1. Nguồn gốc tín ngưỡng thờ Mẫu và chư vị
Trước hết là ảnh hưởng của Đạo giáo phù thủy từ Trung Quốc truyền sang, du nhập vào Việt Nam, phát triển trong thời kỳ Bắc thuộc và thịnh đạt trong thời kỳ phong kiến độc lập.
Từ thần điện của Đạo giáo, tín ngưỡng thờ Mẫu và chư vị Việt Nam chỉ tiếp thu thần vị: Quan Thánh đế quân và Tam giới Thánh mẫu.
Nhưngảnhhưởngchínhlàtừphươngthuậtcầucúng,hànhlễcủađạosĩ,pháp sư như lên đồng, dùng bùa chú yểm tà ma, trị bệnh bằng phương thuật phùthủy...
Yếu tố nguồn gốc thứ hai là quá trình tiếp thu tín ngưỡng thần Mẹ Xứ SởPo Yan Inư Nagar của cư dân Chàm, diễn ra từ thuở đầu của dân Việt vào định cư ở châu Hóa, cho đến các đời vua Nguyễn việc chuyển hóa thần nữ Chăm thànhthần nữ Việt càngcao.
Thuở ban đầu, cư dân Việt chỉ kế tục việc thờ cúng nữ thần một cách đơn giản.Hằngnăm,đầuxuândângcúng,mởhộiđuatrảiđểcầumưa,tạiđoạnsôngÔ Lâu thuộc địa phận làng Trạch Phổ (xã Phong Bình) trước đền. Nhưng trong sinh hoạt cúng tế, cũng đã hình thành nghi thức chầuvăn.(1)
DầndầncácchúaNguyễnđãphongtặngsắcthần,chínhthứchóaviệcphụng thờ nữ thần. Đến đời Gia Long, việc ban sắc cho các làng thờ cúng diễn ra phổ biến. Sự tích nữ thần bắt đầu được nho sĩ đương thời biết rõ qua bài văn “Cổ tháp linh tích” của một vị quan viết năm 1801.
NămMinhMạngthứ13(1832),vualạichotrùngtungôiđềntạilàngHảiCát (xã Hương Thọ), có chính điện thờ Tiên chúa, có miếu thờ Thủythần.
Các am bà trong dân gian cũng được tái thiết với cơ ngơi hoàn chỉnh sau chiếntranhTâySơn-Nguyễn.ChùachiềncũngthiếtánthờMẫu,kèmvớiviệcthờ Quan Thánh. Các ông hoàng, bà chúa, quan lại, mệnh phụ lui tới lễ bái ngày càng đôngđúc,chotớitriềuĐồngKhánh,sựtintưởngcủavuavàoThánhMẫulạicàng mãnhliệt.Trongdòngvănđềbứcchândungcủamình,ôngviết:“Tavốnlàngười cõiTiên,làconthứcủaLongcung,ngàyThượngnguyênđãkínhvângmệnh,thân ngồixengọc,đầuđộimũvàng,đầuthaivàoBùiquýphicủaKiênTháiVươngđể sinh rađời”.
(Dưnãithanhdươngchinhân,Longcungthứtử,Thượngnguyênthờiphụng mệnh,thânthùyngọclộ,thủchínhkimquan,đầuvuKiênTháiVươngBùiquýphi sinhhạ).(2)
Vừa lên ngôi, vua đã cho tôn tạo, đổi tên đền Ngọc Trản làm điện Huệ Nam. ĐạiNamthựclụcđãghi:“Vuakhicònẩnnáu,thườngchơixemnúiấy,mỗikhiđến cầu khẩn phần nhiều có ứng nghiệm. Đến nay vua phê bảo rằng: Đền Ngọc Trản thật là núi Tiên nữ linh sơn sáng đẹp muôn đời, trông rõ là hình thế như con sư tử uốngnướcsông,quảlànơichâncảnhthầntiên.Đềnấythờđượclinhkhíđắcnhất, cứungườiđộđời,giángchophúclộchằngmuôn,giúpdângiữnước.Vậychođổi đềnấylàmđiệnHuệNam,đểbiểuhiệnơnnướcmộtphầntrongmuônphần”.(3)
Vua nóirõnhư vậy,quanlại,quýtộcthahồxâyam,lậpđiệnriêngtạiphủđệ mìnhđểthờcúngThánhMẫu.Dângiannghèokhổ,ốmđau,bệnhtật,chếtchóclại càng tin theo cầu cúng.
