Từ bóng tối bước ra ánh sáng
Trước Cách mạng tháng Tám, các tín ngưỡng dân gian như thờ Mẫu, hầu đồng Đức Thánh Trần, thờ các vong linh…v…v… chỉ đại diện cho đời sống tinh thần của người dân. Lúc này, Phật giáo, Đạo giáo và Kito giáo đóng vai trò như những tôn giáo chính thống bao trùm xã hội. Phật giáo và Kito giáo có ảnh hưởng lớn hơn, còn Đạo giáo cũng đã mất đi vị thế, chỉ tồn tại trong sự pha tạp với các tín ngưỡng bản địa hoặc tín ngưỡng mới du nhập. Cùng lúc ấy, sự ra đời của Phật giáo Hòa Hảo, Cao Đài cũng đã làm thay đổi cục diện của trật tự tôn giáo phong kiến. Nhưng sau Cách mạng, do quan điểm bài tôn giáo, toàn bộ đời sống tín ngưỡng tâm linh bị ảnh hưởng, lui dần vào bóng tối. Do quyền lực lâu năm ngự trị trên đất Việt nên chỉ Phật giáo và Kito giáo mau chóng có vị trí chính trị và xã hội chính thống, còn các tôn giáo và tín ngưỡng có quy mô nhỏ hơn phải hoạt động trong bí mật. Chỉ đến sau năm 1990, những cộng đồng tín ngưỡng này mới dần dần công khai và lan tỏa.
Theo như cuốn sách “Cung văn và thần điện” của tác giả Lê Y Linh, trước năm 1990, ta có thể thấy những ban thờ Mẫu được dựng trong nhà riêng của những ông đồng bà đồng. Các đền thờ chỉ đóng vai trò như sự tưởng niệm chứ không phải là nơi diễn ra các nghi lễ đồng cốt. Nhưng từ sau năm 1990, khi tín ngưỡng thờ Mẫu được bước ra ánh sáng, không chỉ quy mô các điện thờ tại gia trở nên bề thế hơn mà các đền cũng thu hút lượng tín đồ khổng lồ chưa từng có.
Tình trạng tương tự với tín ngưỡng thờ Đức Thánh Trần. Tín ngưỡng Đức Thánh Trần trước đây có xu hướng hoạt động kín, thiên về các nghi lễ nhập đồng nhằm trừ tà, thế nhưng sau đổi mới, các đền thờ Đức Thánh Trần ở miền Bắc tổ chức các lễ hội rầm rộ và dần dần Đức Thánh Trần đóng vai trò như một vị thần phù hộ con đường thăng quan tiến chức. Trong rất nhiều chùa tại đồng bằng Bắc Bộ, Đức Thánh Trần trở thành vị thần bảo hộ cho những đứa trẻ thông qua hệ thống “bán khoán”, giúp trẻ em ngoan ngoãn hơn và không bị tà ma quấy rối.
Tín ngưỡng Đức Thánh Trần và đặc biệt là tín ngưỡng thờ Mẫu được các nhà nghiên cứu văn hóa đánh giá cao. Năm 2017, tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ Phủ được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể, đã đánh dấu một bước chuyển mới cho tín ngưỡng này. Bắt đầu từ đây, các học giả không còn nhìn hầu đồng đạo Mẫu như một “tín ngưỡng” nữa mà chuyển sang “đạo Mẫu” với vai trò của một tôn giáo. Đạo Mẫu trở thành một tôn giáo của người Việt, được liên tiếp bàn luận trong các cuộc hội thảo, được viết sách nghiên cứu và xuất bản chính thống. Tuy nhiên, do chưa có hệ thống hoạt động bài bản từ trên xuống dưới như trường hợp Phật giáo và Kito giáo nên đạo Mẫu gặp phải tình trạng lẫn lộn giữa lừa đảo, mê tín dị đoan và đời sống tâm linh.
Cùng lúc ấy, nhờ Internet, ảnh hưởng của Phật giáo Hòa Hảo và Cao Đài trên truyền thông mạng xã hội ngày càng lớn. Những bài thuyết pháp, bài đăng trên website được chia sẻ với lượng xem khổng lồ. Ví dụ như bài thuyết pháp của bé Như Ý, Phật giáo Hòa Hảo trên Youtube có thể lên tới hơn một trăm ngàn lượt xem. Tương tự như vậy với các video giảng pháp của đạo Cao Đài trên Youtube cũng dao động từ hơn bốn mươi ngàn đến một trăm ngàn lượt xem. Chính nhờ phương tiện truyền thông kiểu mới của thời đại Internet mà hai tôn giáo này đạt được lượng tiếp cận nhiều hơn trong quá khứ của họ rất nhiều.
Thời kỳ “trăm hoa đua nở”
Bắt đầu từ thời kỳ đổi mới, đặc biệt là sau khi Việt Nam gia nhập WTO, một cuộc “đổ bộ” ào ạt của các tôn giáo và tín ngưỡng tâm linh mới diễn ra một sách sôi động. Bắt đầu từ kinh sách được dịch ra tiếng Việt từ người Việt hải ngoại rồi đến cộng đồng giảng pháp trong nước và nhanh chóng lan nhanh.
