1. NGUYÊN NHÂN VÀ HẬU QUẢ CỦA CÁCH HIỂU SAI ĐỐI VỚI VẤN ĐỀ HỌ TỘC VÀ HỌ TÊN CỦA MỘT SỐ DÂN TỘC NÓI TIẾNG MON-KHMER Ở VIỆT NAM:
1.1. Các dân tộc Hrê, Sedang, Bahnar, Khmer, Brũ có "họ" hay không?
Cho đến nay, nhiều người vẫn ngỡ các dân tộc nói ngôn ngữ Mon-Khmer ở Việt Nam và Đông Dương như Hrê, Sedang, Bahnar, Khmer, Brũ... là "không có khái niệm về dòng họ" hoặc "không có họ". Ngay trong giới chuyên môn cũng có những người xác quyết như vậy, căn cứ vào sự vắng mặt của yếu tố biểu thị họ tộc trong nhân danh của các dân tộc này, và/hoặc căn cứ vào tình trạng cấy ghép, vay mượn một cách phổ biến các tên gọi dòng họ của dân tộc đa số mà họ chịu ảnh hưởng, như người Việt ở Việt Nam.
Nhà dân tộc học Đặng Nghiêm Vạn (1984: 58) trong công trình tập thể Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Nam) cho rằng: "Các cư dân Hrê, Xơ đăng, Ba na không có khái niệm về dòng họ".
Nhà ngôn ngữ học - danh xưng học Lê Trung Hoa (1992: 28-29) trong công trình chuyên khảo Họ và tên người Việt Nam, viết: "Trước kia, nhiều dân tộc thiểu số không có họ. Vua chúa người Kinh đã ban cho người Chăm 4 họ: Ông, Ma, Trà, Chế; người Khơ-me 5 họ: Danh, Kim, Lâm, Sơn, Thạch; người Hrê họ Đinh;... Các dân tộc Bru, Khùa, Hăng-cong, Sộ, Trĩ, Vân Kiều,... [đúng ra đây chỉ là một dân tộc là dân tộc Brũ, gồm bốn nhóm: Vân Kiều, Tri, Khùa và Măng-koong] trước năm 1945 đều không có họ. Sau Cách mạng tháng Tám, các dân tộc này lấy họ Hồ (ý muốn làm con cháu Cụ Hồ) làm họ chung cho tất cả mọi người".
1.2. Chính sách xử lý?
Cách nhìn nhận vấn đề họ tộc và họ tên của các dân tộc thiểu số như vậy vốn đã có từ rất xa xưa. Năm 1827, vua Minh Mạng (1820-1840) đã từng ban một chỉ dụ như sau: "Thổ ty ở vùng Cam Lộ vẫn mang nặng tục Mường Mọi. Dân ở đấy chưa có tên tuổi họ hàng (Nguyễn, Lê, Trần, Bùi, Đinh...) minh bạch. Trẫm thấy rằng: Chỉnh đốn phong tục, cần phải đúng lúc và giáo hoá của vương giả không phân biệt loài giống. Nay nhân dân ở đó đã chịu giáo hoá của ta, đã ăn bận như ta, mà cứ để họ sống mãi trong tình trạng mỗi người chỉ mang một cái tên trần truồng không có họ hàng gì cả. Như thế đâu phải là ý nguyện ‘Xem mọi người cùng một chữ nhân' (nhứt thị đồng nhân) của trẫm. Vậy nay cho họ được phép đặt các tên, họ" (Quốc sử quán triều Nguyễn, Minh Mệnh chính yếu, T.III, Q.18-25, 1897). Và không chỉ ban họ cho người thiểu số ở Cam Lộ (thuộc Quảng Trị, chắc hẳn là người Brũ, vốn cư trú tập trung ở vùng đó), năm 1834 vua Minh Mạng còn "đặc tứ tính tự (tên họ)" cho những quan chức Chân Lạp (thuộc dân tộc Khmer) có công bằng cách cho mỗi người được trích lấy một chữ trong chức vụ để đặt làm họ (như Đôn Sô thì sẽ lấy họ là Đôn, tên là Sô), ban họ Vĩnh cho vua nước Hoả Xá (từ đời Thiệu Trị được cải chính thành Thuỷ Xá, thuộc dân tộc Jarai) và họ Lĩnh, họ Kiều cho hai sứ thần của vị vua này khi họ vào triều cống, v.v.
Đến thời chính quyền Ngô Đình Diệm ở miền Nam, cách nhìn nhận và xử lý như trên đối với vấn đề họ tên của đồng bào thiểu số vẫn tiếp diễn mà trường hợp người Brũ là thí dụ tiêu biểu. Sau Hiệp định Genève 1954, trên địa bàn quản lý của mình ở Nam vĩ tuyến 17, chính quyền Diệm đã bắt buộc người Brũ phải làm khai sinh, căn cước, khai rõ họ tên. Việc này đã làm cho đồng bào Brũ lo ngại vì trong suốt cuộc kháng chiến chống Pháp (và sau này, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ), địa bàn cư trú của đồng bào Brũ ở miền Tây Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên chính là căn cứ địa cách mạng, và hầu hết người Brũ đều tích cực tham gia kháng chiến dưới nhiều hình thức. Để tránh bị chính quyền Diệm truy nguyên lý lịch, đồng bào Brũ bèn dựa vào tập quán để chọn cách không khai "họ" trong giấy tờ. Thấy thế, một số nhân viên hộ tịch bèn gợi ý cho họ một cái "họ" nào đó của người Việt để họ dùng kèm với tên riêng!
Như vậy, từ cách hiểu không chính xác, người ta đã áp đặt một cách xử lý về hộ tịch vừa không phù hợp với tập quán truyền thống của đồng bào thiểu số, vừa gây ra tình trạng rối rắm do sự chia tách giữa họ-nhân danh với họ-thị tộc danh và ý thức họ tộc trong các cộng đồng thiểu số liên quan. Với cách xử lý ấy, hàng chục ngàn người thiểu số thuộc về những gia đình, họ tộc khác nhau sẽ cùng mang chung một họ-nhân danh, việc áp dụng các điều luật về hôn nhân - gia đình và về dân sự như cấm kết hôn giữa những người cùng dòng máu về trực hệ, cấm kết hôn giữa những người có họ trong phạm vi ba đời, xin cho con ngoài giá thú lấy họ cha, thay đổi họ của cha sang họ của mẹ hoặc ngược lại, cho trẻ sơ sinh mang họ mẹ trong trường hợp không xác định được người cha v.v. sẽ thành ra vô nghĩa. Chưa kể đối với những dân tộc vốn đã có họ-thị tộc danh như người Brũ, việc cấy ghép các họ-nhân danh ngoại lai vào nhân danh của từng người trên thực tế đã dẫn tới tình trạng "họ chồng lên họ", rất phức tạp về hộ tịch.
Chính do những hậu quả không nhỏ về nhận thức khoa học và về chính sách xử lý như trên mà chúng tôi cho rằng vấn đề họ tộc và họ tên của các dân tộc nói tiếng Mon-Khmer ở Việt Nam rất cần được khảo chứng cho thấu đáo để đem lại một cái nhìn khoa học, khách quan hơn. Để cho việc trình bày được phân minh, chúng tôi dùng khái niệm họ-nhân danh để chỉ yếu tố họ trong họ tên cá nhân, và khái niệm họ-thị tộc danh để chỉ danh xưng của thị tộc, họ tộc.