Ngoài ra, còn có ảnh hưởng tín ngưỡng thờ cúng Đức Thánh Trần và Liễu Hạnh công chúa từ miền Bắc du nhập vào theo bước chân của quan viên về triều nhận chức.
Tấtcảnhữnghạtgiốngđó,đượcgieotrênmộtmảnhđấtmàumỡlàtìnhtrạng khốnkhổcủanhândâncảnướcnóichung,xứHuếnóiriêngvàothếkỷXIX.Dịch bệnh lan tràn, giết hàng vạn người. Mồ vô chủ nhan nhản khắp nơi. Còn có tình trạng hữu sinh vô dưỡng, nhà nào cũng không thiếu trẻ con chết non, và thai nhi sa sẩy, dân gian tin rằng rất linh hiển, nam thì gọi là ông Trạng, ông Quận, nữ thì gọilàCô,đượcThánhThầnTiênPhậtcholàmthịtùngbộhạ,theohầunơithượng giới,thỉnhthoảngđêmrằm,mồngmộtmớitrởvềthămviếngchamẹ,nênphảilàm những am, miếu nhỏ thờ trước sân nhà, cứ rằm, mồng một hương khói phụngthờ.
Nửa sau thế kỷ XIX, tình hình đất nước đen tối, Nam Bộ bị rơi vào tay thực dân Pháp, Hà Nội và mấy tỉnh miền Bắc cũng hai lượt bị tấn công, chiếm đóng. MộtloạttỉnhtrungdutiếpgiápvùngbiêngiớiTrungHoalạibịdưđảngTháiBình Thiên Quốc từ Trung Hoa tràn sang nhiễu loạn. Ngay tại kinh kỳ, cửa ngõ Thuận AnbịPhápđánh,rồikinhđôlạibịgiặcphảncôngchiếmlấy.NgaivàngNamtriều từ đời Đồng Khánh trở đi chỉ là hư vị. Quyền lực hoàn toàn nằm trong tay Khâm sứ và Toàn quyền. Thời thế bế tắc ấy đã làm cho từ vua đến quan lại, dân gian chỉ còn niềm tin vào Thánh Thần Tiên Phật, may ra cứu đỡ gì chăng.
Tháng 3 năm Bính Tuất (1886), vua Đồng Khánh đã phán: “Nhà nước đương lúcvậnhộikhókhăntấtphảiâmdươnggiúpđỡmớicóthểđượcviệcnhanhchóng, nhưngđiệnấy(tứcđiệnHuệNam),từtrướcchiếulệ,thăngtrật,cũnggiốngnhưbách thần, cho nên giữ nước giúp dân chưa được hiển ứng. Về ba vị thờ ở trên và sáu vị ởdướivềbênhữu,trẫmmuốntônphonghuyhiệuđểmongsựlinhdiệusaunày.”(4)
Kết quả, nhà vua đã gia phong thần hiệu cho chư thần thờ tại điện Huệ Nam như sau:
- Ba vị ở trên:
1. Hoằng Huệ Phổ Tế Linh Bảo Diệu Thông Mặc Tướng Trang Huy Ngọc TrảnThiênYANaDiễnNgọcPhiDựcBảoTrungHưngthượngđẳngthần.
2. Trứ Linh Chương Ứng Mục Uyên Hoằng Bác Uông Nhuận Thủy Long Thánh Phi Dực Bảo Trung Hưng trung đẳngthần.
3. Diệu Phu Quảng Độ Linh Chương Ý Nhã Anh Bình Sơn Trung Tiên Phi Dực Bảo Trung Hưng trung đẳngthần.
- Sáu vị ởdưới:
