1. Khái niệm văn hoá
1.1. Văn hoá hiểu theo nghĩa hẹp
Theo nghĩa hẹp văn hoá được hiểu dưới hai dạng khác nhau tuỳ thuộc vào hoàn cảnh giao tiếp cụ thể.
a. Văn hoá được dùng với nghĩa là trình độ học vấn của một cá nhân nào đó. Chẳng hạn, trong kê khai lý lịch, ta thường gặp câu hỏi:
Trình độ văn hoá (hoặc: văn hoá)?
Với cách hiểu này thì văn hoá được hiểu là mức độ học vấn từ chưa biết chữ cho tới học vị tiến sĩ.
Đây là cách hiểu phổ biến không chỉ trên giấy tờ mà ngay cả trong giao tiếp hàng ngày.
Ví dụ: Làng Thanh Dương có nhiều người văn hoá cao lắm.
b. Văn hoá được dùng với nghĩa là hàm chỉ một thái độ ứng xử trong quan hệ giao tiếp với nhau. Theo nghĩa này, văn hoá được đặt trong mối quan hệ tương tác mang tính xã hội giữa các thành viên của cộng đồng dựa trên những tập quán, thói quen đã được xác lập qua nhiều đời và được củng cố thành ý thức xã hội tồn tại trong chiều sâu tư duy của dân tộc. Ở khía cạnh này, văn hoá có mối quan hệ khăng khít với tư duy và mang bản sắc dân tộc rất rõ. Không những thế, văn hoá còn là sự biểu hiện tính đa dạng của bản sắc địa phương mà ta thường gọi là những đặc trưng của văn hoá miền vùng.
Ví dụ, một người nào đó hắt chén nước cặn ngang qua mặt khách lập tức sẽ bị người bên cạnh phản ứng bằng câu bình luận: "Sao mà vô văn hoá thế!". Một người đi xe máy lao vào người đi bộ. Anh ta chẳng những không xin lỗi mà còn văng tục với người kia. Hành động đó sẽ lập tức sẽ bị những người xung quanh phản ứng: "Đúng là đồ vô văn hoá".
Có thể dẫn ra vô số các ví dụ tương tự như vậy. Điều đó chứng tỏ rằng, văn hoá ở khía cạnh này được hiểu là hành vi ứng xử trong quan hệ giữa con người với con người qua quá trình tiếp xúc hàng ngày hoặc trong giao tiếp ngôn ngữ được thể hiện bằng những câu nói mang tính chuẩn mực đảm bảo tính lịch sự cho một quá trình nói năng.
c. Văn hoá được dùng với nghĩa là có truyền thống về lịch sử và văn minh. Với nghĩa này, từ "văn hoá" thường đi sau một số danh từ chỉ đơn vị hành chính với chức năng làm định ngữ mở rộng giải thích cho danh từ đứng trước.
Ví dụ: Làng văn hoá, khu phố văn hoá, thủ đô văn hoá…
d. Văn hoá được dùng với nghĩa là đặc điểm sử dụng ngôn ngữ mang tính thẩm mỹ, lịch thiệp.
Ví dụ: - Văn hoá ngôn ngữ
- Văn hoá ngôn từ.
- Văn hoá lời nói.
1.2. Văn hoá hiểu theo nghĩa rộng
Văn hoá hiểu theo nghĩa rộng bao gồm toàn bộ những sản phẩm vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong suốt quá trình hình thành, tồn tại và phát triển. Đây cũng chính là ý nghĩa mang tính thuật ngữ đang được sử dụng trong nghiên cứu của nhiều lĩnh vực thuộc khoa học xã hội và nhân văn như: văn học, ngôn ngữ học, sử học, triết học… Nói một cách khái quát, bất cứ cái gì có gắn với sự sáng tạo của con người trong quá trình lao động đều được coi là sản phẩm của văn hoá. Trong cách hiểu như vậy, văn hoá được chia ra làm hai loại:
a. Văn hoá vật thể: bao gồm những di sản như đình, chùa, miếu mạo, cung điện, trống đồng, các đồ gốm sứ…
b. Văn hoá phi vật thể (còn gọi là văn hoá tinh thần): bao gồm những sản phẩm như văn học, âm nhạc, hội hoạ, hoa văn, kiến trúc, múa, sân khấu, điện ảnh...
2. Quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá
2.1. Biểu hiện bên trong của ngôn ngữ và văn hoá
Ngôn ngữ và văn hoá có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Tuy nhiên, mối quan hệ này có thể được biểu hiện ra bên ngoài thành những phương tiện vật chất cụ thể, nhưng cũng có thể biểu hiện qua mối quan hệ bên trong. Mối quan hệ bên trong này được hình thành từ một trong những chức năng quan trọng nhất của ngôn ngữ, đó là chức năng tư duy. Các Mác từng nói "Ngôn ngữ là hiện thực trực tiếp của tư tưởng". Không có ngôn ngữ, con người không thể tư duy. Nói một cách khác, mọi hoạt động tư duy của con người đều thực hiện trên chất liệu của ngôn ngữ. Lênin ngoài việc đánh giá "Ngôn ngữ là công cụ giao tế quan trọng nhất của con người" còn nhấn mạnh đến chức năng quan trọng khác của ngôn ngữ là chức năng tư duy. Người nói: "không có tư tưởng nào lại trống rỗng cả".
Từ phương diện này, chúng ta nhận thấy, xét về bản chất, ngôn ngữ bao giờ cũng tham gia vào cả hai loại văn hoá vật thể và văn hoá phi vật thể tuy cách biểu hiện của nó rất khác nhau. Nhìn về mặt hình thức, ở các di sản văn hoá vật thể người ta khó nhận thấy dấu ấn của ngôn ngữ. Nói một cách khác, quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá không nổi lên trên bề mặt mà ẩn sâu ở quan hệ bên trong giữa chúng. Mối quan hệ này chỉ được bộc lộ khi ta phân tích vai trò và chức năng của ngôn ngữ khi nó tham gia vào quá trình hình thành nên một sản phẩm văn hoá vật thể cụ thể. Trên phương diện này, ngôn ngữ không chỉ là công cụ của tư duy, là linh hồn cho sự sáng tạo ra các vật thể mang tính văn hoá mà còn là một phương tiện lưu giữ thông tin, truyền bá những kinh nghiệm từ thế hệ này qua thế hệ khác. Chẳng hạn, khi tìm hiểu một ngôi đình được xây dựng ở thế kỷ XIX mà trong nó có nhiều hình chạm trổ đa dạng chúng ta sẽ nhận ra rằng, để có được một sản phẩm văn hoá vật thể như vậy, người Việt đã phải nhiều lần quan sát các hình mẫu có trong thực tiễn, đồng thời cải tiến các loại hình chạm trổ mà người ở các giai đoạn trước đó đã làm. Kết quả của quá trình này là một quá trình sáng tạo công phu, phức tạp, trong đó ngôn ngữ tham gia với tư cách là công cụ tư duy tạo ra trí tưởng tượng (tạo nên hình thù của các đường nét, hình vẽ…), mặt khác còn tham gia với tư cách là phương tiện lưu giữ thông tin (truyền những kinh nghiệm của người đi trước bằng cách trực tiếp (qua hình thức nói) hay gián tiếp (qua hình thức viết).
Cho nên, xét cho cùng, ngay cả các văn hoá vật thể bên trong nó cũng chứa đựng mối quan hệ sâu sắc với ngôn ngữ.
2.2. Biểu hiện bên ngoài của mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá
Nói tới mặt biểu hiện bên ngoài của mối quan hệ giữa văn hoá và ngôn ngữ là nói tới khả năng quan sát được những sự liên quan giữa văn hoá và ngôn ngữ trên cơ sở những dấu hiệu, ký hiệu cụ thể.
