1. Mảnh đất thiên thời, địa lợi, nhân hòa
Ngay từ khi dời đô về Thăng Long, Lý Công Uẩn đã cho đây là nơi rồng cuộn hổ ngồi, có thể lên bắc xuống nam một cách dễ dàng. Càng về sau này, thực tế ấy đã cho thấy tầm nhìn đúng đắn của vị vua khai quốc nhà Lý. Trước hết, Hà Nội là trung tâm của toàn bộ miền Bắc nước ta, từ đây đi đến tất cả các miền trong vùng này đều thuận tiện, nhanh chóng và có độ dài không quá cách xa nhau, còn nếu tính đi ra xung quanh đến các vùng trung du và đồng bằng thì độ dài khá đều. Như vậy, từ đây nếu cần tỏa ra các vùng xung quanh sẽ rất nhanh chóng và thuận lợi về mặt kinh tế và quân sự. Lịch sử đã cho thấy không ít các triều đại phong kiến khi gặp chiến tranh đã mau chóng rút khỏi kinh thành về các vùng phụ cận để ẩn nấp, chờ thời cơ là quay lại lấy thành, đặc biệt là trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông thời Trần. Mặt khác, trong việc làm ăn kinh tế thì lại thuận lợi rất nhiều cho việc giao thương. Hàng hóa từ các nơi về kinh thành một cách nhanh chóng, và từ kinh đô tỏa đi lại rất thuận tiện. Thậm chí Thăng Long như là một nơi trung chuyển hàng hóa, sản vật từ bắc xuống nam, từ đông sang tây và ngược lại. Vì vậy, nơi đây lại là nơi tập trung tất cả các của ngon vật lạ từ mọi miền đất nước, rồi từ đây những hàng hóa của kinh đô cũng lại tỏa đi khắp bốn phương. Cùng với những thứ đó là con người, là những nghệ nhân thợ thủ công, những trí thức có tài, những người kinh doanh buôn bán... hội tụ về đây càng làm cho kinh thành ngày một tấp nập và phồn hoa đô hội. Với vị trí của mình, Hà Nội là nơi thu hút nhân tài vật lực từ khắp bốn phương, điều đó đã, đang và sẽ mãi mãi là như vậy. Câu nói của người xưa, "tụ nhân như tụ thủy" rất đúng với Hà Nội. Hơn thế nữa, những người tụ họp về đây cũng phải là những người "như thế nào đó" mới về được. Bởi vì, như ta biết, người dân quê xưa không mấy khi dám bỏ làng hay dứt làng mà đi được. Một mặt do tình cảm, do phong tục tập quán níu giữ, mặt khác bứt khỏi làng đi làm ăn, sinh sống độc lập ở nơi khác, nhất là chốn thị thành, phải là người "có gan" mới dám làm ngoài cái gan ấy phải có một khả năng nhất định nào đó mới có thể tồn tại được. Vì vậy, nếu không có tài làm ăn, buôn bán, thì ít nhất cũng phải là người có nghề nghiệp hoặc học hành. Giữa chốn phồn hoa đô hội này, muốn tồn tại được phải vươn lên, cạnh tranh được với những người khác. Vì thế, những người trụ lại được nơi đây ở góc độ nào đó, là những tinh hoa từ các vùng khác nhau tụ hội về. Chính sự cạnh tranh ấy tạo ra những tinh túy của các nghề, các đặc sản, các thú ăn chơi, các loại hàng hóa hay nghệ thuật của đất kinh kỳ khác và hơn những nơi khác. Điều đó làm Hà Nội phong phú hơn, đa dạng, sang trọng và sành điệu hơn trong hầu hết mọi lĩnh vực của cuộc sống so với những vùng đất khác. Đó là chưa kể sự hội nhập, giao lưu giữa nó và các vùng khác nhau để tạo nên những nét tinh túy riêng của đất kinh kỳ.
Về mặt khí hậu, thời tiết, Hà Nội cũng hội đủ những điều kiện ưu việt. Trong toàn vùng Bắc Bộ, Hà Nội có thể được coi là điển hình với bốn mùa rõ rệt xuân, hạ, thu, đông. Chính điều đó tạo nên nét văn hóa hết sức sinh động ở đây với những mùa thu hương cốm mới. Chỉ có ngồi tại Hà Nội vào thời điểm cuối thu đầu đông, trong tiết trời dịu mát, hơi lành lạnh vào buổi sáng mà nhấm nháp những hạt cốm ủ trong lá sen lẫn trong vị ngọt của chuối tiêu mới cảm nhận hết cái ngon của nó. Tương tự như vậy, chỉ trong cái se lạnh đầu đông Hà Nội mới thấy hết sự nồng nàn của mùi hoa sữa làm nao lòng những kẻ đã từng sống nơi đây nay phải xa cách Hà Nội. Hoặc phải sống trong cái rét mùa đông tê tái của những làn gió mùa đông bắc mới thấy thương nhớ, mới thấy hết cái mùi tuyệt vời của ngô nướng hay khoai lang nướng trong đêm đông và cái ngon của bát phở nóng hay bánh cuốn nóng Hà thành mà Vũ Bằng luôn khắc khoải trong Thương nhớ mười hai.
Những năm gần đây, khi khí hậu và thời tiết đã thay đổi nhiều theo hướng tiêu cực mà góp phần nhiều trong sự thay đổi ấy chính là con người; khi mà lũ cuốn, sụt lở đất đai ở Tuyên Quang, Hà Giang, Yên Bái, Sơn La...; khi Lào Cai, Lai Châu và các vùng núi phía Bắc rét đậm, rét hại làm bao nhiêu gia súc vật nuôi và cả sinh mạng con người bị chết; rồi mưa to lũ cuốn ở Nghệ An, Thanh Hóa, Hà Tĩnh, thậm chí một nơi như Quảng Ninh, Bắc Giang ít khi bị những trận lụt lội, lũ cuốn kinh hoàng, cơn bão số 6 tháng 9-2008 cướp đi bao nhiêu sinh mạng và của cải... thì Hà Nội vẫn ở mức mưa đủ, rét vừa. Điều đó càng chứng minh cho vị trí lý tưởng của mảnh đất kinh thành đắc địa này. Các số liệu đo đạc và thống kê cho thấy, Hà Nội là nơi có lượng mưa vừa phải, nắng nóng không gay gắt, kéo dài, không rét đậm, rét hại như một số vùng khác trong khu vực, bão lụt không nhiều và không thường xuyên. Điều đó giúp cho nơi đây có một cuộc sống khá ổn định và bền vững tạo điều kiện phát triển tốt về mọi mặt. Sau các triều đại phong kiến, đến lượt người Pháp khi chiếm Việt Nam làm thuộc địa cũng đã chọn Hà Nội là thủ phủ của cả nước, hơn thế nữa còn là trung tâm của toàn cõi Đông Dương, điều này cho thấy họ cũng đã nghiên cứu tìm hiểu kỹ vùng đất này. Bằng tất cả những ưu thế như vậy mà từ lâu đời nay, Hà Nội đã trở thành một trung tâm văn hóa của cả nước với rất nhiều các giá trị văn hóa khác nhau, mà lễ hội là một trong những hiện tượng đặc sắc nhất.