1. TiênCungThôngMinhThượngTướngQuânDựcBảoTrungHưngtônthần.
2. Tiên Cung Linh Minh Đại Tướng Quân Dực Bảo Trung Hưng tônthần.
3. Thủy Tinh Lực Dũng Tướng Quân Dực Bảo Trung Hưng tônthần.
4. Thủy Tinh Uy Dũng Tướng Quân Dực Bảo Trung Hưng tônthần.
5. Sơn Tinh Quả Dũng Tướng Quân Dực Bảo Trung Hưng tônthần.
6. Sơn Tinh Vũ Dũng Tướng Quân Dực Bảo Trung Hưng tônthần.
Ngay trước bàn thờ sáu vị tôn thần này, vua Đồng Khánh đã cho làm biển, đíchthânvuangựbútđề:“ÂmDươnghuynhđệthấtthánhnghĩahội”,ýxemmình là huynh đệ, xếp hàng thứ 7.
Năm 1888, mẹ ruột vua là Kiên Thái vương phi Bùi thị, em vua là Kiên huyệncôngƯngĐậuvàemgáilàNhưCưđãcùngđồngmônchútạomộtđạihồng chung dâng cúng lên Thánh Mẫu. Lời minh chuông ghi nhưsau:
“Thượng Thánh Mẫu Cung Ngọc Trản Sơn Huệ Nam Điện tam tòa tứ phủ chứng minh.
“Sơ nguyện: Đế vị diên niên vĩnh truyền bách thế, nội an, ngoại trị, quốc sự tảo thành.
“Tái nguyện: Âm phò Thiên Thành cuộc vĩnh bảo chung linh”.
Cơ ngơi điện Huệ Nam tại núi Ngọc Trản (dân gian quen gọi là điện Hòn Chén) vào đời vua Đồng Khánh đã bao gồm quy mô hoàn chỉnh:
Giữa là tòa thánh điện nóc cổ lầu, thờ hai tầng: Tầng trên thờ các thần hiệu nêu trên, với đủ nghi trượng cờ quạt, tàng lọng. Tầng dưới, ở giữa thiết án hội đồng,đằngsaulàcửutrùngđàicaochínbậc,haibênlàkiệu,ngai,võngsongloan. Hai gian tả hữu tùng tự thiết tượng thờ các vị triều quận, triềucô.
Bên tả chánh điện là miếu thờ Ngũ hành Tiên nương. Bên hữu là nhà trai để chuẩnbịcỗcúng.Trướcsâncóhaingôiđìnhbátgiácvàmộtamởchínhgiữa,đều thiết trí án thờ.
Ở sườn núi phía nam, tức phía hữu của điện còn xây cất hai ngôi miếu lớn. Một thờ Quan Thánh đế quân và bộ hạ, một thờ bài vị nhân thần họ Lê vớt được ven bờ.
Dưới chân núi, sát bờ nước là miếu thờ Thủy Long tôn thần.
Đây là ngôi điện chính của tín ngưỡng thờ Mẫu và chư vị không những của Huế mà còn là của khu vực miền Trung. Từ khi triều Nguyễn chấm dứt, việc thờ cúngởđâydobàTừCung,vợvuaKhảiĐịnhchủtrì,vớichứcvụHộichủdanhdự Hội Quý tế điện Huệ Nam. Thời gian này, Hội Quý tế đã tôn trí thêm thần vị của baThánhMẫuVânHươngđệnhất,đệnhịvàđệtam,tứclàLiễuHạnhcôngchúa, QuếHoacôngchúavàThụyHoacôngchúavàothầnđiện.ThếlàThánhMẫumiền Trung đã hòa hợp với Thánh Mẫu miềnBắc.
Việc du nhập tín ngưỡng thờ Đức Thánh Trần và tín ngưỡng thờ Thánh Mẫu VânHươngkhôngdiễnrasớm,tuynhữngtínngưỡngthờThánhMẫunàyđãphát triển ở miền Bắc từ thời HậuLê.
