Trong quan niệm truyền thống của người Việt, nếu người sống cần có ngôi nhà để sum họp, che nắng che mưa, thì người chết cũng phải có một nấm mồ để gìn giữ hình hài, làm nơi cho thân đến thắp nén hương tưởng nhớ vào dịp có ngày kỵ, ngày lễ. Bởi thế, nếu trong gia đình có người qua đời, vì những lý do nào đó mà không tìm thấy di hài để an táng (như trường hợp quân binh các đội Hoàng Sa, Trường Sa hy sinh trong khi làm nhiệm vụ trên biển), thì người thân của họ sẽ mời thầy phù thủy (pháp sư) làm lễ cúng gọi hồn và làm phép nhập hồn vào một hình nhân thế mạng. Hình nhân thế mạng là những hình nộm có dáng người do thầy phù thủy nặn ra bằng đất sét hoặc bột gạo, có chiều cao chừng vài mươi phân, sau đó được làm phép “thổi hồn” với niềm tin rằng những hình nộm này sẽ trở thành nơi nương tựa cho linh hồn người chết. Những chiếc quan tài bên trong có hình nhân thế mạng sẽ được người thân và xóm làng đưa đi chôn cất trong khu mộ gió với đầy đủ các nghi lễ về tang chế theo phong tục.
Ở đây cũng cần nhắc lại rằng, tục làm hình nhân để gọi hồn người chết cũng như tục đắp mộ gió, mộ chiêu hồn, không phải là “một tập tục rất độc đáo của người dân huyện đảo Lý Sơn”, như không ít người viết trên báo mạng, báo in thời gian gần đây. Kỳ thực, tục đốt hình nhân thế mạng hoặc táng hình nhân thế mạng phổ biến ở rất nhiều vùng trên đất nước ta. Mà không phải chỉ ở nước ta, những ai đã đọc truyện “Phong Thần”, kể về thời huyền sử bên Tàu, đều biết rằng cậu con trai Lý Thiên vương là Na Tra cũng được tái sinh bằng phù phép (trong sâu thẳm là tình yêu vô bờ bến của người mẹ) từ một hình nhân thế mạng. Câu chuyện cầu thủ quốc tịch Bồ Đào Nha C. Ronadldo bị người tình thuê pháp sư “yểm bùa” cho bị thương tật (bằng cách niệm chú rồi châm kim vào “hình nhân thế mạng”) râm ran trên internet và trong giới mộ điệu túc cầu giáo cuối năm 2009 vừa qua, còn cho thấy, tục này cũng phổ biến cả ở phương Tây đương đại nữa là!
Để vua chúa (sau đó là những người có thế lực, người giàu) xuống dưới âm cung có người hầu hạ, tục Việt Nam không chôn người sống (tuẫn táng) như từng xảy ra khốc liệt và tàn bạo dưới nhiều triều đại phong kiến Trung Hoa, mà dùng hình nộm bằng tre nứa, quấn bằng rơm rạ hoặc nhào nặn bằng đất sét, ngoài dán giấy làm quần áo rồi vẽ mặt mũi, sau đó khi tế lễ xong thì đốt hình nhân đó cùng với vàng mã. Nếu lễ thủy thần, long vương, hà bá thì làm thuyền bằng giấy kết trên thân cây chuối rồi đặt hình nhân vào thuyền và thả trôi sông. Có người nghe theo lời bói toán, gặp kỳ vận hạn bị hung thần quỷ dữ bắt, phải nhờ thầy cúng làm lễ, đốt hình nhân thế mạng. Nguồn gốc sâu xa của tục “tuẫn táng”, hoặc dùng “hình nhân thế mạng” chính là tục “bồi táng”, xuất hiện từ thời nguyên thủy, mà các nhà khảo cổ học đã cho chúng ta biết từ rất lâu khi khai quật, phát hiện những đồ tùy táng chôn theo hài cốt hoặc than tro di thân người chết.