2. Nơi tập trung của kho tàng lễ hội
Cho đến nay, qua công tác khảo sát thực tế, có thể nói rằng cùng với một số tỉnh Bắc Bộ như Phú Thọ, Bắc Ninh..., thì Hà Nội là một nơi tập trung dày đặc các hội hè dân gian. Cùng với khu vực mới nhập, thì chỉ riêng Hà Tây (cũ) và Hà Nội con số lễ hội dân gian theo thống kê chính thức mới nhất của Cục Văn hóa cơ sở (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) năm 2008 đã là 1070 lễ hội (Hà Nội 535 + Hà Tây (cũ) 535 trên tổng số 543 lễ hội của Hà Nội và 552 lễ hội của Hà Tây), đó là chưa kể một số lễ hội của huyện Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc cùng mới chuyển về. Như vậy, có thể khẳng định, đây là vùng lễ hội đậm đặc và phong phú nhất của cả nước, mà không nơi nào có được. Hà Nội bây giờ có gần trọn vẹn một xứ Đoài, có sự tham gia của xứ Bắc và xứ Đông cùng một phần của Sơn Nam thượng... Kinh thành chứa đựng trong nó những giá trị văn hóa quý giá của tứ trấn trong cái nôi của đồng bằng Bắc Bộ.
Với việc mở rộng địa vực như hiện nay, có thể khẳng định một điều chắc chắn không có một tỉnh, thành nào trong cả nước có mật độ và số lượng lễ hội nhiều như Hà Nội. Sự phong phú của các lễ hội ấy cũng không có nơi nào địch nổi. Sự hội tụ hiện nay, bên cạnh những lễ hội cung đình mà chỉ một vài nơi có được, thì sự góp mặt của văn hóa xứ Đông, xứ Bắc và xứ Nam đều có những nét đặc sắc nhất của mình. Hơn thế nữa Hà Nội là nơi đăng cai tổ chức, thay mặt nhân dân cả nước nên những lễ hội như vậy không nơi nào có được cái may mắn ấy. Đây là một ưu thế to lớn của Hà Nội trong tương lai.
3. Lễ hội cung đình
Đây là mảng thật hiếm có của Hà Nội, mà trừ Huế không đâu có được đó là các lễ hội cung đình. Song nếu như Huế chỉ là thủ đô của một vương triều (triều Nguyễn), thì Hà Nội là thủ đô của rất nhiều triều đại khác nhau. Do đó, nó cũng chứa đựng nhiều nét văn hóa, trong đó có lễ hội, khác nhau, chẳng hạn như hội thề tháng tư ở đền Đồng Cổ là một thí dụ. Mặt khác, nếu như lễ hội cung đình Huế đã được chuyên nghiệp hóa khá cao vì triều đình Nguyễn là triều đình phong kiến cuối cùng của Việt Nam vào giai đoạn muộn, thì các lễ hội cung đình ở Thăng Long - Hà Nội xưa còn mang nhiều chất dân gian trong cả các nghi lễ và các trò chơi xung quanh nó. Dân gian và cung đình trong lễ hội cung đình của Hà Nội đan xen, hòa quyện vào nhau, bổ sung cho nhau cùng phát triển. Cung đình lấy các nghi thức, tín ngưỡng và trò chơi dân gian vào lễ hội của mình, qua bàn tay của những trí thức, của các quý tộc nâng cao nó, sang trọng nó biến thành những nghi thức, trò chơi của mình rồi đem ra thực hiện, phổ biến trong kinh thành. Dân gian, ngược lại, lấy ra học tập, làm khuôn mẫu cho mình và cứ như vậy dân gian và cung đình hòa quyện vào nhau cùng phát triển. Vì vậy, nếu khôi phục được những lễ hội cung đình xưa như hội đèn Quảng Chiếu, hội đua thuyền trên sông Hồng... chắc chắn sẽ là những lễ hội có giá trị, góp phần không nhỏ vào đời sống của người dân Hà Nội ngày nay. Festival Huế năm 2008 đã dựng lại cuộc rước vua ra tế Nam Giao với một quy mô hoành tráng như nó vốn có trong thời Nguyễn, lần đầu tiên phục dựng nhưng đã có những phản hồi tích cực và được đông đảo nhân dân chiêm ngưỡng, đó cũng là lý do để Hà Nội có thể phục hồi lại những lễ hội độc đáo và thú vị của mình như các lễ hội cung đình hội thề tháng tư, hội đèn Quảng Chiếu, lễ sinh nhật nhà vua, hội đua thuyền, múa rối trên sông Hồng... là những hội đã một thời náo nức cả Thăng Long. Hiện tại Hà Nội đang tiến hành tìm hiểu nghiên cứu để phục dựng lại hội đèn Quảng Chiếu, một việc làm đáng khích lệ. Dù trước đây những lễ hội đó là hội của các tầng lớp trên, vua chúa và quan lại, song vẫn không thiếu sự đóng góp của những người dân bình thường, vả lại cũng là dịp giải trí của nhân dân kinh thành. Do đó phục dựng lại chúng trong hoàn cảnh hiện nay là một việc làm vừa giữ được truyền thống, đồng thời vừa giữ được những giá trị văn hóa và lịch sử của cha ông. Nó đặc biệt có ý nghĩa trong dịp kỷ niệm thủ đô một ngàn năm tuổi. Đặc biệt, với điều kiện kinh phí, không gian và nhất là những kỹ thuật, công nghệ và kỹ xảo hiện đại, chúng ta có thể phục dựng những lễ hội cung đình xưa một cách hoàn hảo. Chẳng hạn như việc phục dựng lại hội đèn Quảng Chiếu mà Hà Nội đang chuẩn bị, với kỹ thuật và điều kiện hiện nay, chiếc đèn Quảng Chiếu có thể được dựng lại một cách hoàn chỉnh vừa bảo đảm tính truyền thống, vừa thể hiện tính hiện đại của nó, chắc chắn sẽ là một sảm phẩm văn hóa hấp dẫn. Bàn tay tài hoa của người Hà Nội sẽ có dịp thể hiện qua tác phẩm này. Tương tự như vậy các lễ hội cung đình khác bây giờ đã đến lúc có thể khôi phục lại được tất cả. Điều này sẽ góp phần vào kho tàng văn hóa của Hà Nội thêm phong phú và đa dạng, nhằm đáp ứng nhu cầu du lịch ngày một tăng cao ở thủ đô. Cùng với việc phát hiện và xây dựng các khu di tích Hoàng thành, nhất là khi nó được thế giới công nhận là di sản văn hóa nhân loại, thì việc phục hồi những lễ hội cung đình xung quanh nó lại càng có giá trị và càng cần thiết. Đến đây, du khách không chỉ thấy các cung điện nguy nga, tráng lệ xưa, mà còn được chiêm ngưỡng những sinh hoạt văn hóa vương triều xưa liên quan đến những cung điện ấy. Giá trị của các di tích sẽ càng được tăng lên gấp bội.