1.3. Nguyên nhân của cách hiểu sai:
Nói một cách khái quát, nguyên nhân của sự nhầm lẫn nêu trên chính là sự giao thoa văn hoá mà trong đó, một dân tộc đã lấy mô hình văn hoá của chính mình để lý giải, đánh giá những hiện tượng cùng loại trong mô hình văn hoá của các dân tộc khác. Nói một cách cụ thể, nguyên nhân của sự nhầm lẫn ấy là việc đồng nhất ý niệm về dòng họ với cái họ-nhân danh. Trong tập quán dòng họ của dân tộc Việt, tương ứng với ý niệm về dòng họ chính là cái họ cụ thể đặt kèm với tên riêng của mỗi người. Theo đó, mỗi cá nhân trong xã hội đều thuộc về một cộng đồng họ tộc nhất định mà một trong những dấu hiệu chính yếu là sự hiện diện của tên gọi họ tộc như một yếu tố thường trực trong tên riêng của mỗi người. Nói cách khác, mỗi con người trong xã hội đều phải được định danh bằng một tên riêng cấu thành từ ít nhất hai yếu tố: yếu tố biểu thị họ tộc mà người đó thống thuộc, và yếu tố biểu thị bản thân người đó như một cá nhân riêng biệt. Hầu như người Việt chúng ta không thể tưởng tượng nổi có những người chỉ có "tên" (tên cá nhân) mà không có "họ" (tên họ tộc). Giả sử có cá nhân nào như vậy thì hẳn là vì cá nhân ấy không được họ tộc của mình thừa nhận (?). Còn nếu tình trạng ấy lại phổ biến ở một dân tộc nào đó thì chắc hẳn là do dân tộc ấy "không có họ" hoặc "không có khái niệm về dòng họ" (?).
Dĩ nhiên, tình trạng nhận thức chưa thấu đáo như thế có phần trách nhiệm của ngành ngôn ngữ học. Như TS. Lê Trung Hoa (1992) đã nêu trong công trình Họ và tên người Việt Nam, ở các nước Âu Mỹ, khoa nhân danh học đã ra đời từ những năm cuối của thế kỷ 19, rất phát triển với hàng trăm công trình đã được công bố. Còn ở Việt Nam, mới chỉ có dăm bài nghiên cứu về một vài phương diện của họ và tên người Việt Nam - không kể những cuốn sách mang tính cách sưu tập. Công trình sớm nhất, đánh dấu sự hình thành thực sự của ngành nhân danh học Việt Nam là bài "Tên người Việt Nam" của Nguyễn Bạt Tuỵ, đăng tải năm 1954, trong đó tác giả liệt kê 308 họ và khảo cứu về cách đặt tên đệm, tên chính. Nhưng tính đến khi công trình vừa nêu của TS. Lê Trung Hoa ra đời, vẫn chưa có một công trình nào bàn luận kỹ, toàn diện và có hệ thống. Riêng vấn đề "họ" của các dân tộc nói chung và các dân tộc thuộc nhánh Mon-Khmer nói riêng thì chỉ được một số ít nhà ngôn ngữ học tiếp cận bằng cách sưu tập các họ-nhân danh của từng dân tộc và sử dụng các kết quả điều tra của dân tộc học và sử học để phân loại, lý giải nguồn gốc và diễn biến của tập hợp các họ của dân tộc ấy.
Năm 1997, trong luận án thạc sĩ Từ vựng và đặc trưng từ vựng tiếng Bru (Vân Kiều), chúng tôi đã trình bày kết quả khảo sát vấn đề "họ" ở người Brũ để đi đến kết luận: tình trạng không có họ trong các yếu tố cấu thành nhân danh của người Brũ hoàn toàn không có nghĩa là vắng mặt khái niệm về dòng họ. Cũng như ở người Việt cổ, cho đến nay người Brũ, người Bahnar, người Sedang, người Hrê... nói chung vẫn không cấu tạo tên gọi dòng họ vào tên riêng của cá nhân, nhưng ý thức về tộc hệ, dòng dõi rất rõ ràng, với những tín điều kiêng kỵ đi kèm vẫn còn giá trị. Ở đây, chúng tôi sẽ tiếp tục triển khai sự luận giải đó trên một bình diện bao quát hơn, với những dữ liệu mở rộng và hệ thống hơn.
2. NHÓM DỮ LIỆU THỨ NHẤT: NHỮNG TẬP QUÁN LIÊN QUAN ĐẾN Ý THỨC VỀ HỌ TỘC, HỌ-THỊ TỘC DANH VÀ HỌ-NHÂN DANH CỦA CÁC DÂN TỘC BRŨ, VIỆT, SEDANG, BAHNAR:
2.1. Nguồn gốc của họ-thị tộc danh và họ-nhân danh. Mối tương quan giữa ý niệm họ tộc, họ-thị tộc danh và họ-nhân danh:
Theo các tài liệu lịch sử thì vào thời khởi thuỷ của các dân tộc, khi dân cư còn thưa thớt và chỉ quây quần trong khuôn khổ các thị tộc, mỗi người chỉ mang một cái tên biểu thị cá nhân mình chứ không mang họ - vì mọi người trong thị tộc đều biết về nhau và có thể tự phân biệt với các thị tộc khác một cách dễ dàng. Từ khi các công xã thị tộc dần dần tan rã đồng thời với sự hình thành các công xã láng giềng và sự gia tăng dân số, người ta mới có nhu cầu gắn thêm vào tên riêng cá nhân của những người cùng họ tộc một dấu hiệu đặc trưng nào đó để tránh sự loạn luân giữa những người cùng họ tộc và sự trùng lặp với những người thuộc họ tộc khác cư trú trên cùng địa bàn. Dấu hiệu đặc trưng đó chính là yếu tố họ-nhân danh. Nguồn gốc của nó thường là:
(1) Tên của thị tộc hoặc tên của vật tổ tô-tem.
(2) Tên của người cha.
(3) Tên của địa bàn mà cá nhân và cộng đồng đó cư trú.
(4) Tên của nghề nghiệp mà cá nhân hoặc cộng đồng đó theo đuổi.
(5) Những từ ngữ biểu thị các khái niệm đẹp, các đức tính cao quý, cần thiết.
(6) Đặc điểm riêng của chính cá nhân đó.
(7) Vay mượn từ các dân tộc khác.
Theo Nguyễn Hiến Lê (1997), ở Trung Quốc, vào đầu thời nhà Chu (1121-221 trước TL) "chỉ giới quý tộc mới có tên họ vì tổ tiên thuộc một thị tộc nào đó; thường dân không có tên họ, lấy tên nghề làm tên họ, như tổ tiên làm đồ gốm thì lấy tên họ là Đào, tổ tiên đánh giặc, thì lấy tên họ là Tư Mã". Cho nên, danh từ "bách tính" (trăm họ) thời ấy chỉ dùng để chỉ riêng giới quý tộc sống trong các đồn luỹ bao quanh là nhà cửa của "lê dân" (dân tóc đen), phải tới thời sau nó mới có nghĩa là dân thường.
Theo Ngô Vinh Chính - Vương Miện Quý (1991), ở Trung Quốc vào "thời thượng cổ, khái niệm họ có hai: tính và thị. Từ Chiến Quốc trở về sau, hai khái niệm dần dần hợp làm một. Đời Hán gọi là tính, người dân nói chung đều có tính (họ). Họ của người xưa sản sinh từ nhiều cách: có người được đất phong, liền lấy tên ấp làm họ, ví dụ: Chu Vũ Vương phong Tạo Phu làm chủ đất Triệu Thành, con cháu ông ta liền lấy Triệu làm họ. Có người lấy nơi cư ngụ làm họ, ví dụ: Nam Cung Kính Thúc lấy đất Nam Cung làm họ. Có người lấy quan chức làm họ ví dụ họ Tư Mã, vốn là một quan chức, họ Vu (đồng bóng), họ Đào (nghề gốm) v.v...".