Với những người lính làm nhiệm vụ tuần phòng trên đảo Hoàng Sa, ròng rã 6 tháng lênh đênh sóng nước cùng những chiếc khinh thuyền (thuyền nhẹ, di chuyển nhanh, dễ xoay trở trên những vùng biển nhiều rạn san hô, nhưng sức bền hạn chế), thường xuyên đối mặt với sóng cả, gió to, thì cái chết, dù bất cứ nguyên nhân nào, cũng đồng nghĩa với việc lấy lòng biển bao la làm nơi mai táng hình hài. Trong hành trang chuẩn bị cho chuyến hải trình dài ngày đến Hoàng Sa, Trường Sa, ngoài những vật dụng thiết yếu dùng cho người đi biển, mỗi thủy thủ can trường của các đội Hoàng Sa, Bắc Hải còn tự mình chuẩn bị 1 đôi chiếu, 7 nẹp tre, 7 sợi dây mây, 1 thẻ bài khắc tên họ, quê quán, phiên hiệu. Nếu không may người thủy thủ qua đời thì những đồng đội còn lại trên thuyền sẽ bó thi hài người xấu số cùng với chiếc thẻ khắc tên vào trong manh chiếu, nẹp dọc 7 thanh tre rồi buộc chặt lại bằng 7 sợi dây mây. Sau một vài nghi thức đưa tiễn giản đơn, thi hài sẽ được đem thả xuống biển. Những người còn sống gởi lên cao xanh lời cầu nguyện mong manh rằng xác thâ người bạn thuyền xấu số của họ sẽ trôi dạt vào bờ biển, và nếu may mắn có ai đó vớt được nắm xương tàn thì nhờ chiếc thẻ mà biết tên họ quê quán của con người đã vì nước vong thân. Nguyện cầu là vậy nhưng chẳng có mấy khi xác người xấu số trôi dạt được vào trong mé biển. Đó là chưa kể lắm khi cả thuyền hoặc cả hải đội bị bão tố đánh chìm… trong số những tên tuổi khắc trên bia đá ở khu mộ gió Lý Sơn có những con người đã được chính sử triều Nguyễn trân trọng ghi danh với chức vụ là Cai đội, Chánh đội Hoàng Sa, như các ông Võ Văn Khiết, Phạm Hữu Nhật, Phạm Quang Ảnh… Hữu Nhật và Quang Ảnh cũng là tên 2 nhóm đảo trong quần đảo Hoàng Sa. Tuy nhiên rất nhiều ngôi mộ ở đó lại không còn tên tuổi. Họ thực sự là những người liệt sỹ hy sinh vì nước mà không màng đến việc lưu danh trong sử sách. Ở Lý Sơn, bên cạnh việc phụng thờ tại gia đình, dòng tộc, những người lính Hoàng Sa, Trường sa còn được phối thờ chung tại Âm linh tự, tọa lạc tại thôn Tây, xã Lý Hải.
Những từ “khao lề thế lính” trong câu hát dân gian nhắc đến một lễ thức truyền thống diễn ra hàng năm trên đảo Lý Sơn trong khoảng thời gian từ mùng 10 đến 20 tháng 2 Âm lịch, đó là Lễ khao lề thế lính Hoàng Sa. Vào những ngày này, các dòng tộc sống trên đất đảo tổ chức nghi thức cầu cúng linh hồn những người lính Hoàng Sa, Trường Sa đã hy sinh trên biển trong khi theo “lệnh vua” làm nhiệm vụ giữ gìn biên cương Tổ quốc. Gọi là “thế lính Hoàng Sa”, nhưng thực tế đây là lễ cầu cúng thủy binh, bân dinh, binh phu của cả đội Hoàng Sa lẫn đội Bắc Hải, vì đương thời, theo quy định của triều đình, đội Hoàng Sa (phiên chế khoảng 60 người) có nhiệm vụ kiêm quản cả đội Bắc Hải (Trường Sa). Quân binh đội Hoàng Sa và đội Bắc Hải, có nhiều người quê ở các phủ Cảnh Dương, Quy Nhơn, Bình Khang, Tư Chính (nay thuộc các tỉnh Quảng Bình, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Bình Thuận), nhưng nhiều nhất và chủ yếu là tráng đinh vùng bán đảo Ba Làng An (gồm 3 làng An Hải, An Vĩnh, An Kỳ thuộc phủ Bình Sơn, nay thuộc ven biển 2 huyện Bình Sơn, Sơn Tịnh) và sau đó là cư dân An Vĩnh Phường và An Hải Phường thuộc tổng Lý Sơn (nay là 2 xã An Vĩnh và An Hải của huyện đảo Lý Sơn).