Liên quan đến lễ hội cung đình phải kể đến các lễ hội của Thăng Long tứ trấn. Có lẽ, phải là một kinh đô lâu đời như vậy mới sinh ra những lễ hội như vậy. Từ chỗ là các trấn canh giữ, yểm trạch vì sự bình an của kinh thành ở bốn góc, lúc đầu chỉ thuần túy là ý nghĩa bảo vệ thông thường về mặt an ninh, trật tự; Sau đó là ở ý nghĩa tâm linh trấn yểm chống lại các yêu quái, tà ma với các đền miếu và các nghi lễ theo phong tục phương Đông; nhưng rồi, dần dần trở thành các lễ hội với quy mô không hề nhỏ, có ý nghĩa cho cả cung đình lẫn dân gian và trở thành một sinh hoạt văn hóa dân gian, đậm màu tín ngưỡng được chấp nhận cho đến tận ngày nay. Đó là các lễ hội của đền Bạch Mã (cửa đông), đền Quán Thánh (cửa bắc), đình, đền Kim Liên (cửa nam) và đền Linh Lang (cửa tây). Cả bốn nơi này lễ hội đã được mở từ lâu đời và đây cũng là cơ hội để có thể khôi phục lại với quy mô hoành tráng hơn nữa trong số các lễ hội liên quan đến cung đình mà lại đầy chất dân gian.
Ngoài ra, trong mảng lễ hội cung đình này cũng cần phải nhắc đến các lễ hội khác như hội chùa Đế Thích (chùa vua), các lễ hội đua thuyền trên sông Hồng... xưa kia cũng là một lễ hội được sử sách chép đến.
4. Lễ hội về những người anh hùng
Một trong những mảng hội nổi trội nhất của Hà Nội là lễ hội về những người anh hùng đã có công đánh giặc giữ nước, được ghi chép trong truyền thuyết và lịch sử Việt Nam. Trong số đó nổi bật nhất phải kể đến hội Gióng. Có một điều hết sức thú vị, đó là hội Gióng - một lễ hội có tầm vóc quốc gia, có sức cuốn hút kỳ lạ các thế hệ người Việt đến mức “mùng chín tháng tư, không đi hội Gióng thì hư một đời” ấy lại diễn ra trọn vẹn trên địa vực của Hà Nội nay. Đó là hội Gióng Phù Đổng nơi người anh hùng làng Gióng sinh ra và lớn lên rồi đi đánh giặc cứu nước; hội Gióng đền Sóc là nơi sau khi đánh tan giặc Gióng trở về trời; hội Gióng đền Sóc ở Xuân Đỉnh là nơi trên đường Gióng đi đánh giặc dừng chân uống nước hồ Tây và hội Gióng Chi Nam - nơi trên đường về trời Gióng thấy thủy quái nên quay lại đánh để cứu dân. Thật tuyệt vời, một cuộc hành trình trọn vẹn của một người anh hùng từ khi sinh đến lúc thác đều vì dân vì nước. Đó là hình tượng văn học, nhưng trong đó ẩn chứa một triết lý sâu sa của người xưa là khi hoàn thành nghĩa vụ với đất nước, những người anh hùng gác lại gươm, súng, ẩn mình mà không đòi hỏi những quyền lợi vinh hoa phú quý, trở về với cuộc sống đời thường (súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa- Nguyễn Đình Thi), thanh thản và tĩnh tại.
Sau các hội về Gióng, phải kể đến hội đền Cổ Loa vào ngày mồng sáu tháng giêng. Khác với hội Gióng, nơi người xem có thể thấy toàn bộ sự hoành tráng của một trận đánh giặc Ân của vị anh hùng oai phong, lẫm liệt, thì ở hội đền Cổ Loa, ta sẽ về thăm một di tích kiến trúc cổ loa thành với truyền thuyết chiếc nỏ thần nhắc nhở muôn đời các lớp cháu con về bài học cảnh giác với kẻ thù. Về hội Cổ Loa, ta còn được chiêm ngưỡng một cuộc rước ngoạn mục và độc đáo, đó là tục rước vua sống của 8 làng thờ An Dương Vương là Cổ Loa, Văn Thượng, Mạnh Tràng, Ngoại Sút, Cầu Cả, Đài Bi, Bằng Giả và làng Cựu. Một cuộc rước đông vui và hiếm có. Truyền thuyết giải thích nguồn gốc cuộc rước như sau: Khi An Dương Vương đắp thành thường bị yêu quái phá hoại. Bọn yêu quái tụ tập ở làng Nhồi. Sau nhờ có Trấn Thiên Huyền Vũ trừ hộ, thành mới xây xong. Dân làng Nhồi bèn rủ nhau lập đền thờ. Vì vậy hàng năm vua Thục lúc sinh thời thường đến đó bái tạ. Để ghi nhớ ngày này người ta đặt tục rước vua sống để tái hiện sự kiện kia (1). Hội Cổ Loa xưa thu hút rất đông người, người ta háo hức đến hội đến mức “bỏ con bỏ cháu, không bỏ mồng sáu tháng giêng”.
Giống như hội Gióng, Hà Nội còn có lễ hội tưởng niệm Hai Bà Trưng - một trong những vị nữ tướng được ghi đậm trong sử sách dân tộc, biểu hiện cho khí phách của người phụ nữ Việt Nam: đền nợ nước, trả thù nhà, giặc đến nhà đàn bà cũng đánh. Đây cũng là một hệ thống lễ hội liên quan đến cuộc đời hai bà từ khi sinh ra cho đến khi mất, ngày nay đã nằm trọn vẹn trên đất Hà Nội. Đó là hội đền Hạ Lôi vào ngày 6 tháng giêng, thuộc huyện Mê Linh, là nơi hai Bà sinh ra và khởi nghiệp; đến hội làng Hát Môn từ mồng 6 đến mồng 8-3 âm lịch là nơi hai bà chiến đấu và tuẫn tiết. Còn hội đền Đồng Nhân vào ngày 5-2 âm lịch, tuy đây không phải là quê hương hai bà, nhưng là nơi đón khí anh linh của hai bà sau khi chết (đã biến thành tượng đá xuôi theo dòng sông Hồng đến đây). Ngày hội hàng năm có lễ rước nước, kiệu rước do toàn nữ đảm trách. Đặc biệt, đám rước có đôi voi gỗ đi dẹp đường. Nước lấy ở giữa dòng sông Hồng đem về nấu trầm hương để bao sái tượng và để thờ cúng quanh năm.