Theo Lương Văn Hồng (1989), ở Đức, "khi dân cư sống còn thưa thớt, khi mọi người trong một cộng đồng đều quen biết nhau thì mỗi người chỉ có một tên để gọi. Nhưng rồi dân cư ngày càng đông đúc, xã hội phát triển, giao thông buôn bán tăng cường, số người tới, số người dời đi cũng nhiều. Giờ đây một tên không đủ, nó dễ trùng lặp người này với người kia. Người ta gắn thêm cho mỗi người một đặc điểm, nó có thể là thêm tên cha như: Petersen - Peters Sohn: Con trai ông Peter; tên nghề nghiệp như: Mller - người xay bột; đặc điểm nơi ở như: Bachmann - Am Bach: ở bên suối; hoặc những đặc điểm ở con người ấy như Kleine: nhỏ bé. Cái tên gắn thêm sau này trở thành tên của cả dòng họ".
Như vậy về nguồn gốc, danh xưng của thị tộc chỉ là một trong nhiều yếu tố làm hình thành họ-nhân danh. Hay nói cách khác, yếu tố họ-nhân danh của một người không luôn luôn đồng nhất với họ-thị tộc danh của người đó. Người ta có thể chọn một từ ngữ nào đó không liên quan đến danh xưng của họ tộc để làm họ-nhân danh cho mình, nhưng trong ý thức người ta vẫn nhớ mình thuộc về một họ tộc cụ thể - với những thành viên cụ thể có chung một tổ tiên, một quan hệ huyết thống và có thể vẫn còn cùng nhau bảo lưu những tín điều kiêng kỵ nhằm ghi nhớ cội nguồn. Và trong trường hợp người đó không có hoặc đã bị mất danh xưng thị tộc của mình thì cái họ-nhân danh mà người đó chọn sẽ trở thành họ-thị tộc danh mới cho cả dòng họ mà người đó là thuỷ tổ. Nhiều cái họ-nhân danh và họ-thị tộc danh của người Khmer Nam Bộ, người Raglai, người Chăm, người Trung Hoa thời nhà Chu, người Đức... đã hình thành như vậy.
Từ tình hình đó, ta có thể rút ra hai nhận xét:
(1) Ý niệm về họ tộc và danh xưng của họ tộc là hai vấn đề có mối tương quan nhưng không phải là một. Thực tế có những dân tộc, trong những điều kiện xã hội nhất định, tuy đã có ý niệm về họ tộc nhưng từng họ tộc lại chưa có danh xưng riêng, tức chưa có họ-thị tộc danh.
(2) Cho nên, khi dân tộc đó có nhu cầu bổ sung vào nhân danh một yếu tố có tác dụng phân biệt giữa các họ tộc với nhau (họ-nhân danh), nhiều khi họ phải chọn một yếu tố vốn không phải là họ-thị tộc danh, hoặc phải vay mượn từ dân tộc khác. Trong trường hợp này, vì họ-thị tộc danh chưa xuất hiện, nên nó không thể là nguồn gốc làm hình thành họ-nhân danh. Ngược lại, chính cái họ-nhân danh mới hình thành của một người nào đó sẽ trở thành họ-thị tộc danh của họ tộc mà người đó là thuỷ tổ.
2.2. Ý thức họ tộc, họ-thị tộc danh và họ-nhân danh của các dân tộc Brũ, Việt, Sedang, Bahnar:
Các cư dân thuộc nhánh Mon-Khmer ở Việt Nam như Brũ, Việt, Sedang, Bahnar... cho dù có hay chưa có họ-thị tộc danh và họ-nhân danh thì họ vẫn có ý thức rõ ràng về họ tộc của mình. Quá trình hình thành họ-thị tộc danh và họ-nhân danh diễn ra không đồng đều ở các dân tộc này là do những nhân tố chủ quan và khách quan như tình trạng bảo lưu hình thái hoặc các tàn tích của công xã thị tộc, tình trạng tiếp xúc văn hoá với những dân tộc đã hình thành tập quán đặt họ-nhân danh và họ-thị tộc danh...
Người Brũ (vùng cư trú: Đông Bắc Thái Lan, Trung Lào, các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Đăk Lăk, Thừa Thiên - Huế của Việt Nam), theo tư liệu khảo sát điền dã của chúng tôi, cũng quần cư chủ yếu theo hình thức công xã láng giềng, nhưng đã chuyển sang chế độ gia đình nhỏ phụ quyền một cách toàn diện, với vai trò rất độc tôn của đàn ông. Người Brũ chẳng những hiểu rất rõ thế nào là dòng họ, mà mỗi dòng họ của người Brũ từ ngàn xưa còn có một tên gọi cụ thể (Ayua, Rlu, Satơăng, Sỗm, Ntrual, Hốk, Hũa, Bla, Rayoq...), với những tín điều kiêng kỵ đi kèm vẫn còn giá trị đến ngày nay. Một trong những điều kiêng kỵ quan trọng nhất là hai người nào đó sẽ không được phép kết hôn với nhau nếu truy ra cùng dòng họ (nguyên tắc ngoại hôn). Vì vậy, ai cũng phải nhớ rõ mình và gia đình mình thuộc về dòng họ nào để trên cơ sở đó tính tới quan hệ họ hàng, quan hệ thông gia với xung quanh v.v. Chính vì cái ý thức rõ ràng, thường trực về tộc hệ ấy mà người Brũ không thấy cần thiết phải "cơ cấu" tên gọi của dòng họ vào tên riêng của cá nhân mình và con cái của mình. Mỗi đứa trẻ sinh ra đều mặc nhiên là thành viên của dòng họ người cha, và chỉ cần đặt cho nó một cái tên riêng là đủ. Thậm chí, sau khi đặt tên riêng cho con rồi thì cái tên riêng của chính họ cũng không quan trọng nữa: trong giao tiếp, kể từ lúc ấy, họ sẽ sử dụng cái tên của đứa con lớn, tương tự như người Việt ở nông thôn Bắc và Trung Bộ.
