Mười năm có lẻ về trước, tôi cùng với sinh viên khoa sáng tác lý luận - chỉ huy về miền quan họ. Với tính cách của kẻ "sỹ" và nghĩ rằng mình đã được trang bị ở Nhạc viện cái vốn kiến thức khoa học âm nhạc hàn lâm châu Âu thì tiếp cận dân ca quan họ đâu phải là chuyện khó. Nhưng, tôi đã lầm, bởi cái vốn kiến thức kia hoàn toàn là một hệ khác với những chuyên ngành khác, mặc dù nó rất dày dặn nhưng lại mong manh với âm nhạc dân gian mà ở đây là dân ca quan họ.
Đêm đó nghe các nghệ nhân hát canh, tôi bắt đầu thức tỉnh. Sáng hôm sau với dáng người "nhỏ bé" và tự cho mình có giọng hát hay, nên tôi liền được chọn vào vai liền anh để quay băng làm tư liệu. Một nghệ nhân bảo tôi, anh chỉ đứng vào để quay hình cho đẹp thôi, chứ không nên hát bởi hát như anh thì người quan họ sẽ không nghe đâu. Lời nói đó làm "kẻ sỹ" trong tôi sụp, tôi thức tỉnh hoàn toàn và hiểu ra rằng bàn tay với 5 ngón 4 khe thì không thể che nổi mặt trời.
Đấy là câu chuyện 10 năm về trước, và từ đó đến nay, dẫu không phải là người có chuyên ngành nghiên cứu âm nhạc dân gian, nhưng do nhu cầu công việc, mặt khác là do yêu thích, nên tôi thỉnh thoảng về nghe hát quan họ. Quan họ càng nghe càng say, vẫn lung linh huyền diệu, nhưng thú thật cho đến bây giờ bản thân tôi cũng chưa tìm được cái nút cơ bản để lý giải các vấn đề bao chứa trong nó. Bởi vậy, ở đây tôi chỉ điểm lại một số những điều mà các nhà nghiên cứu đi trước đã đưa ra, qua đó hi vọng (cho dù là mong manh) sẽ lý giải được điều gì nhỏ bé trong khối dân ca quan họ Bắc Ninh đồ sộ kia.
Thứ nhất về nguồn gốc và tên gọi của loại dân ca vùng Kinh Bắc này, mặc dù đã định hình từ lâu nhưng cho đến ngày nay nó vẫn chưa có sự nhất quán cao trong con mắt của các nhà nghiên cứu. Khi nói về nguồn gốc của quan họ, người ta thường hay dựa vào truyền thuyết có vị quan khi qua cánh đồng thấy giọng hát hay của người con gái, nên họ (dừng) lại nghe hát - từ đó có tên là quan họ. Hoặc là lối hát của quan viên hai họ khi gặp nhau. Lý giải về tên gọi như vậy rõ ràng mang tính thực dụng, nhưng không thuyết phục. Từ cách lý giải này nhìn rộng ra thì lại thấy được một vấn đề khác đó là sự khẳng định lối hát được đặt tên là quan họ đã có từ rất lâu đời và nó được gắn với người dân Kinh Bắc. Cũng phải nói thêm rằng, Kinh Bắc xưa là vùng đất cổ, có sông, có núi, có những đồng lúa bát ngát nâng cánh cò bay. Là vùng đất nằm giữa châu thổ cao và châu thổ thấp, thực tế có thể coi đây là điểm tạm dừng chân của người Việt để tiếp tục bước chân đi khai phá vùng đất mới phương Nam. Nhìn lại lịch sử, Kinh Bắc đã từng là trung tâm văn hóa của người Việt giai đoạn đầu thời kỳ trung cổ. Như vậy, điều kiện tự nhiên và môi trường như thế đã giúp con người Kinh Bắc dệt nên một nét văn hóa riêng: vừa thân thiện, đầm ấm, vừa lai láng bồng bềnh. Điều đó đã được phản ánh thật rõ nét trong các làn điệu dân ca của họ vừa có tính khép kín nhưng lại có tính mở rộng.
Thứ hai, hệ thống bài bản của dân ca quan họ Bắc Ninh là vô cùng phong phú. Từ những năm 60 của thế kỷ XX trở về đây, theo kết quả của các nhà nghiên cứu thì con số về bài bản, làn điệu của dân ca quan họ Bắc Ninh là chưa thống nhất. Tuy nhiên một con số trong bản Báo cáo về công tác sưu tầm và phát động quần chúng bảo vệ giữ gìn vốn văn hóa quần chúng (1973) đã làm mọi người phải thán phục, đó là số lượng bài hát có thể lên tới 300 bài. Và năm 2002 nhạc sỹ Hồng Thao cho ra mắt giới âm nhạc 300 bài dân ca quan họ, đây là công trình mang nhiều tâm huyết của ông, qua đó người ta đủ lòng tin để khẳng định sự phong phú của loại dân ca này.