Ngoài những lễ hội liên quan đến hai vị vua anh hùng trong lịch sử như hội làng Triều Khúc, thờ Phùng Hưng (Bố cái Đại vương 791) và lễ hội Đống Đa kỷ niệm trận đánh thần tốc của người anh hùng áo vải cờ đào đập tan mấy chục vạn quân Thanh vào TK XVIII (1788 - 1792), Hà Nội còn một số hội thờ các nhân vật lịch sử khác như hội vật Mai Động thờ ông Nguyễn Tam Trinh, một tướng của Hai Bà Trưng, được suy tôn là ông tổ của lò vật Mai Động, hội lễ Noi (Cổ Nhuế, Từ Liêm) thờ Đông Chinh Vương tướng quân, hội làng Vẽ (Đông Ngạc Từ Liêm) thờ Đông Xuyên Hầu, hội đền Trèm thờ Lý Ông Trọng, cũng như một loạt các lễ hội ở các vùng đất mới sáp nhập khác,...
5. Lễ hội của các vị thần bất tử
Bốn vị thánh bất tử được người Việt suy tôn thì Hà Nội đều thờ và trong đó có hai vị có nguồn gốc từ đây là thánh Gióng và Tản Viên sơn thánh ngự trên núi Ba Vì với hội đền Và một lễ hội lớn nhất về ông. Cả di tích và lễ hội đều có mô lớn trong những lễ hội của Việt Nam. Như vậy, có bốn vị thánh trong tứ bất tử thì Hà Nội ngày nay là nơi thờ phụng chính, có quy mô lớn nhất là hai vị thánh Gióng và Tản Viên. Chúa Liễu Hạnh được thờ chính ở Phủ Giầy, Nam Định và đây được coi là quê hương của bà, nhưng Hà Nội có phủ Tây Hồ, một trong những địa điểm thiêng liêng thờ bà. Lễ hội phủ Tây Hồ cũng là một lễ hội nổi tiếng không chỉ của thủ đô mà nhiều vùng trong cả nước biết đến. Những năm đầu thập niên 90 của TK XX phủ Tây Hồ là một trong bốn điểm đi lễ không thể thiếu được vào đầu xuân của những người làm ăn (phủ Tây Hồ, chùa Hà, bia Bà và đền bà Chúa Kho). Chỉ còn một vị thánh trong tứ bất tử mà Hà Nội không là nơi thờ chính đó là Chử Đồng Tử thì một vài xã trong huyện Gia Lâm cũng là nơi phối thờ với Đa Hòa và Dạ Trạch, Hưng Yên.
Thực tế cho thấy, bên cạnh hội Gióng với những truyền thuyết, di tích và lễ hội thờ phụng ngài một cách trọn vẹn trên đất Hà Nội, thì Tản Viên sơn thánh cũng là một trường hợp như vậy. Cùng với núi Ba Vì và đền Và, thì một hệ thống các di tích và lễ hội thờ ngài một số nằm trên đất Phú Thọ và Vĩnh Phúc, còn lại tất cả thuộc về Hà Nội hiện nay. Đây quả là một lợi thế rất to lớn của Hà Nội trong việc phát triển văn hóa và du lịch trong tương lai.
6. Những lễ hội chùa, phủ đậm đặc và nổi tiếng
Đây là một mảng lễ hội không nhỏ ở Hà Nội, nó chiếm một vị trí đáng kể trong sinh hoạt văn hóa của người Hà Nội. Những ngày hội như ở phủ Tây Hồ, đền Ghềnh, chùa Hà, chùa Quán Sứ, chùa Phúc Khánh,... vốn đã có tiếng tăm từ lâu đời. Nhiều hội chùa khác như Láng, Long Khánh, Pháp Vân, Mơ, Bà Đá,... được nhiều người biết đến. Ngày nay, Hà Nội có thêm những chùa nổi tiếng khác như Tây Phương, Thầy, Bối Khê... và đặc biệt là lễ hội hành hương lớn nhất của cả nước đã nằm trên địa phận Hà Nội, đó là hội chùa Hương- một lễ hội lớn nhất và dài nhất trong năm.
Đương nhiên mảng lễ hội không kém phần nổi trội trong lễ hội Hà Nội đó là những hội về sản xuất nông nghiệp và các ngành nghề thủ công, nhất là khi sáp nhập thêm cả xứ Đoài, một vùng đất trăm nghề vào đây. Mọi người đều rõ ngoài khu vực nội thành nhỏ hẹp, phần lớn Hà Nội là diện tích của các huyện ngoại thành, nơi cung cấp nhân lực, các nhu cầu cho thành phố. Những làng xung quanh thủ đô còn giữ được nhiều phong tục nhằm ghi nhớ công lao của những người đã có công khai phá, dạy bảo dân làm ăn để có đời sống ấm no. Một trong những lễ hội đó là hội làng Lệ Mật, kỷ niệm người con trai họ Hoàng đã có công khai phá vùng phía tây kinh thành. Hội làng Triều Khúc ngoài thờ Phùng Hưng còn thờ ông tổ nghề đơ, thao nổi tiếng ở đây. Hội thổi cơm thi ở làng Lương Quy, Đông Anh với những trò thi thổi cơm, bắt, thịt gà hấp dẫn, thú vị. Hội làng Sài Đồng với mục đích khuyến khích nghề nông,... Phải nói thêm rằng Hà Nội còn có hội chèo vùng Gối và hội tắt đèn Rã La mà ca dao xưa còn ghi rất đậm nét.
7. Lễ hội truyền thống trong đời sống xã hội hiện đại
Qua khảo sát những lễ hội truyền thống đang diễn ra trong xã hội hiện đại của Hà Nội, ta thấy có một thực tế như sau.
Cho đến nay, gần như hầu hết các lễ hội truyền thống trên mảnh đất trung tâm của cả nước này đều được khôi phục và khai thác phục vụ đời sống mới hiện tại của thành phố.
