi chút ít theo cách tổ chức làng xã hiện nay, hoặc trước đó, trong thời nhà Nguyễn có thc thi một số chính sách như lập nên các sách, các man, các trấn..., nhưng thực tế thì đơn vị tổ chức xã hội cơ bản là plây hay nóc vẫn theo kiểu tự quản là chính. Plây hay nóc có một ranh giới nhất định (pla, liên), tách biệt với làng khác bằng những khu rừng vô chủ, hoặc một dòng suối. Trong một plây hay nóc có khu ở tập trung, có khu sản xuất, có một đoạn sông suối, khu nghĩa địa... Tất cả những thứ đó được xem là sở hữu chung của cộng đồng làng, ai cũng có quyền sử dụng. Nhưng tất cả những ruộng, rẫy, vườn nhà nào khai phá thì thuộc nhà ấy quản lý.
Trước đây mối quan hệ trong một plây, một nóc chỉ đơn thuần là mối quan hệ huyết thống. Plây hay nóc chỉ là những công xã thị tộc, bởi mỗi plây, mỗi nóc chỉ có một dòng họ tụ cư. Dần dần chế độ công xã thị tộc tan rã và thay vào đó là công xã láng giềng, nghĩa là đã có thêm nhiều dòng họ khác (phổ biến là 5 - 7 dòng họ) cùng cộng cư trong một plây hay một nóc. Mức độ to nhỏ của plây hay nóc tùy thuộc vào số lượng nhiều hay ít dòng họ cùng cộng cư và tùy thuộc vào địa vực cư trú thuận lợi hay không thuận lợi trong giao thông, sản xuất, sinh hoạt... Người miền núi Quảng Ngãi cũng dễ dàng cho phép người trong làng được quyền di chuyển chỗ ở ra ngoài làng, và cũng dễ dàng cho phép người ngoài làng đến nhập cư, miễn là tuân thủ theo đúng luật tục của làng (ngày nay còn phải có đăng ký hộ khẩu hoặc tạm trú, tạm vắng).
Nói về các dân tộc thiểu số trong tỉnh Quảng Ngãi, sách Đại Nam nhất thống chí ghi: (Người miền núi trong tỉnh có tục) "gác chòi để chứa thóc gạo. Để của ở ven khe, không lấy trộm của nhau. Dẫu nghèo cực vẫn không ăn xin. Ngoài việc săn bắn, không cờ bạc chơi bời, tính thuần phác. Trai gái không hòa gian" (9). Về tính khí của người miền núi Quảng Ngãi, tác giả sách Phủ Man tạp lục cũng ghi: "Khi có tranh chấp nhau việc gì đó, họ thường rút dao đeo sẵn bên mình đâm vào đùi đến chảy máu để thị uy. Ai làm được như vậy thì thắng, người không làm được kể như thua, hoặc bỏ than đỏ trên bắp vế hay trên lòng bàn tay nét mặt không biến sắc thì được gọi là can đảm. Nhà nào có con gái muốn kén rể thường cũng chọn người can đảm trước hết... Khi phải họp nhau để dự một cuộc cướp phá nào đó thì phải có một người vừa giàu có vừa can đảm đứng ra tổ chức. Nếu bói giò gà được quẻ tốt, họ chọn một khoảng đất rộng, cột một con trâu vào gốc tre cắm ở giữa, họp dân trong làng lại. Đến ngày lên đường, người chủ mưu trước hết ném một hòn đá vào chân cột tre, sau đó mới đến các người khác cũng liệng mỗi người một hòn đá vào đó, đến ngày về người ta chỉ việc đếm số đá đó so với số người trở về để biết số người còn mất. Uống máu thề nguyền đó cũng là một cách đồng ý với nhau" (10).
Người giữ vai trò đứng đầu bộ máy tự quản, điều hành các công việc của plây là các chủ làng (kră plây). Chủ làng có thể do được dân làng bầu từ một hội đồng già làng (chủ các nóc, các dòng họ), hoặc do cha truyền con nối. Nếu theo kiểu cha truyền con nối thì người chủ làng phải thuộc một dòng họ có công lập ra làng, nóc. Dù theo hình thức nào người chủ làng cũng là người có uy tín nhất trong làng, giữ mối thâm giao với các làng khác, phải am hiểu luật tục, phong tục, tập quán, tín ngưỡng, giải quyết những mối bất hòa trong cộng đồng, hiểu rõ nguồn gốc dân làng, ranh giới núi rừng, sông suối của plây, nóc, và cũng phải là người làm gương cho cộng đồng trong việc sản xuất, chăn nuôi, săn bắn... Trước đây, cũng có một số ít chủ làng lợi dụng quyền hành chiếm đoạt nhiều của cải như chiêng, ché, trâu..., và cũng bắt ép một số người làm nô lệ trong nhà, nhưng loại chủ làng này rất hiếm thấy.