Đối với dân tộc Việt (Kinh) thì theo nhà sử học Trần Quốc Vượng (Lịch sử Việt Nam, tập I, 1983), "Người Việt cổ từ Công nguyên trở về trước thường chỉ có tên, không có họ đặt như ngày sau. Mấy tên người Việt cổ mà sử cũ còn ghi được đều như vậy: Ông Trọng, Đô Kê, Cư Ông, Ích Xương, Trưng Trắc, Trưng Nhị, Thi Sách, Đô Dương... Việc đặt cả họ và tên như ngày sau hẳn là một ảnh hưởng Hán". Nhưng trong quá trình tan rã dần dần của các công xã thị tộc và hình thành các gia đình nhỏ bên trong các công xã nông thôn, quan hệ huyết thống và ý thức họ tộc của người Việt vẫn được giữ gìn bền vững. Theo nhà sử học Phan Huy Lê (Lịch sử Việt Nam, tập I, 1983), một đặc điểm quan trọng của công xã nông thôn Việt Nam vào thời Hùng Vương (khoảng 2000 năm trước TL đến thế kỷ 3 trước TL) là "bên cạnh quan hệ láng giềng, địa lý, quan hệ huyết thống vẫn được bảo tồn bên trong công xã. Trong làng có họ và có nhiều làng mang tên họ như Hoàng Xá, Cao Xá, Lê Xá, Đặng Xá... Quê hương của Mai Thúc Loan (thế kỷ VIII) là làng Mai Phụ (Thạch Hà, Nghệ Tĩnh) có nghĩa là gò đất họ Mai. Quê hương của Dương Đình Nghệ (thế kỷ X) là Kẻ Dàng, có tên là làng Dương Xá (Đông Sơn, Thanh Hoá). Cách gọi họ như trên chắc chắn xuất hiện sau thời Hùng Vương, nhưng kết cấu ‘vừa làng vừa họ' hay ‘làng-họ' thì có từ thời xa xưa. Đó là một loại công xã nông thôn kết hợp lâu dài với công xã gia đình (hay công xã thị tộc), trên cơ sở quan hệ địa lý vẫn bảo tồn quan hệ huyết thống. Đặc điểm này làm cho sự gắn bó bên trong công xã càng trở nên bền chặt". Một trong những bằng chứng thuyết phục về ý thức về dòng dõi, tộc hệ của người Lạc Việt là truyền thuyết và thần tích về Hai Bà Trưng. Cả hai bà Trưng Trắc - Trưng Nhị đều không có họ-nhân danh. Tên của hai bà bắt nguồn từ hai thuật ngữ Trứng Chắc, Trứng Nhì mà người dân chăn tằm ở vùng quê cha của hai bà (làng Hạ Lôi, nay thuộc huyện Mê Linh, ngoại thành Hà Nội) dùng để gọi các loại kén dày, kén mỏng. Mẹ của hai bà, người làng Nam Nguyễn huyện Ba Vì, ngoại thành Hà Nội, chính là cháu chắt bên ngoại của vua Hùng. Cũng theo Phan Huy Lê, trong thời Hùng Vương, chế độ phụ hệ đã dần dần được xác lập, nhưng vẫn kết hợp với nhiều tàn dư và truyền thống của chế độ mẫu hệ.
Dân tộc Sedang (cư trú ở các tỉnh Gia Lai, Kon Tum, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Đăk Lăk) là một thí dụ tiêu biểu cho trường hợp ý thức về họ tộc không đi đôi với sự hình thành họ-thị tộc danh và họ-nhân danh (có lẽ đây là căn cứ để nhà dân tộc học Đặng Nghiêm Vạn ("Dân tộc Xơ đăng", 1984c) đi đến nhận định rằng người Sedang "không có thuật ngữ riêng để chỉ dòng họ" - một nhận định không đúng mà chúng tôi sẽ nói rõ ở phần sau). Ý thức về họ tộc của người Sedang thể hiện trước hết qua các tập quán cư trú và tập quán hôn nhân - gia đình. Theo Đặng Nghiêm Vạn ("Dân tộc Xơ đăng", 1984c), cho đến trước ngày giải phóng năm 1975, người Sedang chỉ còn một đơn vị hành chính đơn giản nhất là plơi (làng). Mỗi plơi là một cộng đồng gồm những thành viên đồng tộc hoặc tự xem mình là đồng tộc, có hay không cùng quan hệ huyết thống. Đơn vị cư trú của họ cho đến đầu thế kỷ 20 là những nóc nhà dài gồm tám, chín chục thành viên của một gia đình lớn và có kết nạp thêm những thành viên không cùng huyết thống. Gần đây, đã xuất hiện ngày càng nhiều nóc nhà ngắn quy tụ chỉ 5 - 7 thành viên của một gia đình nhỏ. Riêng ở vùng người Hà-lăng nơi chế độ tông tộc thịnh hành, mỗi tông tộc (me nu) thường cư trú dưới một hay nhiều nóc nhà. Gia đình người Sedang là gia đình song hệ: hôn nhân theo chế độ cư trú hai bên - bên vợ và bên chồng; quan hệ giữa nam và nữ là bình đẳng; huyết thống tính theo cả phía mẹ và phía cha; không chấp nhận quan hệ hôn nhân giữa những người cùng huyết thống về phía cha cũng như về phía mẹ đến hết đời thứ ba. Riêng nhóm Ca-dong ở Sa Thầy còn có tục những người cùng kiêng giết, kiêng ăn một sinh vật thì không được lấy nhau.
Tương tự là người Bahnar (vùng cư trú: Gia Lai, Kon Tum, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà), một dân tộc cũng đã quần cư theo lối công xã láng giềng và ít nhiều vẫn còn bảo lưu chế độ gia đình song hệ. Theo Đặng Nghiêm Vạn ("Dân tộc Ba na", 1984b), mỗi plây (làng) Bahnar bao gồm nhiều nhóm gia đình ruột thịt, một krung ktum hay ktum ktang. Những nhóm cùng chung một ông bà này xưa kia thường ở chung dưới một nóc nhà, nay được chia thành những gia đình nhỏ. Gia đình người Bahnar nghiêng về dòng cha, nhưng không hiếm trường hợp người chồng đi ở rể. Trước khi cưới hỏi, hai gia đình phải thoả thuận về việc đôi trai gái sẽ về ở nhà bên nào trước. Nếu việc này chưa dứt khoát được thì họ sẽ cư trú luân phiên mỗi bên vài ba tháng cho đến khi đủ điều kiện để ra ở riêng. Sự quần cư theo lối công xã láng giềng tức xen kẽ với những gia đình khác họ đã buộc người Bahnar phải củng cố ý thức về họ tộc để tránh việc loạn luân. Đối với người Bahnar, loạn luân là trọng tội, ai phạm tội này ắt sẽ bị Thần Sấm Sét Bốc Glái đánh chết.
3. NHÓM DỮ LIỆU THỨ HAI: NHỮNG TỪ NGỮ LIÊN QUAN ĐẾN Ý THỨC VỀ HỌ TỘC, HỌ-THỊ TỘC DANH VÀ HỌ-NHÂN DANH CỦA CÁC DÂN TỘC BRŨ, VIỆT, SEDANG, BAHNAR:
Để soi sáng vấn đề hơn nữa, chúng ta hãy xem xét và so sánh dữ liệu ngôn ngữ của các dân tộc liên quan với nhau để xem chúng phản ánh như thế nào đối với các vấn đề ý thức họ tộc, họ-thị tộc danh và họ-nhân danh, và qua đó chúng nói lên những đặc trưng dân tộc gì trong việc phân cắt hiện thực qua ngôn ngữ.
Ngoại trừ thuật ngữ chỉ "họ-nhân danh", người Brũ có hầu hết những thuật ngữ chỉ họ tộc và họ-thị tộc danh mà người Việt có: tăng "họ tộc", muôi tăng "một-họ tộc; dòng họ", mũ "bầy; dòng họ", tăng toiq "dòng dõi", achúk achiak "ông sơ/kỵ-cha của ông sơ/kỵ; tổ tiên", achuaih ayơaq "ông bà", tỡkỡt rit "không thành-phép tắc luật lệ; loạn luân", dống sũ "nhà-chòi; gia đình", vil "buôn, làng", dống vil "nhà-làng; làng xóm", kũai pễr dống "người-bên cạnh-nhà; hàng xóm", sốt tâng dống "người cầm quyền-tại/trong-nhà; gia trưởng", nchau dống "người chủ-nhà; gia trưởng", yống asĩauq, ariêih tăng "người đứng đầu-họ tộc; tộc trưởng"... Đây là những tư liệu khảo sát điền dã của chúng tôi. Qua đây, ta thấy ý thức về tộc hệ, dòng dõi của người Brũ hết sức rạch ròi minh bạch. Và tuy không có họ-nhân danh nhưng người Brũ vẫn bảo tồn được hơn 40 họ-thị tộc danh vốn có của mình: Ayua, Rlu, Satơăng... Gần đây, sự du nhập mô hình họ tên của người Việt và một số họ-nhân danh của người Việt đã có tác dụng kích thích khiến một số người Brũ tự động chuyển họ-thị tộc danh thành họ-nhân danh cho mình và con cháu.