Khao lề hay cúng lề là lễ cúng theo định kỳ hàng năm vào một ngày nhất định, tại nhiều gia đình, dòng tộc của một địa phương nào đó và đã trở thành lệ. Thế lính Hoàng Sa là dùng những hình nhân đã được “thổi linh hồn” thế chỗ cho hồn ma những người lính còn bơ vơ trên biển. Trong nghi thức mang tính phù chú này, hình nhân thế mạng sẽ được đặt lên một chiếc thuyền làm bằng bẹ chuối, cùng với những lễ vật tượng trưng cho lương thực và vật dụng thiết thân của các phù thủy, rồi đem thả xuống biển.
Khoảng trước năm 1954, có nhiều miếu thờ lính Hoàng Sa, Trường Sa trong đất liền cũng như trên cù lao Ré (đảo Lý Sơn) và thường được gọi bằng một tên chung là “miếu Hoàng Sa”. Cùng với các tư liệu thành văn, các sử liệu chính thống, sự tồn tại của các “miếu Hoàng Sa”, “khu mộ gió Hoàng Sa” và đặc biệt là Lễ khao lề thế lính diễn ra hàng năm trên đảo Lý Sơn là những dữ kiện văn hóa vô thể góp phần minh chứng sống động, hùng hồn mối quan hệ máu thịt giữa Lý Sơn và Hoàng Sa, Trường Sa, đồng thời cũng là lời nguyền của các thế hệ người Việt kế tiếp nhau, quyết đem máu xương mình bảo vệ cơ đồ của Tổ quốc.
Chúng tôi muốn dừng lại ở đây để nêu vài ý kiến về đề nghị gần đây của một số người, cho rằng nên gọi là “Lễ khao lề tế lính”, mà không gọi là “Lễ khao lề thế lính”. Lý do mà họ đưa ra là: Ngày nay, không còn các đội Hoàng Sa, Bắc Hải nữa, nên hẳn nhiên không còn thủy binh, binh phu đi Hoàng Sa, Trường Sa trong vô vàn gian nan nguy hiểm, nên việc thế mạng cũng chẳng cần. Theo người viết bài này, sở dĩ có ý kiến như vậy vì người nêu dề nghị đã có nhầm lẫn khi xem xét tục “thế mạng” bằng hình nhân, cho rằng hình nhân ấy là “cascadeur” (người thế vai, diễn viên đóng thế) của người đang sống, người sắp lên đường làm nhiệm vụ ngoài khơi xa; mà kỳ thực, những hình nhân được phù phép kia khi ra với biển khơi sẽ làm nhiệm vụ thế chân cho linh hồn của người đã chết. Giữa biển cả mênh mông, xác thân người xấu số lênh đênh hôm sớm, rồi tan vào giọt nước vô ưu, linh hồn không tìm thấy xương cốt, hình hài nương tựa, đành vất vưởng đâu đó trên đầu sóng ngọn gió. Vậy thì, người sống mà yêu thương, mà tưởng vọng đến họ, mong muốn họ phù trợ cho người thân mình nay mai cũng lên đường nối gót họ ra khơi xa, thì hãy đem những hình nhân kia mà thế chỗ cho họ ở nơi góc biển chân trời, bóng chim tăm cá, nơi có tiếng hú xa xăm ai oán, để linh hồn họ được trở về, siêu thoát, để họ đừng bắt người thân của mình thế chỗ ở nẻo vô minh.
Sau nhiều thế kỷ, các đội Hoàng Sa, Bắc Hải đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình, nhưng lễ khao lề thế lính Hoàng Sa vẫn được các gia đình, dòng tộc ở Lý Sơn tổ chức hàng năm và trở thành một lễ hội dân gian mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc, thể hiện tấm lòng tri âm của người dân đảo đối với những người đã hy sinh vì chủ quyền của Tổ quốc.
Nguồn: T/c Xưa & Nay, số 353, tr 33