Riêng điện thờ Thánh Mẫu Vân Hương lớn nhất ở Huế là Phổ Hóa Cung do một vị quan triều Khải Định và Bảo Đại, quê ở Hà Tĩnh, từng phụng thờ Thánh Mẫu ở quê nhà, vào Huế nhậm chức đã phát tâm thiết lập nơi phụng thờ Thánh Mẫu từ năm 1925 ở gần bên trái chùa Báo Quốc. Năm 1939, dời về địa điểm hiện nay tại Phường Đúc (số nhà 185 đường Bùi Thị Xuân, Huế). Tiền đường thiết ba án thờ ba bà chúa, trước là án thờ Phật Di Lặc. Án tả tòng tự, thờ Ngũ hổ mãnh tướng, hai án hữu tòng tự thờ Táo Quân và Vân, Lôi nhị vị. Hậu điện chia làm thượngđườngvàhạđường.Thượngđườngtôntríchândungbabàchúa,hạđường thờ bửu kiếm.
Xung quanh Huế còn có nhiều điện thờ Thánh Mẫu Vân Hương, đáng kể là PhổTếCungởLịchĐợi,VânPhụngĐiệnởấpNgũTây,DiệuVânĐiệnởTruồi...
2. Việc hành lễ của “con nhang đệ tử”
Trước khi thành lập Tổng hội Thiên Tiên Thánh giáo vào năm 1965 ở Huế vàgầnđây,mỗiammiếuthuộctínngưỡngthờMẫuvàchưvịnàytựtúcsinhhoạttrong một đơn vị “phổ” với nhau, bao gồm “con nhang đệ tử” của từng phổ một, tập hợp chung quanh một vị chủ (thủ) am. Người chủ am, có thể là nam hay nữ, giữtráchnhiệmphụngthờam,miếuhayđiệnmẫucủamình.Hằngtháng,cứngày 14, rằm, ba mươi, mồng một, tín đồ đệ tử tùy tâm lui tới lễ bái.
Mỗiphổcótừvàimươiđếncảtrămconnhangđệtử,hầuhếtlànhữngngười có “chân lính”, tức là những người bị ốm đau không rõ căn bệnh, cầu cúng ở am miếumớilành,đượcxemnhưlàhợpcăn,hợpmạng.Mẫuvàchưvịbắtlàm“lính”, hầu đồng ở am, miếu. Có thể hằng tháng trong năm, họ không nhất thiết phải tới am chính, nếu không đau ốm, rủi ro gì. Nhưng vào dịp hai lễ “Khai bàn”, khoảng trung tuần tháng Hai âm lịch, và lễ “Tạ bàn” cuối năm khoảng vào hạ tuần tháng Chạp,tấtcảconnhangđệtửđềuphảiđếnamhànhlễ,dângcúng,lênđồngđủchín giá chủ yếu.
Đólàcácgiáđồng“NgũvịThánhBà”và“LụcvịTônÔng”.TrừhaigiáTôn Ông đệ nhất và đệ lục khỏi phải hầu lên, vì tương truyền hai vị này đã đi tu, gọilà giá bỗng, đệ tử còn hầu chín giá chính.
Ngoài ra, còn phải hầu một vài giá khác, phù hợp với căn mạng của mình trong 12 giá phụ sau đây:
- Giá cậu đệ nhị ngoạicàn.
- Giá cậu đệ tam ngoạicàn.
- Giá cậu đệ nhị khuônviên.
- Giá cậu đệ tam khuônviên.
- Giá cô Năm ngoại càn, cô Ba ngoại cảnh, cô Ba thủy phủ, cô Ba chín suối, cô Cả ĐèoNgang.
- Giá cô Chín thượng ngàn, ông Chín thượng ngàn, ông Bảy thượngngàn.
Các cô và các cậu này là hồn thiêng của các đồng nam, đồng nữ (chưa lập gia đình, còn đồng trinh), chết oan khuất đã hiển linh, được theo hầu Tứ phủcông đồng, đã được thờ phụng phổ biến và mặc nhiên thừa nhận trong tín ngưỡng thờ cúng của các am, miếu, điện Mẫu ởHuế.
Lên đồng là sự hóa thân vào một vai thần, thánh, hay ma quỷ linh thiêng tronghànhlễ,tứclàthần,thánh,maquỷđãốpđồngvàongườingồiđồng,làmcho người đó phục trang như quỷ thần, mọi cử chỉ, hành vi, vũ đạo, ngôn ngữ y như quỷ thần, được người trần lễ bái, dâng rượu, dâng trầu.... Ngược lại vai đồng sẽ hoan hỷ ban phát lộc cho người trần, phán bảo chỉ dạy cho đệ tử.