Đối với người Việt thì sau một thời gian rất dài chịu ảnh hưởng của văn hoá và ngôn ngữ Hán, ngày nay chỉ còn lại những từ thuần Việt thông dụng liên quan đến ý thức về họ tộc, họ-thị tộc danh và họ-nhân danh như sau: dòng "toàn thể nói chung những người hoặc gia súc cùng huyết thống, làm thành những thế hệ kế tiếp nhau; chi nhánh trong dòng họ, có sự kế thừa đời này sang đời khác", dòng dõi "những người cùng huyết thống làm thành các thế hệ kế tiếp nhau, kế thừa và phát triển những truyền thống chung", ông ba "ông và bà nói gộp, thường dùng để chỉ chung tổ tiên, trong quan hệ với con cháu", nhà "chỗ ở riêng, thường cùng với gia đình; tập hợp người có quan hệ gia đình cùng ở trong một nhà", làng "khối dân cư ở nông thôn làm thành một đơn vị có đời sống riêng về nhiều mặt, và là đơn vị hành chính thấp nhất thời phong kiến", xóm "khu dân cư nhỏ nhất ở nông thôn, gồm nhiều nhà ở liền nhau", làng xóm / xóm làng "làng và xóm, về mặt là khối dân cư ở nông thôn với đời sống riêng của nó (nói khái quát)", xóm giềng "những người hàng xóm (nói khái quát)", láng giềng "người ở ngay cạnh nhà, trong quan hệ với nhau", kẻ "(cũ; thường dùng trước một địa danh). Đơn vị dân cư, thường là nơi có chợ búa", quê "nơi gia đình, dòng họ đã qua nhiều đời làm ăn sinh sống, thường đối với mình có sự gắn bó tự nhiên về tình cảm", tên "từ hoặc nhóm từ dùng để chỉ một cá nhân, cá thể, phân biệt với những cá nhân, cá thể khác cùng loại", tên hèm "tên vốn có của một người, phân biệt với các tên đã đặt thêm ra khi còn sống hay với tên đặt cho trước khi chết theo một tục lệ thời trước, dùng để khấn khi cúng giỗ", tên riêng "tên gọi của từng cá nhân, cá thể, phân biệt với những cá nhân, cá thể khác cùng loại" v.v. (chú thích nghĩa trích trong Từ điển tiếng Việt, Hoàng Phê chủ biên, 1998). Còn những từ thông dụng sau đây đều là những từ gốc Hán hoặc có yếu tố gốc Hán: gia đình, gia tộc, họ (do hộ mà ra), tộc, thị, thị tộc, họ tộc, họ đương, họ hàng, họ mạc, họ nội, họ ngoại, dòng họ, dòng giống (giống là do chủng mà ra), hàng xóm, xóm thôn, quê hương, quê quán, kẻ chợ (chợ là do thị mà ra), tổ tiên, gia trưởng, tộc trưởng, trưởng họ, loạn luân, danh, tính danh / danh tính, họ tên / tên họ, tên chữ / tên tự, tên hiệu, tên huý, tên thánh, tên thuỵ, tên tục, v.v.
Từ đó, có thể rút ra nhận xét: 2000 năm tiếp xúc với văn hoá Hán đã tạo ra một khối lượng rất phong phú những khái niệm và từ ngữ có yếu tố gốc Hán để phản ánh các vấn đề họ tộc, họ-thị tộc danh và họ-nhân danh của dân tộc Việt - theo ghi nhận ở đây của chúng tôi là 33 từ. Tuy nhiên, cũng qua 2000 năm đó, người Việt vẫn còn giữ được ít nhất là 14 từ thuần Việt biểu thị các khái niệm về họ tộc sẵn có của mình. Tỷ lệ áp đảo 33/14 của các từ có yếu tố gốc Hán so với các từ thuần Việt không chứng tỏ rằng trước khi tiếp xúc với văn hoá Hán, ý thức về họ tộc, dòng dõi của người Việt chưa thật định hình, mà ngược lại, nó chứng tỏ ý thức ấy nơi dân tộc Việt ngay từ đầu đã vô cùng mạnh mẽ và bền vững để có thể bảo tồn được trước sự xâm nhập của văn hoá Hán một số lượng từ thuần Việt không phải là ít ỏi biểu thị các khái niệm về: gia đình, họ tộc (nhà, dòng, dòng dõi, ông ba), nơi và hình thức cư trú của họ tộc (nhà, làng, xóm, làng xóm / xóm làng, xóm giềng, láng giềng, kẻ, quê), và nhân danh (tên, tên hèm, tên riêng).
Mặt khác, không phải toàn bộ 33 từ có yếu tố gốc Hán trên đây đều biểu thị những khái niệm hoàn toàn mới mẻ đối với người Việt. Nhiều trường hợp người Việt sử dụng các từ gốc Hán cốt để làm phong phú vốn từ và cách diễn đạt của mình, chứ không hoàn toàn là vay mượn khái niệm. Đó là trường hợp của những từ có yếu tố gốc Hán đồng nghĩa hoặc gần nghĩa với các từ thuần Việt sẵn có như: gia đình (đồng nghĩa / gần nghĩa với nhà), gia tộc, họ, tộc, thị, thị tộc, họ tộc, họ đương, họ hàng, họ mạc, họ nội, họ ngoại, dòng họ, dòng giống (đồng nghĩa / gần nghĩa với dòng, dòng dõi), hàng xóm, xóm thôn, quê hương, quê quán (đồng nghĩa / gần nghĩa với làng, xóm, làng xóm / xóm làng, xóm giềng, láng giềng, kẻ, quê), tổ tiên (đồng nghĩa / gần nghĩa với ông ba), danh, tên huý, tên tục (đồng nghĩa / gần nghĩa với tên, tên hèm, tên riêng). [1]
Loại trừ những trường hợp đồng nghĩa và gần nghĩa với từ thuần Việt trong số 33 từ có yếu tố gốc Hán trên đây thì chỉ còn lại 11 từ: loạn luân, gia trưởng, tộc trưởng, trưởng họ, kẻ chợ, tính danh / danh tính, họ tên / tên họ, tên chữ / tên tự, tên hiệu, tên thánh, tên thuỵ. Trong số này, bằng vào các tri thức lịch sử, dân tộc học và các phân tích ngôn ngữ học nhân học trên đây, chúng ta có thể xác định 4 từ loạn luân, gia trưởng, tộc trưởng, trưởng họ chỉ biểu thị những khái niệm mà người Việt vốn có, nhưng vì những nguyên do lịch sử, đã thay thế hẳn những từ thuần Việt biểu thị các khái niệm ấy. Như vậy, chỉ còn lại những từ sau đây là thật sự đem lại cho người Việt những khái niệm hoàn toàn mới trong quá trình tiếp xúc với văn hoá Hán: kẻ chợ, tính danh / danh tính, họ tên / tên họ, tên chữ / tên tự, tên hiệu, tên thánh, tên thuỵ. Việc người Việt vay mượn của người Hán các khái niệm - từ ngữ: tính danh / danh tính, họ tên / tên họ như vậy là một bằng chứng ngôn ngữ học củng cố cho nhận định: trước khi tiếp thu ảnh hưởng văn hoá Hán, người Việt chưa có họ-nhân danh, tức là trong nhân danh chỉ có "tên", không có "họ".