Trên cơ sở học thuyết tiến hoá của Đác Uyn và học thuyết của Pac Lốp về ký hiệu, có thể kết luận rằng, chỉ có con người mới có ngôn ngữ. Ngôn ngữ là một hệ thống ký hiệu được hình thành từ những phản xạ không có điều kiện. Thực chất nó là ký hiệu của ký hiệu và là hệ thống tín hiệu thứ hai, chỉ con người mới có được. Hệ thống ký hiệu này chính là các phương tiện tạo nên các sản phẩm văn hoá mang giá trị tinh thần, gọi là văn hoá phi vật thể. Trong văn học, sân khấu, điện ảnh… ngôn ngữ là phương tiện trực tiếp cấu thành tác phẩm. Nó tham gia vào việc diễn đạt tư tưởng của nhà văn thông qua việc sử dụng từ, việc đặt câu và xây dựng văn bản nghệ thuật. Trong âm nhạc, với các ký tự được cụ thể hoá thành 8 nốt nhạc, người nghệ sĩ có thể tạo ra muôn vàn các bản nhạc khác nhau diễn đạt những cung bậc tình cảm vô cùng đa dạng, phong phú của con người. Trong hội họa, nhờ khả năng tư duy kỳ diệu trên sự hòa phối các màu sắc, người nghệ sĩ có thể tạo ra hàng ngàn, hàng vạn những bức tranh khác nhau miêu tả thế giới hiện thực xung quanh.
Như vậy, dù ở đâu thì giữa ngôn ngữ và văn hoá vẫn có một mối quan hệ không thể tách rời.
3. Biểu hiện của mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá trong tiếng Việt
Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá nếu xét trong tiếng Việt có thể thấy nó được bộc lộ trên tất cả các cấp độ ngôn ngữ khi được sử dụng, cụ thể là từ cấp độ âm vị cho đến cấp độ văn bản. Trên quan điểm giao tiếp, có thể phân tích mối quan hệ này từ nhiều phương diện, góc độ khác nhau. Trong bài này, chúng ta chủ yếu xem xét mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá được biểu hiện qua cách sử dụng một số từ xưng gọi trong tiếng Việt.
3.1. Đặc điểm của các từ xưng gọi trong tiếng Việt
Trong tiếng Việt, các từ xưng gọi có những đặc điểm tiêu biểu sau đây:
- Có số lượng rất lớn.
- Không có tính thuần nhất về cách sử dụng. Điều này thể hiện ở chỗ, cùng là một từ xưng gọi, nhưng nó có thể tham gia vào các vai giao tiếp khác nhau. Chẳng hạn, từ "mình " có khi là ngôi thứ nhất, có khi lại được dùng là ngôi thứ hai. Từ "ta" có khi là số ít, có khi được dùng là số nhiều.
- Có nhiều hiện tượng đồng âm, đồng nghĩa.
- Có sự lấn át của các từ xưng gọi vốn xuất xứ từ các danh từ chỉ quan hệ thân tộc, họ hàng.
- Từ xưng gọi giàu nghĩa tình thái mà ít mang sắc thái trung hoà.
Những đặc điểm trên làm cho tiếng Việt có một đặc điểm khác hẳn các ngôn ngữ Âu châu ở chỗ, việc sử dụng từ xưng gọi mang dấu ấn đậm nét của văn hoá dân tộc. Điều này được thể hiện ở những sự khác biệt cơ bản sau đây.
a. Trong các ngôn ngữ Âu châu, đại từ xưng hô chiếm vị trí vô cùng quan trọng trong hệ thống các từ xưng gọi. Nó là yếu tố trung tâm của hệ thống (các từ xưng gọi khác là yếu tố biên) và thường mang sắc thái trung hoà tính.