Do sự phát triển mạnh mẽ của đô thị cho nên các di tích càng ngày càng bị thu hẹp lại do bị lấn chiếm và sự thờ ơ của con người và sự không tôn trọng sự nghiêm minh của pháp luật. Phần nào cũng cần phải nói đến sự lơi lỏng của chính quyền sở tại, làm cho tính thiêng liêng của di tích cũng bị mai một. Từ đó dẫn đến không gian của lễ hội bị thu nhỏ lại, làm cho một số hoạt động và ý nghĩa của lễ hội cũng bị giảm đi. Điển hình là khu di tích Cổ Loa, với không gian rộng lớn như vậy mà còn bị xâm chiếm mất không ít diện tích để bây giờ thành phố đang tốn kém nhiều kinh phí cho việc giải tỏa.
Tùy theo mỗi địa phương, do điều kiện và truyền thống mạnh hay yếu mà họ giữ được nhiều hay ít không gian của di tích và lễ hội. Thực tế cho thấy, nơi nào có truyền thống làng xã mạnh (như Triều Khúc) thì không gian di tích được giữ gìn tốt hơn. Nơi nào đô thị hóa nhanh hơn và thiếu vai trò của truyền thống làng xã thì di tích bị xâm lấn mạnh hơn.
Việc tổ chức lễ hội ngày nay khi mà vai trò của các phe, giáp, dòng họ bị nhạt đi thì vai trò của các tổ chức chính quyền, đoàn thể tăng lên. Chính quyền đóng vai trò chính, nhưng nơi nào chính quyền biết dựa vào làng xã và dựa vào các yếu tố truyền thống thì những giá trị văn hóa được giữ gìn tốt hơn. Trường hợp như làng Triều Khúc, chính quyền hoàn toàn chỉ là bệ đỡ, là chất xúc tác, tạo điều kiện và phát huy tối đa vai trò của các tổ chức xã hội, thì lễ hội rõ ràng giữ được nhiều bản sắc truyền thống hơn.
Xu thế giảm bớt thời gian lễ hội chính thức với các thủ tục ngắn gọn, nhưng thời gian hội kéo dài tạo điều kiện cho khách thập phương có thể viếng thăm lễ hội nhiều hơn là một xu thế hiện thực. Do điều kiện cuộc sống hiện đại ngày nay không cho phép nên người ta có thể tranh thủ thời gian đến hội mà không đúng ngày chính hội, nhưng vẫn muốn được hưởng cái không khí thiêng liêng của nó nên việc lễ hội kéo dài thời gian đối với khách hành hương là cần thiết. Nắm bắt được nhu cầu ấy, nên một số nơi người ta có thể lặp lại những hoạt động của lễ hội để phục vụ du khách.
Từ đây dẫn đến vấn đề có vai trò tác động của nền kinh tế thị trường vào lễ hội truyền thống, sự tác động này sẽ càng ngày càng mạnh mẽ và nó cũng làm cho lễ hội có nhiều biến đổi. Một mặt nó phù hợp với đời sống mới, song mặt khác lại làm mất đi một số nét truyền thống mà có thể nhiều người trong chúng ta tiếc nuối, tuy nhiên đó là việc không thể tránh khỏi.
Cũng liên quan đến vấn đề kinh tế thị trường là nhờ vào đó mà không ít lễ hội và rất nhiều di tích, nhiều trò chơi, phong tục, nghi lễ... của lễ hội truyền thống đựơc khôi phục. Bởi vì, càng có nhiều điểm mới lạ và độc đáo trong một lễ hội, thì lễ hội đó càng thu hút được nhiều du khách đến dự. Sự đông đảo này của du khách giúp cho lễ hội nổi tiếng hơn và doanh thu từ nó cũng nhiều hơn.
Cũng từ đó mà dẫn đến việc thương mại hóa lễ hội diễn ra trong những năm gần đây mà báo chí đã nhắc đến khá nhiều. Theo chúng tôi, việc khai thác những giá trị văn hóa để phục vụ sự phát triển kinh tế là điểm tốt và cần được phát huy, nhưng khai thác để giá trị văn hóa ấy mất đi giá trị nhân văn của nó chỉ còn lại việc để lấy tiền thì lại là một vấn đề khác. Làm văn hóa để kiếm ra tiền mà vẫn giữ lại được những giá trị văn hóa là một vấn đề không dễ, còn biến văn hóa chỉ là cái cớ để kiếm tiền lại là một vấn đề cần hết sức tránh, vì như vậy lại là phản văn hóa.
Những nét văn hóa mới như các kỹ thuật hiện đại và các hoạt động văn nghệ, thể thao mới đang dần dần chiếm một vị trí đáng kể trong những lễ hội truyền thống hiện nay. Đây là một việc không thể tránh khỏi trong xã hội hiện đại, song vấn đề ở chỗ nồng độ của nó nhiều hay ít thì đòi hỏi vai trò của các nhà tổ chức và quản lý rất quan trọng.
Tiêu cực trong việc tổ chức lễ hội truyền thống hiện nay cũng là điều không thể tránh khỏi. Điều này cần có sự tham gia của trước hết là chính quyền địa phương, nhân dân sở tại, sau đó là các cơ quan quản lý cấp thành phố cũng phải có trách nhiệm.
Muốn nói gì thì nói, song phải công nhận một sự thật là vai trò của các lễ hội truyền thống trong đời sống xã hội hiện đại ở thủ đô là một thực tế không thể phủ nhận. Một mặt nó giải quyết vấn đề tâm linh cho hàng triệu người dân đang sinh sống ở đây, mặt khác nó góp phần làm cho bộ mặt văn hóa của thành phố sinh động và phong phú lên rất nhiều. Thử hỏi bất cứ một người dân Hà Nội nào xem đầu năm họ có tham dự vào ít nhất là một lễ hội trong khu vực hay không. Hơn thế nữa, khách vãng lai và khách quốc tế du lịch sinh sống tại Hà Nội cũng coi đây là một nét văn hóa mà họ cần tìm hiểu và hưởng thụ khi đến Hà Nội. Nhờ vào những lễ hội truyền thống ấy mà đời sống văn hóa của Hà Nội và bản đồ văn hóa của nó có thêm nhiều điểm đến cho tất cả du khách. Đó cũng là một lợi thế của thủ đô, nhất là khi nó được mở rộng thì bản đồ ấy sẽ thêm nhiều điểm son mới sinh động và phong phú hơn nhiều, góp phần cho đời sống văn hóa của thủ đô ngày càng đa dạng và hấp dẫn hơn.