Người chủ làng cũng là người có quyền tối cao giải quyết những tranh chấp giữa làng này và làng khác bằng vũ lực, nhưng thường trong mỗi plây, nóc có những "thủ lĩnh quân sự" và hội đồng già làng, là những người giúp cho chủ làng trong việc bảo vệ làng nóc, tổ chức sản xuất, cúng tế thần linh. Thủ lĩnh quân sự là những người có sức khỏe, lòng can đảm, mưu trí, có nhiệm vụ bảo vệ làng nóc. Hội đồng già làng là tập hợp những người lớn tuổi trong làng, đại diện cho các dòng họ, cho các nóc, không hạn chế về số lượng, là những người tư vấn cho chủ làng, có những quyền hạn nhất định trong làng, thậm chí cả cách chức chủ làng nếu chủ làng không còn xứng đáng ở cương vị ấy. Trước năm 1945, thực dân Pháp đã lập ra bộ máy cai trị bao gồm các chánh tổng, phó chánh tổng, sách trưởng, hương kiểm... ở miền núi cùng nhiều nơi đồn trú. Những người chủ làng hay những người trong hội đồng già làng là những đối tượng được Pháp chú ý mua chuộc. Sau Cách mạng tháng Tám, nhiều già làng các dân tộc đã tích cực tham gia xây dựng chính quyền mới. Ngày nay, Đảng và Nhà nước tiếp tục coi trọng vai trò, uy tín của các già làng, động viên các già làng tham gia thực hiện chính sách bình đẳng, đại đoàn kết các dân tộc trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Hiện nay, dấu ấn của hệ thống tổ chức theo kiểu tự quản truyền thống tại các làng dân tộc thiểu số ở miền núi Quảng Ngãi vẫn tồn tại với mức độ đậm nhạt khác nhau. Thông thường, bộ máy Đảng và chính quyền thôn điều hành công việc theo luật pháp hiện hành, còn bộ máy tự quản thì chuyên lo việc luật tục hoặc tập quán - là những khoán ước được lưu truyền trong trí nhớ dân làng, nhất là trong trí nhớ người chủ làng và hội đồng già làng, có thể là bằng những câu nói có vần đơn lẻ, có thể là bằng những bài văn vần dài đến hàng trăm câu, mà trong đó có những chế định cụ thể ràng buộc các thành viên trong làng xóm và điều chỉnh các hành vi của các thành viên trong cộng đồng. Bộ máy tự quản và điều hành theo luật tục rất được coi trọng trong việc bảo tồn tinh hoa văn hóa dân tộc, vận động các thành viên trong làng nóc bãi bỏ các tập tục lạc hậu, xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hóa, làng nóc văn hóa.
Trong mỗi làng nóc cổ truyền của người Hrê, Cor, Ca Dong còn có thầy cúng (đều gọi chung là pơ dâu/pdâu). Thầy cúng là người tổ chức và thực hành các nghi lễ trong các lễ hiến tế cho thần linh, là người giữ vài trò giao tiếp với thần linh, thuộc nhiều bài hát cúng, được mọi thành viên trong cộng đồng tôn trọng. Trong mỗi làng, nóc còn có người hòa giải và bà đỡ đẻ. Người hòa giải (hay người xử kiện) chuyên lo các công việc xử các vụ việc vi phạm luật tục hay tranh chấp trong làng. Bà đỡ đẻ là người chăm lo đến việc sinh nở trong làng, và cùng với thầy cúng, thực hiện các nghi lễ liên quan đến việc sinh đẻ, đặt tên cho đứa trẻ.
Mỗi plây, nóc của người Ca Dong và người Cor có 3 lớp người: người giàu, người đủ ăn và người nghèo. Trong mỗi làng của người Hrê thường có 4 lớp người: người giàu (proong, hoặc kan), người đủ ăn (lắp ká), người thiếu ăn (pa), người nô lệ, nợ nần, tức hạng cùng đinh (poong). Tuy được xem là có 3 hoặc 4 lớp người như vậy, nhưng trong thực tế, quan hệ giữa các lớp người đó khá bình đẳng, hiếm khi thấy có trường hợp bóc lột lẫn nhau. Người giàu có thường cũng chỉ có nhiều chiêng, ché, trâu, bò, heo, gà, và trước đây, đôi khi còn có một vài người nô lệ. Để chứng tỏ là giàu có, để tạ ơn thần linh và đồng thời cũng là để khao dân làng, người giàu có thường tổ chức các lễ ăn trâu của gia đình, 3 hoặc 5 năm một lần. Những người chịu thân nô lệ đều là những người vốn vi phạm một điều cấm kỵ nào đó ở làng, bị phạt vạ, nhưng không có tài sản để chịu thay hình phạt đành phải đi làm nô lệ (nhưng thật ra cũng chỉ như một người đày tớ trong gia đình). Đã làm thân nô lệ thì không được lấy con chủ nhà (nhiều truyện kể dân gian của các dân tộc Hrê, Cor, Ca Dong có nhiều hình tượng về người nô lệ ở trong gia đình những người chủ làng).