b. Trong tiếng Việt, đại từ xưng hô chiếm một vị trí không đáng kể trong hệ thống các từ xưng gọi. Nó không phải là yếu tố trung tâm. Khi sử dụng nó ít mang sắc thái trung hoà tính (chỉ trong một số phong cách chức năng) mà thường gắn với một tình thái tính nhất định.
c. Trong các ngôn ngữ Âu châu các từ chỉ thân tộc họ hàng ít có hiện tượng được chuyển sang dùng làm từ xưng gọi. Trong tiếng Việt, hiện tượng chuyển từ chỉ thân tộc họ hàng sang làm từ xưng gọi diễn ra thường xuyên và rất phổ biến. Tình trạng này đưa đến một hệ quả là, trong tiếng Việt, cách dùng từ xưng hô ngả theo khuynh hướng gia đình hoá các quan hệ xã hội. Điều này thể hiện rõ nhất trong giao tiếp ở các cơ quan công sở: các từ như chú, bác, anh, em, cháu… được dùng phổ biến và thường xuyên thay cho các đại từ nhân xưng và các từ chỉ chức vụ.
3.2. Biểu hiện của mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá trong việc sử dụng hệ thống từ xưng gọi của tiếng Việt
Theo lý thuyết giao tiếp [14],[21], một hoạt động đối thoại chỉ thực hiện được một cách có hiệu quả khi các đối tượng tham gia giao tiếp đã thực hiện đúng vai giao tiếp của mình. Trong tiếng Việt, nét văn hoá trong ứng xử được thể hiện rất rõ trong việc sử dụng từ xưng hô khi thực hiện giao tiếp.
Nếu mô hình hoá, ta có thể hình dung quá trình giao tiếp nằm trong mối quan hệ chi phối của nhiều nhân tố khác nhau.
Nếu ta gọi A, B là các đối tượng tham gia giao tiếp, C là nhân tố chi phối đến việc dùng từ xưng hô, tính văn hoá sẽ được thể hiện qua việc chọn các từ xưng gọi thích hợp nhằm duy trì (không gây ra tổn thương) mối quan hệ trong hệ thống nói trên. Trên thực tế, khi giao tiếp, mỗi người Việt Nam dù muốn hay không đều chịu sự chi phối của các mối quan hệ thân tộc hay quan hệ xã hội xung quanh mình. Sự chi phối này được củng cố về mặt lịch sử và hình thành ra tập quán, thói quen ứng xử trong giao tiếp. Một người khi ra đường, nếu muốn giao tiếp với người khác thì thường qui chiếu tuổi của người đó với một người trong quan hệ thân tộc để thiết lập nên các cặp từ xưng gọi lâm thời sao cho phù hợp với thói quen văn hoá dân tộc hay văn hoá miền, vùng. Chẳng hạn, nếu người đối thoại là đàn ông, có tuổi ngang với anh mình thì gọi bằng "anh" và xưng là "em", ít hơn tuổi bố mình thì gọi bằng "chú" và xưng là "cháu". Một người phụ nữ ngang tuổi với chị mình thì gọi bằng "chị" xưng hô là "em", ít tuổi hơn mẹ mình thì gọi là "cô" và xưng hô là "cháu".Tính văn hoá miền, vùng thể hiện qua cách dùng từ xưng gọi ở các miền khác nhau thì có sự lựa chọn hệ thống từ thân tộc khác nhau. Ở miền Nam thì dùng từ "dì", " cậu", còn ở miền Bắc thì dùng từ "cô", "chú". Đó là những lựa chọn được coi là chuẩn trong văn hoá giao tiếp của người Việt.
Xem xét hệ thống từ xưng gọi, ta có thể nói rằng, mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá trong tiếng Việt được biểu hiện qua hệ thống từ vựng phong phú hơn nhiều so với các ngôn ngữ Âu châu. Điều này không chỉ bộc lộ ở khả năng chuyển hoá các từ chỉ quan hệ thân tộc sang hệ thống các từ xưng gọi mà còn bộc lộ ở việc hình thành một hệ thống các kiểu đối lập nhằm cụ thể hoá các vai giao tiếp.