Đối chiếu các kết quả phân tích trên đây với thực tế, chúng ta có thể thấy chúng phù hợp với các cứ liệu lịch sử và có thể góp phần soi sáng những phần còn mờ tối của các cứ liệu ấy. Giờ đây, phối hợp các dữ liệu lịch sử, dữ liệu dân tộc học và dữ liệu ngôn ngữ học, chúng ta có thể đoan chắc rằng, trước khi chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn hoá Hán, người Việt đã hình thành một ý thức rõ ràng về họ tộc và các họ-thị tộc danh mà dấu vết là những ngôi làng mang thị tộc danh như Hoàng Xá, Cao Xá, Lê Xá, Đặng Xá... Những ngôi làng này nguyên thuỷ là nơi cư ngụ của một thị tộc, nên tên gọi của thị tộc ấy (họ-thị tộc danh) đã trở thành tên của ngôi làng (địa danh). Về sau, dưới thời Bắc thuộc, các tên thị tộc và tên làng ấy mới được ghi lại bằng chữ Hán và được đọc theo âm Hán-Việt, tạo ra những họ-thị tộc danh tuy gốc gác là thuần Việt nhưng đôi khi lại trùng lắp với những họ-thị tộc danh sẵn có của người Hán. Thí dụ: địa danh "Kẻ Dàng" ở Đông Sơn, Thanh Hoá, quê hương của Dương Đình Nghệ, có lẽ xuất phát từ thị tộc danh "Dàng" là tên gọi của thị tộc định cư ở đó. Về sau "Dàng" mới được ghi lại bằng chữ Hán , đọc theo âm tiếng Hán phương ngữ Bắc là "Yáng" và theo âm Hán-Việt là "Dương". Con cháu của thị tộc Dàng từ đó mới lấy họ-thị tộc danh Dương làm họ-nhân danh, và Kẻ Dàng từ đó mới trở thành Dương Xá. Còn trước thời Bắc thuộc, người Việt cũng có tập quán đặt tên không kèm theo họ-thị tộc danh, tức chưa có họ-nhân danh. Theo chính sử thì phong tục tập quán của người Việt chỉ bắt đầu biến đổi mạnh mẽ từ thời các vị quan cai trị người Hán như Tích Quang (làm thái thú Giao Chỉ vào đời Hán Bình Đế, 1-5 sau TL), Nhâm Diên (làm thái thú quận Cửu Chân trong bốn năm vào đầu niên hiệu Kiến Vũ, 25-39 sau TL), và nhất là từ sau khi Mã Viện lần đầu tiên thiết lập nền đô hộ của nhà Đông Hán đến tận các xóm làng của người Âu Lạc (43-45 sau TL). Và phải đến thế kỷ thứ 2 mới bắt đầu thấy có những họ tên người Việt cấu tạo theo kiểu Hán được ghi nhận trong sử cũ. Việc cấu tạo nhân danh theo kiểu Hán và ghi chép bằng chữ Hán đã khiến cho nhiều họ-thị tộc danh thuần Việt bị đồng hoá với các họ-nhân danh của người Hán có ngữ âm tương tự. Mặt khác, do tập quán đặt tên người không kèm theo họ-thị tộc danh nên trong thời Bắc thuộc người Việt có thể đã đánh mất nhiều họ-thị tộc danh vốn có của mình khi họ vay mượn hoặc bị cưỡng ép vay mượn một họ-nhân danh gốc Hán để đặt kèm với tên của cá nhân. Việc vay mượn này diễn ra suốt thời Bắc thuộc là giai đoạn người Hán liên tục di cư xuống Giao Châu, mang theo hàng trăm họ-nhân danh Hán tộc; họ kết hôn với người bản xứ rồi con cháu dần dần trở thành người Việt, mang họ-nhân danh Hán.
Quá trình trên đây có lẽ cũng đã xảy ra ở người Mường, một dân tộc chỉ mới tách khỏi khối Việt-Mường từ cuối thời Bắc thuộc. Ở Hoà Bình, các dòng họ Đinh, Quách, Bạch, Hoàng, Hà, Xa... là những dòng họ người Mường từng nắm quyền thống trị lâu đời. Nguyên thuỷ, chắc hẳn đó chỉ là những danh xưng của từng dòng họ, về sau chúng mới trở thành họ-nhân danh và được ghi lại bằng chữ Hán, đọc theo âm Hán-Việt.
Nếu giữa người Brũ và người Việt là hai dân tộc đã xác lập toàn diện chế độ gia đình phụ hệ, có nhiều điểm giống nhau, thì về mặt này, giữa Sedang với Bahnar là hai dân tộc còn bảo lưu chế độ gia đình song hệ cũng có nhiều điểm tương đồng về từ ngữ chỉ họ tộc, họ-thị tộc danh và họ-nhân danh.
Theo tư liệu điền dã của chúng tôi tại địa bàn xã Ea Hiu huyện Krông Pắc tỉnh Đăk Lăk vào tháng 3-4/1985 (cộng tác viên bản ngữ: Mpiq Trương, nữ, 50 tuổi), người Sedang có đầy đủ những thuật ngữ như nrôôk nrếq "dòng dõi", muôi nrôôk "một-họ; dòng họ", pooh yah "tổ tiên", /pooh yah "ông bà", mơngai acho "người-chó; loạn luân", mơngai dâi phễp "người-không có-phép; loạn luân", inâiq "tên"... Những thuật ngữ này chứng minh một ý thức rất rạch ròi về huyết thống và họ tộc. Họ cũng có các từ ngữ chỉ: hi: chrăc "gia đình", /pooh căt "gia trưởng", và các khái niệm vi "làng lớn", plâi "làng nhỏ", vi plâi "làng xóm", cuat plâi "con-làng; láng giềng". Nhưng họ không có (hoặc có thể đã đánh mất) từ ngữ chỉ "tộc trưởng". Điều này phù hợp với một tình hình đã nói ở trên là sự xuất hiện ngày càng nhiều những gia đình nhỏ gồm 5 - 7 thành viên cư trú trong một nóc nhà ngắn, và sự biến mất những nóc nhà dài gồm tám, chín chục thành viên của một gia đình lớn. Như vậy, tuy ý thức về dòng họ vẫn còn, nhưng các dòng họ trên thực tế đã bị phân tán và không còn người tộc trưởng để điều hành.
Riêng khái niệm "họ" (họ-nhân danh), cộng tác viên bản ngữ của chúng tôi cho biết có một thuật ngữ tương ứng trong tiếng Sedang là mu. Tuy nhiên, chúng tôi chưa tin chắc. Vì thực tế tên của người Sedang không kèm theo họ-nhân danh. Mặt khác, vì cộng tác viên này cư ngụ trong một xã mà người Brũ chiếm non nửa dân số nên không thể loại trừ khả năng thuật ngữ mu này là do vay mượn từ thuật ngữ mũ "bầy; dòng họ" của dân tộc Brũ.