Còn về làn điệu, các nhà nghiên cứu cũng như nhiều nghệ nhân cho rằng: dân ca quan họ có thể có trên dưới 200 làn điệu khác nhau.
Như vậy, sự đồ sộ về khối lượng các bài cũng như sự đa dạng về các làn điệu, chứng tỏ rằng dân ca quan họ luôn phát triển không ngừng trên dòng chảy của thời gian. Và, hệ thống bài bản đó phản ánh được các dạng thái tình cảm của người quan họ ở các cấp độ xa, gần, nông, sâu khác nhau. Dẫu rằng có sự phong phú và đa dạng của hệ thống bài bản, nhưng nhìn chung có thể chia chúng thành ba nhóm: Nhóm bài thuộc giọng lề lối, nhóm bài thuộc giọng vặt, và nhóm các bài thuộc giã bạn.
Thứ ba, mặc dù thuộc loại hát giao duyên, nó cũng giống như nhiều loại hát đối đáp, nhưng dân ca quan họ lại có những điểm rất khác biệt. Điểm khác biệt đó là do đặc điểm điều kiện môi trường đã tạo cho con người nơi đây biết cách tiếp cận, và tiếp cận được, những nét văn hóa mới ngoại vi trong từng trường hợp cho phép để tạo nên cái sắc thái đặc trưng của dân ca quan họ. Và hầu như tất cả những điều đó được thể hiện trong lối chơi của người quan họ. Dựa vào lời kể của các nghệ nhân cao tuổi, thì quan họ ngày đầu khởi nguyên là các nam thanh nữ tú khi du xuân tự tìm nhau và hát đối đáp. Theo thời gian, quan họ tự làm giàu cho chính bản thân bằng những nhân tố mới trong âm nhạc, kể cả trong cách hát và lối chơi.
Vậy ở đây, nên hiểu như thế nào về cách chơi trong quan họ. Cách đây khoảng 2 năm, tôi có gặp ông Nguyễn Văn Đảm, trước kia từng làm nghề dạy học nhiều năm ở Bắc Ninh cũng là người say mê sưu tầm nghiên cứu, nay đã nghỉ hưu và hiện làm ở Trung tâm Quan họ UNESCO. Ông cho biết: ca quan họ dứt khoát phải kèm theo lối chơi (xin nói trước đây chỉ là một kênh để chúng tôi tham khảo thêm). Và, ngày 22-2-2006 (tức 25-1 âm lịch) vừa qua, chúng tôi có đến dự lễ hội làng Ngang Nội. Sau đó, tại nhà cụ nghệ nhân Nguyễn Thị Khướu chúng tôi may mắn được gặp nhà nghiên cứu văn hóa quan họ Lê Danh Khiêm, ông cũng nhắc đến lối chơi của quan họ.
Lượm lặt ý kiến của các nhà nghiên cứu, cũng như qua việc hỏi các nghệ nhân, chúng tôi tạm hiểu cách chơi của quan họ gồm: lối chơi ở phạm vi rộng và lối chơi ở phạm vi hẹp.
ở phạm vi rộng là lối chơi mà trong đó nó bao chứa các nét văn hóa thuộc về cách giao lưu, ứng xử, hoặc nói cách khác là lối chơi của phong tục tập quán. Đó là cách chào hỏi, tiếp xúc, kết bạn, cách ăn mặc, trang điểm, cách tổ chức lễ hội… của người quan họ. Lối chơi này tạo ra tính kết cấu bền chặt giữa những cá nhân đồng lứa hoặc những làng kết bạn với nhau. Đôi khi họ không hát mà chỉ đến chơi, thăm hỏi giúp đỡ lẫn nhau trong việc đồng áng, tang ma, lễ hội… Có lẽ chính lối chơi này đã giúp chúng tôi lý giải được một khía cạnh nhỏ về tính dặt dìu của âm nhạc quan họ, và lý giải thêm tại sao quan họ không lan toả rộng mà chỉ xuất hiện, tồn tại ở mấy chục làng mà thôi.
Chơi trong phạm vi hẹp là lối chơi văn chương, chữ nghĩa, điển tích, ca dao, tục ngữ… trong những bài bản âm nhạc nhất định. Tất nhiên cũng cần lưu ý rằng gọi là lối chơi hẹp nhưng vẫn phải nằm trong không gian rộng bao chứa cả phong tục tập quán, không có gì tách bạch quá rạch ròi ở đây, dù vậy âm nhạc vẫn là phần cốt lõi chính của lối chơi này.
Chẳng hạn trên một làn điệu nhất định khi bên liền anh hoặc liền chị hát
…Nguyệt gác mái đình
Chén son chưa cạn sao tình đã say.
hay
…Lẩn khuất bóng mây
Mong sao thấy mặt dạ này mới yêu.