Sau đây ta thử so sánh cách biểu thị mối quan hệ ngôi thứ nhất và ngôi thứ hai giữa tiếng Việt và các tiếng Anh, Nga, Pháp.
Ngôn ngữ |
Ngôi thứ nhất |
Ngôi thứ hai |
Tiếng Anh |
I |
you |
Tiếng Nga |
Ja |
tư/vư |
Tiếng Pháp |
Je |
tu/ vous |
Tiếng Việt |
tôi tôi tôi tôi tôi tôi tôi tôi tôi tôi tôi
tôi tôi tôi
tôi tôi
tôi tôi tôi tôi ta ta
|
cụ ông / bà bác bố / mẹ chú / cậu cô / gì anh / chị nàng mình bạn em
cậu bạn em
cậu bạn
mình nàng con em ngươi người cháu cháu cháu con cháu cháu em anh /chị |
Chỉ cần quan sát bảng trên chúng ta cũng thấy bức tranh về hệ thống từ xưng gọi trong tiếng Việt là hết sức đa dạng và phong phú. Tuy nhiên, ngay cả hệ thống các từ được đưa vào bảng trên cũng chỉ phản ánh được một cách khái quát những quan hệ phức tạp giữa ngôi thứ nhất và ngôi thứ hai trong quá trình giao tiếp. Đi vào sử dụng cụ thể, mỗi một đối tượng giao tiếp lại phải tuỳ vào kinh nghiệm bản thân để vận dụng một cách sáng tạo các cặp từ xưng gọi miễn sao thực hiện được tốt nhất chiến lược giao tiếp của mình. Nói một cách khác, hệ thống các từ xưng gọi trong tiếng Việt không phải là một hệ thống khép kín mà là một hệ thống luôn luôn mở. Điều này phản ánh một phần cái nét hết sức đặc trưng của văn hoá Việt là tính uyển chuyển, năng động, không cứng nhắc, dập khuôn theo một mô thức có sẵn. Nét văn hoá đặc trưng này được phản ánh trong ngôn ngữ không chỉ ở hệ thống từ xưng gọi mà còn được biểu hiện trong nhiều hệ thống từ vựng khác của tiếng Việt.
Tính uyển chuyển trong việc sử dụng các cặp từ xưng gọi gắn liền với quan hệ tình cảm và vị thế của người tham gia giao tiếp. Chẳng hạn, cặp từ: "ta - ngươi" ngoài nét nghĩa thường trực được sử dụng phổ biến là chỉ quan hệ vua - tôi, trên - dưới nhằm xác lập vị thế đối lập về quan hệ xã hội, tuổi tác còn được dùng để biểu thị mối quan hệ ngang bằng về vị thế xã hội nhưng lại xa lạ về tình cảm.
Ví dụ: - Ta không làm gì hại ngươi sao ngươi lại nỡ mua thù chuốc oán ?
- Ngươi hãy hiểu cho ta. Ta không thể lấy ngươi làm vợ được.
Nếu xét ngôi thứ nhất, trong hệ thống từ xưng gọi tiếng Việt, từ "tôi" là từ có vị trí trung tâm. Nó có thể xuất hiện trong mọi mối quan hệ khác nhau về tuổi tác cũng như về địa vị xã hội. Tính trung hoà hoá về tình thái tính của nó cao hơn các từ xưng gọi khác được dùng ở ngôi thứ nhất. Tuy nhiên, nó lại không mang sắc thái trung hoà gần như tuyệt đối giống như các từ xưng gọi của tiếng Anh, tiếng Nga, hay tiếng Pháp. Các từ như I (tiếng Anh), Ja (tiếng Nga), Je (tiếng Pháp) dường như không tạo ra được các cặp xưng gọi nhằm biểu thị ý nghĩa tình thái trong thái độ của người tham gia đối thoại. Trong tiếng Việt thì trái lại từ "tôi" có thể tạo ra được rất nhiều cặp xưng gọi để biểu thị các nét nghĩa này.