Người Bahnar, cũng theo tư liệu điều tra điền dã của chúng tôi tại địa bàn trên vào tháng 3-4/1985 (cộng tác viên bản ngữ: Mpiq Banh (Nưu), 32 tuổi), vẫn còn bảo lưu các thuật ngữ chỉ: krung kơtum "bồ-họ tộc; dòng dõi", kơtum "họ tộc", yă bok sơki "bà nội/ngoại-ông nội/ngoại-xa xưa; tổ tiên", yă bok "bà nội/ngoại-ông nội/ngoại; ông bà", bi tro "loạn luân", akâu "tên"... Tất cả đủ chứng tỏ một ý thức về họ tộc, huyết thống rất rõ ràng. Nhưng họ không có thuật ngữ chỉ "tộc trưởng", và giải thích rằng xưa kia họ đã từng có các kơtum "họ tộc" nhưng nay thì đó chỉ là một khái niệm tồn tại trong trí nhớ chứ không còn tồn tại trong hiện thực. Trong lúc đó, họ cũng có các từ ngữ chỉ: lơm hnam "gia đình", bok tơm "ông nội/ngoại-đầu; gia trưởng", pơlei "buôn, làng", kon pơlei "con-làng; láng giềng". Điều này tương ứng với một thực tế là người Bahnar đã quần cư theo lối công xã láng giềng, các công xã thị tộc đã hoàn toàn tan rã, mỗi làng Bahnar bao gồm nhiều họ tộc nhưng từng họ tộc cũng không còn ở chung dưới một nóc nhà mà đã chia thành những gia đình nhỏ, cho nên không có ai là "tộc trưởng" và thực tế cũng không còn cái thực thể gọi là "họ tộc".
Các khái niệm yă bok sơki "bà nội/ngoại-ông nội/ngoại-xa xưa; tổ tiên", yă bok "bà nội/ngoại-ông nội/ngoại; ông bà", bok tơm "ông nội/ngoại-đầu; gia trưởng" đều bao hàm cả người của bên cha và người của bên mẹ, cho thấy chế độ hôn nhân - gia đình song hệ đã hình thành ở người Bahnar từ rất lâu đời.
Đặc biệt, người Bahnar không có thuật ngữ chỉ họ-nhân danh, trong lúc họ đã có các thuật ngữ chỉ tên, họ tộc, dòng dõi, tổ tiên.
4. MỘT VÀI KẾT LUẬN:
4.1. Không một dân tộc nào lại không có ý niệm về dòng họ kể từ khi họ biết hợp quần thành thị tộc, nhưng không phải dân tộc nào cũng có tập quán đặt tên cho từng thị tộc (họ-thị tộc danh) và ghép cái tên thị tộc ấy vào tên riêng của từng thành viên thị tộc (họ-nhân danh). Hơn nữa, ở những dân tộc có tập quán nêu trên thì họ-thị tộc danh cũng không luôn luôn đồng nhất với họ-nhân danh. Do đó, chúng ta (1) không thể xem họ-thị tộc danh hoặc họ-nhân danh như những dấu hiệu bắt buộc chứng tỏ ý niệm về họ tộc của một dân tộc, và (2) không thể chỉ đơn giản lập danh sách tất cả các họ-nhân danh của một dân tộc, một cộng đồng để kết luận dân tộc ấy, cộng đồng ấy có bao nhiêu họ tộc và từng họ tộc có tên gọi là gì.
4.2. Người Việt ngày nay đều có họ-nhân danh và đồng nhất nó với họ-thị tộc danh. Nhưng cho đến thế kỷ đầu công nguyên, khi đã chuyển sang chế độ phụ hệ, người Việt vẫn chưa có họ-nhân danh, mặc dù đã có họ-thị tộc danh. Tình trạng này hoàn toàn giống với người Brũ hiện nay, một dân tộc hoàn toàn theo phụ hệ nhưng chưa chịu nhiều ảnh hưởng của tập quán đặt họ-nhân danh của các dân tộc khác. Cho nên theo chúng tôi, để nghiên cứu cho thấu đáo vấn đề này ở dân tộc Việt, rất cần thiết đối chiếu nó với các hiện tượng cùng loại ở người Brũ - một dân tộc đã được xác định là chỉ mới tách khỏi khối Proto Việt-Chứt về mặt ngôn ngữ và địa bàn từ cách nay hơn 4000 năm.
4.3. Nhà dân tộc học Đặng Nghiêm Vạn (1984a: 58) từng nhận xét rằng: "Giống như người Việt cổ, sự vắng mặt khái niệm về dòng họ của các cư dân ở đây [Hrê, Sedang, Bahnar] lại đi đôi với sự phân chia cộng đồng thành song hệ, và sự mất đi của vết tích tôtem giáo - một sản phẩm của giai đoạn thị tộc sơ khai". Nếu hiểu ngữ đoạn "sự vắng mặt khái niệm về dòng họ" theo nghĩa là "sự vắng mặt các họ-thị tộc danh và họ-nhân danh" thì có thể nói đây là một nhận xét xác đáng.
Quả thật, việc các dòng họ người Sedang bị phân tán thành các gia đình nhỏ sống xen kẽ với những gia đình nhỏ khác không cùng huyết thống và sự biến mất của người tộc trưởng có thể là những nguyên nhân làm suy yếu ý thức về cội nguồn dòng tộc và làm cho họ đánh mất cả tên gọi dòng tộc, nếu như tên gọi ấy đã từng tồn tại. Mặt khác, do hình thức gia đình song hệ vẫn còn được bảo lưu một cách đậm đà, nên giả sử đã hình thành các họ-thị tộc danh và họ-nhân danh, người Sedang cũng không thể dứt khoát chọn lựa một họ-thị tộc danh hoặc họ-nhân danh của cha hay của mẹ để đặt cho con.
Tình trạng đó cũng thấy ở người Bahnar: hình thức công xã thị tộc đã hoàn toàn tan rã, mỗi làng Bahnar bao gồm nhiều họ tộc nhưng từng họ tộc cũng không còn ở chung dưới một nóc nhà mà đã chia thành những gia đình nhỏ, cho nên không có ai là "tộc trưởng" và thực tế cũng không còn "họ tộc". Bên cạnh đó, người Bahnar cũng còn bảo lưu chế độ gia đình song hệ. Tình trạng này khiến cho người Bahnar không thể lưu truyền các họ-thị tộc danh nếu có, không thể chọn đặt họ-nhân danh cho con cái, và cũng không có cả thuật ngữ chỉ họ-nhân danh, trong lúc họ đã có các thuật ngữ chỉ tên, họ tộc, dòng dõi, tổ tiên.
Như vậy, bằng vào những cứ liệu có được, chúng ta kết luận: sự tan rã của các họ tộc, sự biến mất của người tộc trưởng, và chế độ gia đình song hệ, là những nguyên nhân của tình trạng không có họ-thị tộc danh và họ-nhân danh ở các dân tộc Sedang và Bahnar.
Nguồn: Tác giả.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Văn Đoan, 1999, Con số và tên gọi các dòng họ VN. Báo Tuổi trẻ Chủ nhật 1/8/1999, số 30-99.
2. Đặng Nghiêm Vạn, 1984a, Đặc điểm kinh tế, xã hội và văn hoá. Trong cuốn Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Nam). NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
3. Đặng Nghiêm Vạn, 1984b, Dân tộc Ba na. Trong cuốn Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Nam). NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
4. Đặng Nghiêm Vạn, 1984c, Dân tộc Xơ đăng. Trong cuốn Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Nam). NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
5. Hoàng Phê (chủ biên), 1998, Từ điển tiếng Việt. In lần thứ 6, đợt 2. NXB Đà Nẵng - Trung tâm Từ điển học, Hà Nội - Đà Nẵng.
6. Khổng Diễn, 1978, Dân tộc Bru. Trong cuốn Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Bắc). NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
7. Lê Trung Hoa, 1992, Họ và tên người Việt Nam. NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
8. Lương Văn Hồng, 1989, Sự phát triển của chữ viết Đức và tiếng Đức - lịch sử đặt tên ở người Đức. Nội san Kỷ niệm 10 năm thành lập Trung tâm Ngoại ngữ - Đại học Tổng hợp TPHCM.