Thì lúc này bên đối, trong đầu đã phải tính toán rồi ứng đáp ngay. Nhiệm vụ của người hát đáp là phải thêm những từ vào câu thơ ở chỗ chấm lửng kia sao cho khi thêm xong câu thơ vừa phải đúng luật vần trắc, vừa có ý nghĩa về văn học. Ở cách ứng xử đối về điển tích cũng vậy, nếu bên này đưa ra điển tích về Thạch Sanh hay Trương Chi thì bên kia phải đối sao cho hợp lý. Cách dẫn ví dụ về chơi văn thơ và điển tích cũng phần nào hé lộ cho chúng ta cắt nghĩa là tại sao lời ca trong quan họ chứa nhiều yếu tố văn chương bác học và nhiều điển tích như vậy.
Cách chơi trong phạm vi hẹp của người quan họ trong các cuộc thi hát đã làm cho số lượng các làn điệu tăng lên đáng kể. Theo các nghệ nhân cho biết trong các cuộc thi hát, khi quan họ nam được ra những câu mới, mà bên nữ không đối được thì coi như là người thua cuộc, và ngược lại bên nữ có những câu mới mà bên nam không đối được cũng là người thua cuộc. Như vậy bên nào càng có nhiều câu mới thì bên đó chắc chắn sẽ nắm được phần thắng trong tay. Điều này đã như một chất men kích thích cả hai bên: bên thua phải thuộc và nhớ những câu mà bên kia đã đưa ra; và cả hai bên đều phải tìm tòi những câu sao cho thật đắt giá để chuẩn bị cho mùa thi hát năm sau. Thế là năm này nối tiếp năm khác cùng sự chuyển mình của thời gian, các làn điệu của dân ca quan họ ngoài những gì đã định hình, nó còn rộng mở tiếp thu hoặc vay mượn những làn điệu khác của hát xoan, chèo, chầu văn lý, hồ quảng… nhưng phải dựa trên lăng kính của người quan họ. Sự tiếp nhận những nhân tố mới là tính tất yếu của văn hóa nói chung và dân ca quan họ nói riêng. Bằng chứng là qua công trình nghiên cứu của cố nhạc sỹ Hồng Thao, trong 300 bài ghi âm về dân ca quan họ thì có đến 38 bài ngoài quan họ có liên quan họ. Chẳng hạn như Giáo roi, Thập ân (Chéo chái hê), Hồ quảng, Hát ru (Ca trù), Cây Kiêu bổng (Hát văn), Cò lả, Trống quân, Lý giao duyên (hát ghẹo), Lý Sài Gòn (điệu khi tương phùng, khi tương ngộ), Đò đưa (dân ca Thanh Hóa)… Như vậy là đã rõ, dân ca quan họ - một thực thể văn hóa - không bao giờ tồn tại phát triển một cách độc lập, mà nó luôn được bồi đắp bằng "một hệ phù sa màu mỡ" để rồi đơm hoa kết trái dâng cho đời những hương vị ngọt ngào. Nhưng qua đây vẫn cần phải nhắc lại rằng: lăng kính của người quan họ đã tạo ra sự thống nhất trong âm nhạc của họ, và đây có lẽ mới là cái chính mà chúng ta cần minh chứng cho sự độc đáo của quan họ so với các loại dân ca khác.
Thứ tư, đầu xuân năm nay, chúng tôi lại có dịp trở về với quan họ, được tham dự lễ hội của làng Bò Sơn, Ngang Nội, làng Diềm. Một không gian văn hóa vừa thực vừa như mơ chứa đựng trong nó hai dạng thái cổ - kim, vừa khu biệt, vừa trộn lẫn. Trong nhà, các liền anh liền chị thăm hỏi và ca quan họ. Ở chùa, từng tốp các quan họ cao tuổi ca quan họ. Mặc dù luật lệ đôi chút có bị nhạt phai nhưng vẫn giúp chúng ta hình dung được cái khung sườn của ngày xưa. Lối chơi quan họ đã được định hình từ lâu, đặc biệt là lối chơi hẹp đã ảnh hưởng trực tiếp đến hệ bài bản, nhưng cho đến nay nhiều quan họ cao tuổi hầu như cũng chẳng nhớ được tường tận, chứ chưa nói là sáng tạo ra những làn điệu mới. Đó cũng là do hệ quả của một hoàn cảnh lịch sử nhất định, và đó cũng là miền mở để các nhà nghiên cứu lưu tâm.