Ví dụ:
1. Tôi và ông không thù oán gì sao ông lại gây sự với tôi?
2. Tôi và ông vào quán uống nước đi.
3. Tôi không phải là cháu ông đâu nhé.
4. Tôi với bạn vào công viên nhé.
5. Tôi đã gửi thư cho em, em có nhận được không ?
6. Tôi nói với anh mấy lần rồi ?
7. Chiều mai bố ở nhà để tôi đi biển.
8. Tôi nói mãi mà bố không sửa.
Cặp tương liên "tôi - ông" xuất hiện ở ba ví dụ đầu mặc dù cùng nhằm biểu thị mối quan hệ giao tiếp giữa ngôi thứ nhất và thứ hai, nhưng lại hoàn toàn khác nhau về mức độ quen thân, về quan hệ tuổi tác và về thái độ tình cảm. Nói cụ thể nó mang các nghĩa tình thái khác nhau, và vì vậy, độ nhấn thông tin và hướng đích giao tiếp của mỗi câu cụ thể có chứa các từ này cũng khác nhau.
Ở câu 1, người nói muốn nhấn mạnh thông tin về quan hệ giữa mình và đối tượng giao tiếp. Hướng đích là muốn lý giải tại sao lại xảy ra sự kiện không tốt giữa đối tượng và mình (tức là "tôi").
Ở câu 2, người nói muốn thể hiện một quan hệ thân mật, bình đẳng giữa mình và đối tượng. Trong đó, đối tượng giao tiếp có thể tương đương về tuổi tác với mình và cũng có thể nhỏ hơn tuổi mình.Ở câu 3, người nói muốn nhấn mạnh một thông tin, đó là sự phản ứng của mình trước hành vi ứng xử theo kiểu gia đình trị của đối tượng giao tiếp. Như vậy, người nói muốn nhắc nhở đối tượng về tính bình đẳng trong quan hệ mà không tính đến vấn đề tuổi tác hay quan hệ thân thuộc. Hướng đích giao tiếp là phản đối.Ở câu 4, người nói muốn thể hiện quan hệ gần gũi, bình đẳng của mình với đối tượng giao tiếp. Tuy nhiên, sự thân mật được thiết lập trong quan hệ giao tiếp ở đây có tính lịch thiệp xã giao hơn ở câu 4 là câu mà tính thân mật có phần xuồng xã hơn.
Ở câu 5, cặp xưng gọi "tôi - em" có nhiều biểu hiện tinh tế về quan hệ giao tiếp. Thông thường, cặp này được hình thành khi người nói chủ động muốn thay đổi quan hệ giao tiếp giữa mình và đối tượng trong các trường hợp sau:
a. Giữa hai người có độ chênh về lứa tuổi vượt quá khung của cặp tương liên "anh - em" nhưng quan hệ tình cảm lại có xu hướng đi vào tương liên này.
b. Giữa hai người có sự thay đổi về quan hệ tình cảm: Đang từ quan hệ bạn bè chuyển dần sang quan hệ tình yêu.
Cả hai trường hợp trên có chung một điểm: Người nói muốn nâng cao vị thế của người đối thoại và khẳng định tình cảm của người nói trong quan hệ giao tiếp. Cách bộc lộ tình cảm của người nói ở đây đi theo hướng lịch sự để tránh sự xuồng xã trong quan hệ.