Trong nghi lễ lên đồng, trước hết phải có lễ cúng với đầy đủ vật phẩm, văn sớtuyênđọc,cócungvănháthầuvănvàđệmđàn,sênh,phách....Lờiháthầuvăn, tiếngnhạcphụthuộctheovũđạovàcửchỉ,độngtháicủavaiđồngđanglên.Vaiđồng múa quạt thì cung văn hát bài múa quạt, vai đồng múa kiếm thì cung văn chuyểnquabàimúakiếm,vaiđồngphingựathìcungvănhátbàitẩumã,vaiđồng nhận rượu cúng thì cung văn hát bài dâng rượu...
Các “con nhang đệ tử” quan niệm rằng nếu mỗi năm vào ngày “Khai bàn” hay“Tạbàn”màkhôngđếnam,điệnhànhlễvàlêngiáđồngthìsẽđauốm,rủiro.
Ngoài hai dịp đó, quanh năm họ cũng làm ăn mưu sinh như mọi người. Có khác chăng là họ phải kiêng cữ một số thịt cá đặc biệt, như thịt chó, thịt trâu, cá gáy, cá lóc.... Một số người có điều kiện có thể thiết lập một am cô, hay am cậu ngoài sân nhà mình để phụng thờ hương khói mỗi khi sóc vọng.
Thỉnhthoảng,nếutronggiađìnhcórủirogì,họcóthểtớiam,điệnchínhcủa phổ để cầu cúng, và có thể lên các giá đồng bà cô, ông quận thân ruột của mình, hoặc các giá đồng hợp căn, hợp mạng để xin phán bảo.
Mỗinăm,cóhailễvíaquantrọngtổchứctạiđiệnHònChén:lễvíahúynhật đứcVânHươngThánhMẫu(dângiangọilàvíaMẹ)vàongày3thángBa,vàngày lễthutếđiệnHuệNamvàohaingàytốttrongthượngtuầnthángBảyâmlịch,con nhang đệ tử còn có bổn phận đến nơi chiêm bái. Thỏa mãn những nghĩa vụ tế lễ đó, họ tự cho là thanh thản trong lòng, để lo làm ăn mưusinh.
Ngườichủamcũngthế,ngoàinhữngngàysócvọng,ngàyvíalớn,tổchứcdâng lễ, lên đồng, và hai ngày Khai bàn, Tạ bàn bận rộn cầu cúng, thường nhật họ vẫn lo làmănmưusinh,vàđểcóđiềukiệnvậtchấtlophụngthờ,hươngkhóicúngkiến.
3. Những nét đặc sắc của tín ngưỡng thờ Mẫu và chư vị ở Huế
Tín ngưỡng thờ Mẫu và chư vị này đến năm 1965 được quy tụ thống nhất trong một Tổng hội Thiên Tiên Thánh giáo Trung Nguyên Trung Phần, đặt trụ sở tại 252 đường Chi Lăng, Huế. Trụ sở này được xem như một nơi thờ vọng Thánh Mẫu và chư vị, và nơi làm việc của Ban trị sự Tổng hội. Cách đặt tên Thiên Tiên Thánhgiáođượcgiảithíchlà:ThiênlàhuyệnThiênBản,TiênlàlàngTiênHương, tức là thôn Vân Cát, làng An Thái huyện Thiên Bản (nay là Vụ Bản) tỉnh Nam Định, là nơi giáng trần lần thứ hai của Liễu Hạnh công chúa. Hai chữ Thánh giáo thểhiệnmộtnguyệnvọngcủaTổnghộixinthừanhậntínngưỡngnàynhưmộttôn giáo thiêng liêng.
Trong giới nghiên cứu, tín ngưỡng này còn gọi là tín ngưỡng Tứ phủ, vì tín ngưỡng này quan niệm có thánh thần ở bốn cõi: Thượng thiên, Trung thiên, Thượng ngàn, Thủy phủ, tức gồm hai cõi trời, cõi núi rừng và cõi sôngbiển.