9. Lý Lạc Nghị - Jim Waters, 1997, 1998, Tìm về cội nguồn chữ Hán - Gồm nhiều từ đã gia nhập vào kho tiếng Việt. Bản dịch tiếng Việt của Jim Waters - Nguyễn Văn Đổng - Nguyễn Phương Nhi. In lần thứ hai. NXB Thế giới, Hà Nội, 1998.
10. Lý Tùng Hiếu, 1985, Khảo sát lớp từ ngữ chỉ quan hệ thân tộc trong tiếng Bru. Luận văn cử nhân ngôn ngữ học, Trường Đại học Tổng hợp TPHCM.
11. Lý Tùng Hiếu, 1987, Lòng người Vân Kiều với Bác Hồ. Báo Sài Gòn Giải phóng 20/5/1987, số 3691.
12. Lý Tùng Hiếu, 1997, Từ vựng và đặc trưng từ vựng tiếng Bru (Vân Kiều), luận án thạc sĩ chuyên ngành ngôn ngữ học so sánh, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia TPHCM.
13. Lý Tùng Hiếu, 1999a, Chuyện cái họ của các sắc dân thiểu số. Tạp chí Kiến thức Ngày nay số 326, 1/9/1999.
14. Lý Tùng Hiếu, 1999b, Ngôn ngữ học văn hoá với nhiệm vụ tìm hiểu và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, báo cáo khoa học tại Hội thảo khoa học Bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc - vai trò của nghiên cứu và giáo dục do Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn thuộc Đại học Quốc gia TPHCM, Sở Văn hoá - Thông tin TPHCM, Viện Khoa học Xã hội tại TPHCM tổ chức tại TPHCM, 26/6/1999, và được chọn đăng trong cuốn Bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc - vai trò của nghiên cứu và giáo dục, NXB TP. Hồ Chí Minh, 1999.
15. Ngô Vinh Chính - Vương Miện Quý (chủ biên), 1991, Đại cương lịch sử văn hoá Trung Quốc. Bản dịch tiếng Việt của Lương Duy Thứ (chủ biên). NXB Văn hoá Thông tin, 1994.
16. Nguyễn Hiến Lê, 1997, Sử Trung Quốc, tập I. NXB Văn hoá.
17. Nguyễn Kim Thản (chủ biên), 1996, Từ điển Hán - Việt hiện đại. Tái bản. NXB Thế giới.
18. Phạm Đức Dương, 2000, Văn hoá Đông Nam Á. Bài giảng tại Khoa Đông Nam Á học, Trường Đại học Mở Bán công TPHCM.
19. Phan Huy Lê - Trần Quốc Vượng - Hà Văn Tấn - Lương Ninh, 1983, Lịch sử Việt Nam, tập I. NXB Đại học và Trung học Chuyên nghiệp, Hà Nội.
20. Quốc sử quán triều Nguyễn, 1884, Khâm định Việt sử thông giám cương mục. Bản dịch tiếng Việt của Hoa Bằng - Phạm Trọng Điềm - Trần Văn Giáp. NXB Giáo dục tái bản, 1998.
21. Quốc sử quán triều Nguyễn, 1897, Minh Mệnh chính yếu, T.III, Q.18-25. Bản dịch tiếng Việt do NXB Thuận Hoá hiệu chỉnh. NXB Thuận Hoá, Huế, 1994.
22. Trần Quốc Vượng, 1986, Tiếp cận lịch sử - văn hoá Việt Nam từ ngả đường ngôn ngữ (một vài thể nghiệm cá nhân). Trong cuốn Những vấn đề ngôn ngữ học về các ngôn ngữ phương Đông. Viện Ngôn ngữ học, Hà Nội.
23. Trần Trí Dõi, 1999, Nghiên cứu ngôn ngữ các dân tộc thiểu số Việt Nam. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
[1] Phân minh nhất đối với các vấn đề ý thức họ tộc, họ-thị tộc danh và họ-nhân danh chính là người Hán, một dân tộc đã hình thành các họ-thị tộc danh và họ-nhân danh không muộn hơn thời nhà Chu (1121-221 trước TL). Các từ ngữ liên quan mà người Trung Quốc đang sử dụng bao gồm:
Tộc (âm tiếng Hán phương ngữ Bắc: /zú/) có 4 nghĩa: 1. họ (đồng tộc, ngữ tộc); 2. hình phạt "chu di tam tộc"; 3. chủng tộc, dân tộc, tộc người (Hán tộc); 4. loài, nhóm (thuỷ tộc). Từ ghép: tộc quyền; tộc nhân (bà con trong họ, cùng họ); tộc trưởng (trưởng họ).
Thị /shì/ có 4 nghĩa: 1. họ (anh em họ Trương); 2. chị, bà (Vương thị); 3. gọi các danh nhân; 4. gọi họ hàng thân thuộc (cữu thị). Từ ghép: thị tộc.
Tính /xìng/: họ. Từ ghép: tính danh (họ tên, họ và tên); tính thị (họ, tên họ); bách tính (trăm họ, dân chúng, nhân dân).
Gia /jia/ có 10 nghĩa: 1. (cái) nhà; 2. gia đình, nhà; 3. nơi làm việc; 4. người (làm nghề...), nhà; 5. nhà chuyên môn; 6. trường phái; 7. (của) tôi; 8. do người nuôi; 9. thuần (dưỡng); 10. từ chỉ đơn vị. Từ ghép: gia môn (cổng nhà; họ, gia tộc, dùng khi tự xưng; trong nhà); gia đình; gia tộc (họ, họ hàng; gia tộc).
Hộ /hù/ có 4 nghĩa: 1. cửa (môn hộ); 2. người cùng ở trong nhà; 3. địa vị gia đình (môn đang hộ đối); 4. chủ tài khoản (tồn hộ - người gửi tiền). Từ ghép: hộ hạn, hộ dũ (liên quan nghĩa 1); hộ tịch, hộ khẩu, hộ trưởng, hộ chủ (liên quan nghĩa 2); hộ đầu (liên quan nghĩa 4).
Danh /míng/ có 7 nghĩa: 1. tên; 2. tên là, tên gọi là; 3. danh nghĩa; 4. tiếng, tiếng tăm; 5. nổi tiếng; 6. nói ra; 7. lượng từ chỉ người. (Chú thích nghĩa trích trong Từ điển Hán - Việt hiện đại, Nguyễn Kim Thản chủ biên, 1996).
Giữa tộc, thị và tính có sự phân công ngữ nghĩa: tộc ban đầu chỉ một tập hợp những cá nhân có chung tổ tiên, huyết thống. Thị là danh xưng riêng của tộc, để phân biệt tộc này với tộc kia. Tính là họ-nhân danh, thường bắt nguồn từ thị nhưng không luôn luôn đồng nhất với thị: thời thượng cổ, khi các tộc và các thị đã hình thành, vẫn chưa có tính; về sau, khi đã có tính rồi thì nhiều người vì những lý do này khác lại thay danh đổi tính trong khi vẫn ý thức rằng mình thuộc về một tộc, một thị khác hẳn. Chính vì thế mà những người mang những tính phổ biến như Lý (phổ biến nhất, chiếm 7,9% dân số Trung Quốc), Vương (7,4%), Trương (7,1%)... không nhất thiết là người cùng chung một tộc, đặc biệt là những người có tổ tiên là người dân tộc thiểu số. Tình trạng này chẳng khác gì Việt Nam hoặc những nơi khác trên thế giới.