Về cách hát, có thể nói đây cũng là nét đặc trưng nổi bật của dân ca quan họ, nó hàm chứa đầy ắp những kỹ thuật dân gian nhưng không một thể loại dân ca nào có được. Dẫu vậy cho đến nay, thật khó có thể tìm được những giọng quan họ như các nghệ nhân ngày xưa. Ở đây cần có một cái nhìn công tâm hơn dưới quy luật vận động của văn hóa để giải thích hiện tượng này.
Trong lễ hội ở làng Bò Sơn, chúng tôi có tiếp xúc với một số liền anh, liền chị trung niên, họ thừa nhận rằng: hát như các cụ truyền dạy mất nhiều công sức mà khó hát, hát với nhạc đệm nhẹ nhàng hơn, dễ hát hơn. Thế là có thể thấy được nhiều người trong lớp liền anh, liền chị trung niên trở xuống, họ đã bắt đầu có một xu hướng thẩm mỹ khác trước, muốn hướng tới cái lạ để dễ hòa đồng với công chúng lớp trẻ hơn.
Nếu trong nhà lớp liền anh, liền chị cao tuổi ca quan họ trong bầu không khí ấm đọng tình người, thì bên ngoài một dạng hát quan họ của thời mới có vẻ thu hút được nhiều người quan tâm hơn. Đó là hát quan họ dưới thuyền. Không hiểu các cụ ta ngày xưa hát ra sao, chứ bây giờ thì, một thuyền được trang trí hình rồng, chở mấy liền anh, liền chị môi son má phấn, quần áo cách điệu truyền thống, tay cầm ô và hát. Tiếng hát được khuyếch đại qua dàn âm thanh và chiếc đàn oocgan đệm được đặt ở trên bờ đã tạo nên một không chí có vẻ chộn rộn hơn. Một điều làm người ta chú ý đến là trên thuyền rồng, ngoài liền anh, liền chị còn có một chiếc nón quai thao để trên thuyền, mục đích của nó là nhận tiền mừng tuổi ngày đầu xuân chăng? Nếu vậy thì việc hát dưới thuyền đã làm cho chúng ta liên tưởng tới sự du nhập của văn hóa hát xẩm ngày xưa, nay lại được tái nhập vào quan họ? Đó chỉ là chuyện về hình thức, nhưng nếu đứng trên phương diện âm nhạc mà xem xét thì chính môi trường này đã bắt đầu có những sáng tác mới. Những sáng tác ấy liệu có thể được coi là dân ca quan họ không? Câu hỏi này phải chờ thời gian trả lời và lịch sử xem xét.
Thứ năm, tất cả những vấn đề chúng tôi đã trình bày ở trên cũng chỉ nhằm đích vẫn là để khẳng định: dân ca quan họ là một thực thể văn hóa. Thực thể ấy luôn tồn tại trong một không gian không phải là đóng kín. Chính điều ấy đã tác động trực tiếp đến âm nhạc và âm nhạc sẽ phải đóng vai trò chủ chốt trong cái thực thể văn hóa kia, tạo ra tính khép mở trong dân ca quan họ. Tính khép - mở ấy được thể hiện cả về không gian và âm nhạc nhưng âm nhạc đóng vai trò chủ đạo.
Dân ca quan họ chỉ bó gọn trên dưới 50 làng nhưng cái tinh thần của nó lại có sức lan tỏa trong một không gian rộng lớn toàn quốc. Âm nhạc vừa giữ được cái tinh hoa của ngày xưa nhưng đồng thời nó lại thu lượm rồi quan họ hóa khá nhiều bài bản dân ca của các vùng miền khác. Đặc biệt là tính chất âm nhạc vừa mang tính dặt dìu nội tâm sâu sắc, lại vừa thoáng rộng lan tỏa trong không gian mênh mông của đất trời. Tất cả những điều nói trên có lẽ vẫn là do điều kiện tự nhiên, môi trường và con người vùng Kinh Bắc tạo nên trong quá trình lịch sử.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Văn Phú, Lưu Hữu Phước, Nguyễn Viêm, Tú Ngọc, Dân ca quan họ Bắc Ninh, Nxb Văn hóa - Viện Văn học, Hà Nội, 1962.
2. Nhiều tác giả, Một số vấn đề về dân ca quan họ, Ty Văn hóa Hà Bắc, 1972.
3. Đặng Văn Lung, Hồng Thao, Trần Linh Quý, Quan họ - Nguồn gốc và quá trình phát triển, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1978.
4. Trần Linh Quý, Hồng Thao, Tìm hiểu dân ca Quan họ Bắc Ninh, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 1997.
5. Nhiều tác giả, Thông tin văn hóa Bắc Ninh, Sở Văn hóa Thông tin Bắc Ninh, 2000.
6. Tư liệu điền dã của tác giả năm 1992, 1997, 2006.
7. Hồng Thao, 300 bài dân ca quan họ Bắc Ninh, Viện Âm nhạc, Hà Nội, 2002.
Nguồn: vanhoanghethuat.org