Tiên,thánh,thầnbốncõiđóđềuliênkếtnhauchiphốicõingười.Mỗicõiđều có quyền lực như một triều đình: có đế vương, có thánh mẫu, có chư tiên, có các hoàng tử, công chúa, có khâm sai, giám sát, các vị quận chầu, cô chầu (triều quận, triềucô),cóquanvănvõ,nhưngũlôi,linhquan,ngũhổđạitướng,vàâmbinhbộhạ.
Danh hiệu Tứ phủ công đồng này chưa được minh giải đầy đủ. Nó không rõ ràng như danh hiệu Tam phủ công đồng ở tín ngưỡng thờ Mẫu của dân gian miền Bắc: Thiên phủ, Địa phủ và Thủy phủ, tức cõi trời, cõi đất và cõi sông biển.
Ở Huế, tín ngưỡng thờ Mẫu đã phân lập khái niệm Thiên phủ ra hai cõi: Thượng thiên và Trung thiên. Khái niệm Địa phủ lại được chuyển hóa thành khái niệm Thượng ngàn. Trung thiên được hiểu là cõi trời trung gian giữa cõi trời Thượng thiên và thế gian.
XéttheovănsớcầucúngcủatínngưỡngTứphủcôngđồngởHuếthìmỗicõi đều có một Thánh Mẫu caiquản:
- Thượngthiên cóThiênYANaDiễnNgọcPhiThánh Mẫu.
- Thượng ngàn có Quản Cai Sơn Nhạc Cửu Châu Lê Mại ĐạiVương.
- Trung thiên có Tây Cung Vương Mẫu bổn mạng chúatiên.
- Thủy phủ có Thủy Phủ Long Cung ThánhMẫu.
Mỗicõilạitổchứcnhưmộttriềuđìnhphongkiến.Vẫntheovănsớcầucúng, hệ thống thần điện mỗi cõi được phân lập nhưsau:
1. Thượng thiên:
- Thiên Y ThánhMẫu.
- Liễu Hạnh ThánhMẫu.
- Bạch Hoa côngchúa.
- Nhị vị Trạng nguyên tônông.
- Ngũ vị hoàngtử.
- Ngũ vị Khâm sai, hành sai tiêncô...
2. Trung thiên:
- Tây Cung Vương Mẫu bổn mạng chúatiên.
- Ngũ vị thánhbà.
- Hỏa phong thánhbà.
- Chư vị đức bà.
- Thiên tào bổn mạng…
3. Thượng ngàn:
- Thượng ngàn Thánh Mẫu Lê Mại ĐạiVương.
- Thượng ngàn chư vị công tử.
- Thập nhị thiên tướng.
- Ngũ hổ mãnhtướng.
- Ông Chín thượngngàn.
- Cô Chín thượng ngàn.
- Ông Bảy thượngngàn.
- Ngoại cảnh càn khôn, Ngũ hành, Lục động, Bạch thố, Kim tinh, Mộc tinh thánh nữ...
4. Thủy phủ:
- Thủy phủ chúa Động Đình Bắc Hải ĐếQuân.
- Thủy phủ Long Cung ThánhMẫu.
- Đệ nhất cung Xích Lân tiênnữ.
- Đệ nhị cung Thủy Tinh thánhnữ.
- Đệ tam cung Xích Lân tiên nữ, Bạch Ngọc hồ trung Thủy Tinh công chúa (cô Ba Thủyphủ).
- Đệ tứ đức triều Khâm sai thánhnữ.
- Thủy giới Long Cung chư vị thánh bà.
- Thập vị thủy tể tôn ông (cũng gọi 10 ông hoàng).
- Thủy phủ ngũ vị Xích Lân hoàngtử.
- Tam vị Phụ quốc Trạng nguyên tônông.
- Ngũ phương duyên lộ Hà Bá thủyquan.
- Tào liêu, phán thuộc, sĩ tốt, lạibinh...
VàcõinàocũngcóThậpnhịtriềuquận,Thậpnhịtriềucô(consố12nàychỉ là một con số nhiều, chứ không có nghĩa cụ thể là 12), cùng các quan văn võ thần liêu, bao gồm khâm sai, giám sát, và bộ hạ theohầu.