Nói chung, quan hệ làng nóc của các dân tộc thiểu số ở miền núi Quảng Ngãi là quan hệ bình đẳng, đoàn kết, gắn bó, chân thật. Trong làng nóc có sự phân biệt các lớp người, các chức danh, nhưng chưa phải đã phân hóa rõ rệt. Khi quan sát một đám tang, hoặc những ngày lễ hội, ta mới thấy rõ tinh thần tương thân tương ái hết sức nồng thắm giữa các thành viên trong từng làng nóc và sự đoàn kết, gắn bó giữa các làng nóc với nhau.
(1) Trong chương này, chúng tôi không tách riêng từng dân tộc thiểu số ở miền núi, vì về đại thể, các cách ứng xử trong quan hệ gia đình, làng xóm của người Hrê, Cor, Ca Dong cơ bản là giống nhau.
(2) Có nhiều cách giải thích vì sao người Việt ở phía Nam chỉ gọi anh hai, chị hai mà không gọi là anh cả, chị cả. Theo Nguyễn Đăng Vũ trong một công trình gần đây, có tạm thời giải thích: Trong quá trình người Việt ở phía Bắc di cư về phía Nam, người anh cả phải ở lại nhà để phụng dưỡng cha mẹ, lo việc tế tự, chăm sóc mồ mả ông bà… chỉ có người con thứ mới tòng quân, hoặc di cư vào phía Nam. Người con thứ, tiếp sau người con cả, phía Bắc gọi là anh hai. Vì vậy trong buổi đầu đi mở đất, chỉ có người con thứ hai, thứ ba... là vào phương Nam. Và có thể cách gọi đó còn là để tỏ sự tôn trọng, đề cao nguồn cội.
(3) Quốc Sử quán triều Nguyễn: Đại Nam nhất thống chí, sđd, tr. 356, 357.
(4) Nguyễn Bá Trác và các tác giả: Quảng Ngãi tỉnh chí, Nam phong tạp chí, 1933, bản đánh máy lưu tại Thư viện tỉnh Quảng Ngãi, tr. 62.
(5) Nguyễn Bá Trác và các tác giả: Quảng Ngãi tỉnh chí, sđd, tr. 62, 63 và 65.
Tác giả tài liệu này cũng còn nói thêm về tính khí của người Quảng Ngãi: "Dân khí Quảng Ngãi cứng cỏi hùng dũng, đó cũng là một cái ảnh hưởng của giang sơn. Người thượng lưu ưng tĩnh, ưa làm điều nghĩa, đến lúc cơ biến xuất tiền trăm bạc ngàn mà không tiếc; nếu có tai biến gì như nạn đói, nạn phong lạo, hỏa tai để quyên mà cứu giúp thì dân Quảng Ngãi trừ ra lúc bất đắc dĩ họ không giúp được không kể, còn phần nhiều là họ sẵn lòng xuất tiền cứu giúp; chăm lo làm giàu, hay tập thể thao, và cầm cương cho bọn bình dân.
Kẻ hạ lưu háo tụng, háo thắng, nên có thể vì một lời nói mà có khi kiện nhau. Số người tranh tụng, tỉnh nào cũng có, nhưng ở Quảng Ngãi thường nhiều hơn. Có câu ngạn ngữ rằng: "Làm đơn Quảng Ngãi, thơ lại Quảng Nam", lại có câu ca: "Quảng Nam hay cãi, Quảng Ngãi hay co". Cãi co cũng là tính chất hay kiện; co thì có ý háo thắng và cố chấp, vậy nên xét sự kiện cáo của dân Quảng Ngãi ít khi xử một lần mà rồi việc. Tuy vậy dân biết kính lời quan trên, nếu quan không thiên v mà phn giải sự lý cho rõ ràng thì dễ xử hòa" (tr. 65).
Những nhận xét như trên chỉ có giá trị để tham khảo.
(6) Nguyễn Bá Trác và các tác giả: Quảng Ngãi tỉnh chí, sđd, tr. 65.
(7) Viện Dân tộc học: Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Nam), sđd, tr. 104, 105.
(8) Đinh theo nghĩa xấu, có tính khinh miệt là "đứa".
(9) Quốc Sử quán triều Nguyễn: Đại Nam nhất thống chí, bản dịch, tập II (Quyển thứ VIII: Tỉnh Quảng Ngãi), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1970, tr. 357.
(10) Nguyễn Tấn: Phủ Man tạp lục, sđd, tr. 154, 155.
Nguồn: Dư địa chí Quảng Ngãi