8. Xu thế hội nhập quốc tế
Đây là xu thế không thể tránh khỏi của tất cả các nước trên thế giới và trong tất cả mọi giai đoạn phát triển của lịch sử. Tùy theo mỗi thời điểm mà độ đậm hay nhạt của nó ra sao mà thôi. Trong tình hình hiện nay, khi mà thế giới ngày càng liên kết với nhau chặt chẽ hơn thì sự hội nhập lại càng mạnh mẽ. Với sự phát triển của khoa học, của công nghệ thông tin và giao thông vận tải, thế giới trở nên vô cùng bé nhỏ và gần gũi. Người ta đã nói nhiều đến một làng toàn cầu để thấy sự nhỏ bé ấy của thế giới hiện đại. Bất cứ một sự kiện gì xảy ra ở một địa điểm xa nhất trên trái đất đều có những tác động nhất định đến các nước. Vì vậy, niềm vui hay nỗi buồn của nước này đều có tác động đến các nước xung quanh và toàn cầu. Do đó, sự ảnh hưởng, tác động lẫn nhau là không thể tránh khỏi giữa tất cả các nước trên thế giới. Hơn thế nữa, với tư cách là thủ đô của một quốc gia trên 80 triệu dân, lại đang trong quá trình hội nhập mạnh mẽ, nên Hà Nội sẽ du nhập nhiều các giá trị văn hóa của nhân loại, trong đó có các lễ hội. Một mặt, đây là nơi đầu mối của các mối giao thương, buôn bán, các quan hệ ngoại giao, chính trị đầu não, do đó mà tất các luồng văn hóa đều qua đây trước. Mặt khác, người nước ngoài sống ở đây sẽ ngày một nhiều lên do các mối quan hệ được mở rộng, họ cũng có những nhu cầu về các lễ hội liên quan đến họ như một sự gần gũi với quê hương, đồng thời để giới thiệu các sắc thái văn hóa của đất nước mình cho người Việt Nam, vì thế mà nhu cầu về văn hóa các nước du nhập vào sẽ mạnh lên. Người Việt Nam cũng có nhu cầu hiểu biết về các dân tộc khác, vả lại tiếp thu văn hóa nước ngoài vào càng làm đa dạng văn hóa của chúng ta, làm cuộc sống của chúng ta ngày một phong phú hơn; đồng thời tạo ra sự gần gũi, thân mật giữa chúng ta với bạn bè quốc tế, đó là chưa kể các lễ hội ấy như một sự quảng cáo văn hóa các nước để thu hút khách du lịch Việt Nam ra nước ngoài. Vì vậy, các lễ hội có tính quốc tế như Valentine, Giáng sinh... cho đến các lễ hội của các nước như lễ hội hoa anh đào của Nhật Bản, lễ hội văn hóa Nga... sẽ ngày một nhiều lên trong đời sống của người dân Hà Nội nói riêng và cả nước nói chung. Cũng vì thế mà ý nghĩa của khái niệm lễ hội ở đây sẽ được mở rộng hơn nhiều so với các lễ hội truyền thống trước đây, có lẽ đó cũng là một quy luật tất yếu của cuộc sống.
Không ai phủ nhận những ưu thế của sự hội nhập, trong đó có các lễ hội từ nước ngoài. Song, như chúng ta đã thấy, những ảnh hưởng tiêu cực vào đời sống văn hóa của Hà Nội cũng như cả nước dưới sự tác động của hội nhập không hề nhỏ, đặc biệt là lớp trẻ. Các cụ ta xưa có câu: "Học cái tốt thì lâu mà học cái xấu thì chóng", những cái xấu, cái tiêu cực của hội nhập lan nhanh như cỏ dại gặp mưa. Lớp trẻ rất nhanh chóng học những mốt lạ, lối sống không lành mạnh với thuần phong mỹ tục của cha ông, một lối sống thực dụng, sa đọa nhanh chóng đựơc một số thanh niên tiếp thu. Kinh tế thị trường làm cho sự phân hóa xã hội trở nên sâu sắc, sự cách biệt giữa người giàu và người nghèo ngày càng sâu thêm. Điều này nếu không được điều tiết sẽ dẫn đến những bất cập trong xã hội và dẫn đến những tiêu cực không thể lường hết được. Kinh nghiệm vào thị trường và hội nhập của chúng ta còn yếu, nền tảng xã hội chưa phù hợp, một giai đoạn dài bận bịu với chiến tranh và cuộc sống nên việc giáo dục gia đình cũng như xã hội chưa được quan tâm đúng mức. Cho nên, khi bước vào sự hào nhoáng ồ ạt của kinh tế thị trường và nhìn ra thế giới có cái gì đó làm không ít người trong chúng ta bị sốc, huống hồ đến lớp trẻ chưa được chuẩn bị kỹ lưỡng. Điều đó tất yếu gây nên sự hụt hẫng, hoang mang, thiếu bản lĩnh trước những thử thách của cuộc sống, dẫn đến vấp ngã cũng là sự thường tình. Vì thế, ở đây vai trò của Hà Nội là rất lớn. Hà Nội sẽ như một bộ lọc tất cả các luồng văn hóa từ nước ngoài vào Việt Nam, kiểm tra, chắt lọc, lựa chọn rồi phổ biến nó ra cả nước. Có như vậy mới thể hiện rõ vai trò đầu tàu, và xứng đáng là người Hà thành thanh lịch và văn minh. Muốn như vậy phải là người có bản lĩnh vững vàng để sàng lọc, lựa chọn được cái hay, cái đẹp của thế giới đưa nó vào cuộc sống của mình và từ đó là tấm gương cho cả nước.