Trong số bốn cõi này, có hai cõi chi phối trực tiếp vận mạng con người: cõi Trung thiên nắm giữ bổn mạng, quy định thọ, yểu, cõi thủy phủ lại chi phối “căn” của con người, đặc biệt là nữ giới (mệnh tại thiên tào, căn vu thủy giới).
Do đó, Thánh Mẫu của hai cõi này, thường được dân gian thờ cúng trực tiếp tại nhà mình: Tây Cung Vương Mẫu, thờ thường xuyên tại trang bà, Thủy phủ Long Cung Thánh Mẫu (cùng các thủy thần khác) được dâng cúng trong lễ thành định kỳ 3 năm, 5 năm của phụ nữ.
Theo truyền thuyết Chăm và Việt, Thiên Y A Na Thánh Mẫu và Liễu Hạnh Thánh Mẫu vốn từ Thượng thiên đã thác sinh vào cõi trần gian.
Thiên Y A Na Thánh Mẫu thác sinh làm cô gái da ngâm đen ở vùng ĐạiAn, KhánhHòasau này,vàothờithượngcổChăm,làmconnuôiôngbàlãotrồngdưa, hóa thân sang biển Bắc làm vợ một hoàng tử Trung Hoa, rồi hóa thân trở lại quê nhà, hiển thánh giúp dân xong trở về thượng giới.
Liễu Hạnh Thánh Mẫu, theo thần tích thì xuống trần bốn lượt vào thời trung đại ở Việt Nam.
- Lần thứ nhất đầu thai vào nhà họ Phạm, sinh năm 1434, ở làng Trần Xá, huyệnĐạiAn,phủNghĩaHưng,trấnSơnNam,khônglấychồng,mấtkhi40tuổi.
- Lần thứ hai, năm 1557, đầu thai vào nhà họ Lê ở làng Vân Cát, huyện Vụ Bản, phủ Nghĩa Hưng, trấn Sơn Nam, được đặt tên là Giáng Tiên, 18 tuổi gả làm vợTrầnĐàolang,sinhđược1trai1gái.Năm21tuổikhôngbệnhmàmấtvàongày mồng 3 tháng Ba âm lịch (1577).
- Lầnthứba,cáchbanămsauứnghiệnxuốngtrầnthămlạichồngcon,vàđi vân du khắp nơi. 30 năm sau (1609) trở về làng Sóc Sơn ở Nghệ An, gặp lại hậu thân của Trần Đào lang là Mai Sinh, nối lại duyên xưa, sinh được 1 trai rồi trở về trời năm1610.
- Lần thứ tư, sau thời gian công cán ở cung trời tương ứng 5 năm trần thế, năm 1615 lại xuống trần, đem theo hai công nương là Quế Hoa và Thụy Hoa,ứng hiện xuống vùng Phố Cát, huyện Thạch Thành, Thanh Hóa, hiển linh tác oai tác phúc.TriềuđìnhLêTrịnhđemquânVũlâmtiễutrừ,nhưnggặptaihọa.Triềuđình phảitáilậpđềnthờ,bansắcphonggiatặnglà“ChếThắngHòaDiệuĐạiVương”.
NếuviệcthờtamphủđượcP.Girancholà“mộtsảnphẩmđặcsắcViệtNam” trongMagieetreligionAnnamite(5))thìviệcthờTứphủởHuếlạilàmộtsảnphẩm tinh thần đặc sắc của tín ngưỡng dân gianHuế.
CHÚ THÍCH
- Dương Văn An. Ô Châu cận lục, Bùi Lương dịch. Nxb Văn hóa Á Châu, Sài Gòn, 1961, tr.43: “Việc cúng bái thì dùng xôi gà, mở cuộc chầuvăn”.
- Ảnh này thờ tại điện Ngưng Hy, lăng ĐồngKhánh.
- Quốc Sử Quán triều Nguyễn thực lục, bản dịch Viện sử học, tập 9. Nxb Giáo dục, Hà Nội,
- Đại Nam thực lục, tập 9, sđd, 249.
- Dẫn lại theo Trần Văn Giàu, Hệ ý thức phong kiến và sự thất bại của nó trước các nhiệm vụ lịch sử. Nxb KHXH, Hà Nội, 1973, 466.
Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 1 (135) . 2017