Ở câu 7, cặp xưng gọi tôi - bố có những biểu hiện phức tạp hơn. Thông thường, nếu trong quan hệ huyết thống bố - con, bất kỳ hoàn cảnh nào, cả khi bực tức, cáu giận, mà dùng ngôi thứ nhất là "tôi" (không dùng từ "con") là biểu thị một sự thiếu văn hoá trong giao tiếp. Nhưng ở một số địa phương, chẳng hạn, ở một vài nơi thuộc vùng biển Thanh Hoá, cách xưng hô này lại không gây ra sự phản cảm về ngôn ngữ hay "tính thiếu văn hoá" trong lời nói vì trong giao tiếp hàng ngày, người con vẫn xưng "tôi" với bố hoặc mẹ và nó được coi là một tình trạng bình thường. Còn trong câu 8, quan hệ xưng gọi tôi - bố chỉ xảy ra khi người nói bực bội nhưng vẫn muốn giữ một quan hệ thân mật với người đối thoại, nghĩa là vẫn coi người đối thoại là chỗ thân tình với mình.
Như vậy, từ ngôi thứ nhất "tôi", trong tiếng Việt có thể thiết lập một loạt các cặp xưng gọi tạo thành các cặp từ xưng gọi dùng trong giao tiếp theo sơ đồ sau:
Trong sơ đồ này, từ nhân xưng "tôi" nằm ở tâm điểm của đường tròn, còn các từ xưng gọi khác xoay quanh nó. Ở đây, các từ xưng gọi khác không được định vị chính xác trong quan hệ với "tôi" theo kiểu trên - dưới về tuổi tác, cao - thấp về địa vị mà luôn có sự chuyển hóa năng động tuỳ theo vào vị thế giao tiếp và thái độ chủ quan của người nói khi thực hiện các chiến lược giao tiếp khác nhau. Tính chuẩn mực hay phi chuẩn mực trong quá trình thiết lập các cặp xưng gọi này ở người nói chính là những dấu hiệu cụ thể biểu hiện ý thức văn hoá hay trình độ về văn hoá ngôn ngữ. Đây chính là điểm khó khăn nhất cho việc học tiếng Việt đối với người nước ngoài. Đối với họ, học cách sử dụng các từ xưng gọi hoàn toàn không chỉ là học thuộc các mối quan hệ qui chiếu theo địa vị xã hội hay tuổi tác mà phải học các kiểu văn hoá ứng xử trong giao tiếp. Từ góc độ này, có thể coi việc học một ngôn ngữ chính là một quá trình tiếp cận văn hoá của một dân tộc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH
- Arnoldov, A.I. ( Chủ biên) (1985), Cơ sở lý luận văn hóa MacsLeenin, Nxb VHTT,H.
- Austin,J.L (1962, How to do things with words. _ CUP.london-Oxford-New York.
- Đặng Đức Siêu(2002), Hành trình văn hóa Việt Nam, Nxb Lao động,H.
- Đinh Gia Khánh, Cù Huy Cận (chủ biên) (1995), Đại cương về tiến trình văn hóa Việt Nam, Nxb Văn học,H.
- Hayakawa, S.I (1964), Language in Thought and Action. The city College of New York.
- Hoàng Tuệ (1996), Ngôn ngữ và đời sống xã hội-văn hóa, Nxb GD,H.
- Hữu Đạt(2000), Ngôn ngữ và văn hóa giao tiếp của người Việt. Nxb VHTT,H.
- Nguyễn Quang (2002), Giao tiếp và giao tiếp văn hóa, Nxb ĐHQG,H.
- Nguyễn Thừ Hỷ (2001), Lịch sử văn hóa Việt Nam truyền thống, Nxb ĐHQG,H.
- Sigmund Freud (2001), Nguồn gốc văn hóa và tôn giáo, Nxb DDHQG,H.
- Trần Ngọc Thêm (1996), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Tp Hồ Chí Minh.
- V.M. Rô Đin (2002), Văn hóa học, Nxb Chính trị QG,H.
Nguồn: Tác giả