Báo chí đã nói nhiều đến một lễ hội hoa anh đào của Nhật Bản tại Hà Nội với nhiều hành động không đẹp, nhất là của các bạn trẻ ngày hôm đó như trèo lên để vặt hoa, tranh nhau cướp lấy một cành anh đào, công kênh nhau để cướp lấy một chiếc đèn lồng, rồi chuyện ăn uống, ứng xử... thật không đẹp mắt một chút nào trước con mắt của những người nước ngoài có mặt tại lễ hội. Những thói đua đòi thái quá trong sinh hoạt khi bắt chước một lối sống, ăn chơi theo kiểu nước ngoài nhân những ngày hội như các loại quà Giáng sinh hay quà Valentine đắt tiền, chơi trội khác người, những kiểu tỏ tình nổi đình nổi đám trong giới sinh viên, thói ăn chơi của con nhà giàu... Tất cả những cái đó xa lạ với thuần phong mỹ tục của dân tộc, mất đi nét thanh lịch của người Tràng An, tạo ra một hình ảnh không tốt trước bè bạn quốc tế. Mặt khác nó cho ta thấy một sự bức bối, phá phách của một bộ phận lớp trẻ hiện nay, do ảnh hưởng của lối sống phương Tây, đồng thời cũng cho thấy một sự giáo dục của các bậc cha anh trong gia đình và ngoài xã hội còn có nhiều vấn đề cần phải chấn chỉnh. Điều này đang được dư luận bàn đến nhiều trong việc cải cách giáo dục. Phải chăng có một thời điểm nào đó chúng ta tạo ra một xu thế dân chủ quá đà trong cách sống của con em mình, những bài học đạo đức giáo điều, cứng nhắc, hời hợt được dạy theo lối học vẹt. Giáo dục gia đình bị xao nhãng, phó thác tất cả cho nhà trường, cho xã hội. Kỷ cương trong gia đình, nhà trường và xã hội đôi khi bị coi thường, lối sống tập thể lấn át cuộc sống riêng tư, cá nhân tạo ra những con người khô cứng, máy móc và thụ động, con người bị gò mình vào những khuôn mẫu nhẫn nhục, mất đi sự sáng tạo. Cho nên, khi được bung ra nó như một cái lò so bị dồn ép lâu ngày nay bật tung lên không còn dừng lại được nữa. Thực tế những vấn đề xảy ra trong thời kinh tế thị trường này đã cho thấy những sự mất phương hướng, sự thiếu bản lĩnh và hoang mang của một bộ phận thanh niên, vì thế mà họ không còn sáng suốt và tỉnh táo trước những thay đổi quá nhanh và ồ ạt của cuộc sống. Sự thiếu bản lĩnh ấy rất dễ làm cho họ không thể phân biệt được phải trái trước những tác động từ bên ngoài vào. Điều đáng buồn là những điều không vui ấy lại diễn ra ngay giữa thủ đô trước mắt bạn bè nên đôi khi tạo ra những phản cảm và ảnh hưởng không tốt đến hình ảnh đất nước. Đây là điều chúng ta phải lưu ý trong khi tổ chức các lễ hội mới du nhập từ nước ngoài.
9. Tổ chức các lễ hội mới càng ngày sẽ càng được coi trọng
Trong thời gian tới, ngoài các lễ hội truyền thống thường niên của thành phố, với vị trí của mình Hà Nội sẽ có điều kiện để tổ chức những loại lễ hội mới như: lễ hội nhân dịp các sự kiện quốc tế tại Việt Nam, lễ hội nhân dịp các sự kiện trọng đại của đất nước, lễ hội văn hóa các vùng miền trong cả nước, lễ hội xuân hay nhân các sự kiện trọng đại của thủ đô...
Đây là niềm vinh dự nhưng cũng là trách nhiệm rất nặng nề của người Hà Nội. Đối với những lễ hội lớn như vậy, vấn đề tổ chức được đặt ra vô cùng quan trọng. Thực tế như ở Huế hay các nước trên thế giới, điều này như là một công nghệ tổ chức lễ hội rồi. Do vậy, dù không làm như các nước khác theo một mô hình: đạo diễn giỏi, đội ngũ marketing tốt và tìm kiếm nguồn tài trợ, thì ban tổ chức của chúng ta cũng được hình thành gần như vậy. Vấn đề là hình thành ban tổ chức ấy ra sao để đạt được hiệu quả tốt nhất. Theo chúng tôi một số bước cần được thực hiện như sau:
Đặt ra mục đích yêu cầu của lễ hội (hoặc mục đích yêu cầu đã được đặt trước thì xử lý trên mục đích yêu cầu ấy), nên lựa chọn theo các vấn đề đặt ra trong bối cảnh đó mà đặt ra một chủ đề cho lễ hội. Chẳng hạn lễ hội xuân 2009 chủ đề là Hà Nội - nơi hội tụ tinh hoa của cả nước là chủ đề xuyên suốt của toàn bộ lễ hội.
Tìm đạo diễn giỏi cho việc thực hiện. Người đạo diễn này phải hiểu biết sâu sắc chủ đề được đặt ra, thực sự có tâm huyết với nó và phải có những quyền tối đa, nhưng cũng phải chịu trách nhiệm về sự ưu đãi đó.
Đạo diễn tìm người xây dựng kịch bản cho lễ hội của mình, sau đó trình hội đồng khoa học xét duyệt kịch bản và ý đồ của đạo diễn. Đương nhiên, hội đồng phải bao gồm những người am hiểu và tâm huyết với công việc này và phải gắn trách nhiệm của họ vào đó.
Sau khi ý đồ và kịch bản được phê duyệt, ban tổ chức sẽ tạo điều kiện tối đa cho đạo diễn để ông ta thực hiện ý đồ của mình. Lúc ấy, trên cơ sở kịch bản mà tổ chức các ban, các bộ phận để phục vụ tổng đạo diễn và có thể có các đạo diễn của từng phần. Vai trò quan trọng của ban tổ chức lúc này là sự điều phối, lo huy động kinh phí (ngân sách và tài trợ), nhân lực và tất cả các vấn đề sự vụ khác để tạo điều kiện tốt nhất cho đạo diễn và các phụ tá của ông ta. Vì thế, ban tổ chức được chia thành nhiều bộ phận khác nhau để lo các công việc mà thiếu những bộ phận ấy thì dù ông đạo diễn có giỏi bao nhiêu cũng không thể hoàn thành được nhiệm vụ.
Vấn đề quan trọng qua kinh nghiệm của các nước đó là vai trò của vị tổng đạo diễn và việc phân chia trách nhiệm rõ ràng trong ban tổ chức. Qua các lần tổ chức gần đây, Hà Nội đã có nhiều kinh nghiệm trong việc này và đã có những kết quả nhất định.
Có một điều cần nhấn mạnh là vai trò của các nhà nghiên cứu trong việc đóng góp vào tổ chức lễ hội, đặc biệt là các lễ hội văn hóa, lịch sử. Sự tham gia của họ sẽ tránh được những bất cập và sự sai sót không đáng có trong nội dung các lễ hội. Vì vậy sự đóng góp của họ cần được chú trọng trong mọi trường hợp.
Dựa trên tất cả những cứ liệu đã nêu, trong điều kiện hiện nay Hà Nội có một tiềm năng lớn để khai thác những hoạt động văn hóa dân gian của thủ đô. Do chính sách mở cửa của nhà nước, số khách trong và ngoài nước tập trung tới đây để làm ăn, thăm viếng nhiều, điều kiện du lịch phát triển càng lớn. Còn gì thú vị hơn đối với khách đến đây sau những giờ làm việc mệt nhọc được đi xem những lễ hội dân gian nhiều màu vẻ của thủ đô, đi thăm những di tích lịch sử, văn hóa trong nội và ngoại thành để thư dãn và giải trí, tăng thêm sự hiểu biết về đất nước, con người Việt Nam. Một kiểu du lịch tại chỗ mà đối với bất cứ nhà kinh doanh nào nếu biết tận dụng đều thấy những triển vọng đáng quý.