Đáng chú ý phải kể đến sự trở lại của Phật giáo Mật tông, Thông Thiên học và sự truyền pháp của Pháp Luân Công. Phật giáo Mật Tông có địa vị cao ở thời nhà Lý nhưng sau đó không còn nhiều dấu vết trong suốt chiều dài lịch sử. Thế nhưng, khi Mật Tông Tây Tạng được truyền sang các nước Âu Mỹ và ảnh hưởng đến phong trào New Age thì Mật Tông dần dần quay trở lại Việt Nam với một diện mạo mới. Những cộng đồng theo các phái Mật Tông tổ chức giảng pháp, in ấn kinh sách và quyên góp xây dựng các chùa Mật Tông mới đã bổ sung cho Phật giáo một diện mạo mới. Tương tự như vậy với Thông Thiên học. Thông Thiên học đã có mặt ở Việt Nam từ đầu thế kỷ 20 và sau đó hoạt động truyền pháp bị gián đoạn. Nhờ Internet, các tài liệu của Thông Thiên học được nhiều người quan tâm đến tôn giáo tâm linh biết tới. Tuy nhiên, do giáo lý của Thông Thiên học có nhiều yếu tố huyền bí phương Tây, không dễ tiếp cận với người Việt, nên lượng quan tâm không cao như Cao Đài và Phật giáo Hòa Hảo. Pháp Luân Công xuất hiện muộn (năm 1992 tại Trung Quốc), và phải sau đó 7 đến 8 năm mới có mặt tại Việt Nam. Nhưng do chính sách truyền thông tốt cùng với các phương pháp tập khí để chữa bệnh thực dụng nên Pháp Luân Công có sức lan truyền mạnh, dù chính quyền Việt Nam chưa đưa ra thẩm định chắc chắn về tính chất của Pháp Luân Công. Tuy nhiên, do Pháp Luân Công thường xuyên có các hoạt động chống đối chủ trương của Đảng Cộng Sản ở cả Trung Quốc và Việt Nam nên Pháp Luân Công vẫn là một tổ chức ngoài vòng pháp luật. Điểm chung của ba tôn giáo này trong quá trình truyền đạo đó là du nhập hoàn toàn bằng con đường dân sự và hình thành các nhóm hoạt động tách biệt nhau, không có hệ thống vững chắc như Phật giáo Hòa Hảo hay Cao Đài. Đây cũng là mô hình cộng đồng tôn giáo thịnh hành từ phong trào New Age khi giáo chủ không đóng vai trò tối cao trong tôn giáo mà chỉ đóng vai trò như người sáng lập, thủ lĩnh tinh thần, còn các cộng đồng thì tự phát phát triển với nội quy riêng, tài chính riêng. Tương tự cách hoạt động như trên còn có Hội thánh Đức chúa trời mẹ, Nhân chứng Jehova, Brahma Kumaris…v…v… Riêng tổ chức Brahma Kumaris đi vào Việt Nam dưới hình thức tổ chức dậy kỹ năng sống, qua hai tổ chức giáo dục trực thuộc UNESCO là UCIE và Innnerspace. Tóm lại, những cộng đồng tín ngưỡng kiểu này có tổ chức lỏng lẻo mà chỉ thống nhất về mặt giáo lý và pháp tu, thậm chí họ còn không thừa nhận tính chất tôn giáo của mình mà chỉ muốn được coi như cộng đồng tâm linh dẫn dắt tín đồ tới sự khai sáng về trí tuệ.
Một hình thức tín ngưỡng mới du nhập vào Việt Nam nhưng không hình thành các tổ chức mà chỉ là những cộng đồng có chung sự quan tâm hoặc yêu thích với một mảng thuộc đời sống tâm linh. Các cộng đồng này có hình thức hoạt động như các tổ chức dân sự, ví dụ như Câu lạc bộ sống Thiền, cộng đồng Tarot Huyền Bí, Diễn đàn Lý số Việt Nam…v…v… Mặc dù không phải là tôn giáo hay tổ chức tâm linh, nhưng các nhóm này có ảnh hưởng trong việc tạo ra các xu hướng tâm linh. Họ không rao giảng các giáo lý tôn giáo nhưng vũ trụ quan và nhân sinh quan trong lĩnh vực tâm linh mà họ quan tâm lại là một phần của các tôn giáo, hay thậm chí bao trùm cả một giáo phái nào đó. Những nhóm này ngoài việc giới thiệu, tuyên truyền các lý thuyết tâm linh của họ, còn tổ chức kinh doanh bán sản phẩm liên quan hoặc các khóa học tâm linh. Các thiên hướng tâm linh như vậy đến nay vẫn chưa có nghiên cứu và khảo sát đầy đủ và chưa có một khung pháp lý thích hợp để quản lý, do vậy, nhiều nhóm tâm linh mang tính lừa đảo truyền đạt kiến thức sai lệch mang nhiều màu sắc dị đoan để thu tiền từ người dân cuồng tín cũng đang phát triển một cách tự do và khó lường.
Tóm lại, đời sống tôn giáo và tâm linh tại Việt Nam đang mở rộng về số lượng một cách chóng mặt, nhưng các nhà nghiên cứu xã hội học và văn hóa học cũng như các nhà quản lý tôn giáo đang không thể theo kịp. Những hình thức của đời sống tín ngưỡng, tôn giáo cũng đã thay đổi rất nhiều so với mô hình tôn giáo kiểu cũ. Sự phát triển này là tất yếu trong bối cảnh hội nhập văn hóa, kinh tế, chính trị, và để bắt kịp với sự phát triển, các nhà nghiên cứu và quản lý tôn giáo, tín ngưỡng cần có một cái nhìn mới mang tính toàn cầu hơn, khảo sát đầy đủ hơn để tiếp cận và tiếp nhận.