Trong thời buổi kinh tế thị trường thì lễ hội như một sản phẩm hàng hóa cao cấp đem lại không ít lợi nhuận cho những người tổ chức. Sự tham gia của hàng vạn lượt người tại một địa điểm và thời gian nhất định sẽ là cơ hội tốt cho công việc làm ăn. Từ việc đáp ứng các nhu cầu sinh hoạt, ăn uống, giải trí, mua bán sản phẩm văn hóa và sản phẩm tiêu dùng cho những người dự hội, đến việc họ tham gia những cuộc chơi, cuộc đua tài... đều có thể là những ý tưởng kinh doanh tốt cho ban tổ chức. Đây là dịp các công ty, nhà hàng, doanh nghiệp quảng cáo những sản phẩm hàng hóa của mình trước một số lượng khách hàng khổng lồ. Tuy nhiên không phải là những biển quảng cáo loè loẹt hay ầm ĩ, mà phải có tính văn hóa của nó dưới các hình thức đa dạng như túi, áo, mũ hàng hóa có mang nhãn hiệu công ty... Sự quảng cáo càng có văn hóa càng đạt được hiệu quả cao. Làm sao mà khách hàng vẫn thấy sự hiện diện của công ty anh nhưng là gần như là một sự tự nhiên hay vô tình, mà lại để lại ấn tượng thật tốt về hình ảnh của nó, đó là tài năng của các nhà quảng cáo. Đây là sự kết hợp hài hòa giữa ban tổ chức và các nhà doanh nghiệp để sắp xếp nhưng khu vực phù hợp cho mỗi doanh nghiệp, xem xét mặt hàng được bày bán hay quảng cáo, mức độ tham gia của các công ty...
Tổ chức và khai thác tốt các lễ hội dân gian cũng là dịp kêu gọi, thức tỉnh lòng hảo tâm của khách thập phương và bà con Việt kiều ủng hộ việc tôn tạo các di tích. Sự tài trợ của các doanh nghiệp, công ty hay tổ chức xã hội cũng là dịp mà ban tổ chức lễ hội có thể kêu gọi nhân dịp này. Từ đó có thể làm thêm những công việc từ thiện đối với các gia đình khó khăn, trẻ mồ côi, người tàn tật, già yếu không nơi nương tựa.
Hà Nội là nơi duy nhất sẽ có những lễ hội lớn mang tính chất quốc gia như các ngày lễ lớn, ngày văn hóa các dân tộc, hội khỏe Phù Đổng,... Cũng như các lễ hội cung đình xưa, đây vừa là niềm tự hào, song cũng là trách nhiệm nặng nề của Hà Nội. Cho đến nay, chúng ta chưa có một mô hình tối ưu nào để tổ chức một lễ hội hiện đại. Mặt khác, đứng về mặt phong tục chúng ta cũng không có một lễ hội Phật giáo với đám rước tượng Phật đầy uy nghi, trang trọng đèn, hoa đi diễu hành qua các phố phường như Bangkok và một số thủ đô khác ở châu Á, không có một lễ nghề nghiệp với đám rước là một cuộc phô diễn những thành tựu công nghiệp hiện đại của kỹ thuật Nhật Bản như ở thủ đô Tokyo và vài thành phố lớn khác... Do đó, vấn đề đặt ra ở việc tổ chức các lễ hội mới, theo chúng tôi là việc khai thác các chất liệu của lễ hội dân gian như thế nào, để lễ hội mới vừa long trọng, mang bản sắc dân tộc, mà không kệch cỡm đối lập nhau giữa truyền thống và hiện đại. Phải chăng nên tùy theo tính chất và mục đích của từng ngày hội mới mà gia giảm phần lễ hội dân gian sao cho hợp lý. Một lễ hội văn hóa các dân tộc Việt Nam ắt phải cần nhiều các chi tiết phong tục, tập quán văn hóa dân gian hơn một ngày quốc khánh, tổ chức lớn vào những năm chẵn. Và ở lễ hội quốc khánh ấy, thì phần lễ rước những thành tựu lao động sản xuất lại cần thiết hơn bao giờ hết. Càng thú vị biết bao khi đám rước đó được sử dụng các phương tiện hiện đại như xe máy lớn, các thiết bị điện tử, các hệ thống điều khiển tự động,... Còn ở một hội khỏe Phù Đổng toàn quốc lại là nơi có thể triệt để khai thác các trò chơi dân gian, các môn võ cổ truyền của dân tộc.
Ở đây còn có sự phối hợp nhịp nhàng và chặt chẽ giữa những người làm công tác tổ chức, các nhà nghiên cứu khoa học và nghệ thuật, có như vậy mới đạt được những kết quả mong muốn. Phải nói rằng, cho đến nay lễ hội dân gian ở nước ta nói chung, ở Hà Nội nói riêng, chủ yếu vẫn diễn ra ở làng, trong một không gian nhỏ hẹp. Do đó, nếu đặt một lễ hội dân gian vào quy mô một thành phố lớn, nó rất dễ bị loãng, nhạt, không có ý nghĩa. Chính vì vậy việc xem xét kết hợp hài hòa các yếu tố của nó trong một lễ hội hiện đại là một việc cần được chú ý đầu tư một cách thích đáng. Có như vậy chúng ta sẽ có những lễ hội hiện đại vừa công phu, hoành tráng song lại mang bản sắc dân tộc rõ nét. Điều đó không chỉ là niềm cổ vũ động viên nhân dân thủ đô và cả nước mà còn thu hút không ít khách quốc tế.
Hà Nội hoàn toàn có cơ hội và điều kiện để làm được việc đó. Nếu biết tổ chức và khai thác tốt nó không chỉ làm cho bộ mặt văn hóa thủ đô phong phú, đa dạng mà còn tạo được nguồn lợi lớn cho du lịch. Tất nhiên mọi cái đều có mặt trái của nó, với cơ chế thị trường hiện nay, trong văn hóa cũng không kém phần phức tạp như việc bung ra không kiềm chế nổi của những hủ tục cũ, những mê tín dị đoan. Việc phân biệt cho rành rẽ đâu là tín ngưỡng, đâu là mê tín, mức độ khôi phục các nghi thức cũ đến đâu, thời gian, không gian, tế lễ, vấn đề công đức,... đều là những điều đáng quan tâm.
Nguồn: Tạp chí VHNT số 310, tháng 4-2010, số 311, tháng 5-2010
____________________________
1. Trịnh Cao Tưởng, Trịnh Sinh, Hà Nội thời đại đồng và sắt sớm, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1982, tr 64.