Toàn tỉnh có 274 xã, thị trấn thì có tới 260 lễ hội, trong đó có 223 lễ hội truyền thống, 5 lễ hội tôn giáo và 32 lễ hội lịch sử cách mạng. Qua khảo sát và nghiên cứu thực tế ở 13 huyện thị thành của tỉnh cho thấy các lễ hội truyền thống tập trung nhiều ở vùng Việt Trì, Lâm Thao, Phù Ninh.
Các lễ hội truyền thống vùng đất tổ có những đặc điểm riêng thể hiện đời sống sản xuất vật chất, tinh thần, các phong tục tập quán, tín ngưỡng... của cư dân nông nghiệp.
Tái hiện và gắn liền với sinh hoạt nông nghiệp của cư dân
Các lễ hội gắn liền với thờ lúa thần, rước lúa thần, lễ hội tịch điền, lễ hội thờ thần sông như lễ hội đền Bạch Hạc, lễ rước lúa thần trong lễ hội trò trám, lễ hội xuống đồng... đã thể hiện cuộc sống nông nghiệp, chủ yếu trồng trọt và công cuộc chế ngự thiên nhiên, đắp đê ngăn nước, phòng chống lũ lụt và mong ước của người dân cầu mong mưa thuận gió hòa cây cối tốt tươi, mùa màng bội thu, vạn vật sinh sôi nảy nở. Các hoạt động tế lễ, rước, các bài văn tế, các trò diễn đều có sự gắn kết với nông nghiệp, với nền văn minh lúa nước. Lễ hội đền Hùng không chỉ để tưởng nhớ công lao các vua Hùng mà còn đậm đặc tín ngưỡng nông nghiệp. Ở vùng Phú Thọ có nhiều lễ hội và truyền thuyết về vua Hùng dạy dân cấy lúa. Truyền thuyết kể rằng hàng năm các vua Hùng vẫn lên đền Thượng để gọi vía lúa và quanh vùng đền Hùng nhiều lễ hội có tục lấy tiếng hú, hoặc trong lễ hạ điền (lễ xuống đồng) của cư dân vùng Phú Thọ vẫn thường đọc bài gọi vía lúa... Tục lấy tiếng hú, rước tiếng hú xuất hiện trong nhiều lễ hội. Tiếng hú là một loại ngôn ngữ tín hiệu, trong thời kỳ săn bắn hái lượm con người có thể coi tiếng hú là tín hiệu có giá trị như một báu vật thiêng của người Việt cổ để họ tìm nhau. Trong nhiều lễ hội người ta đã dùng tiếng hú trong nghi lễ có thể gắn với săn bắn, tín ngưỡng phồn thực như hú tùng dí, tục rước ông khiu bà khiu hoặc trong các nghi lễ khác như trong lễ hội rước chúa gái. Ngay cả lễ hội múa mo Nam Cường, một lễ hội tôn giáo thờ công chúa Xuân Nương (thời Hai Bà Trưng), mang tính nghệ thuật nhưng cũng là để tôn kính thần nông và cũng dùng tiếng hú. Khi mọi thứ chuẩn bị đầy đủ đội hình chỉnh tề chủ tế quần trắng, áo xanh, mũi tế, chân đi hia, đứng bên hương án hô: "Hú hú hô, hú hú hô, múa mo đã về!”. Trai gái hai hàng cũng hú theo nhắc lại 3 lần. Chúa mo bỏ hương, rút cờ múa, rồi hát mừng sĩ, nông, công, thương... Trai gái làng hú theo cầu chúc cho tứ dân khang thịnh, mùa màng tốt tươi.
Bên cạnh đó, còn có nhiều làng xã tổ chức đánh cá thờ. Để nhớ ơn các vị thần linh đã thường xuyên phù trợ cho mình có cá ăn. Ở Tứ Xã, Lâm Thao có tục đánh cá để thờ và quy định hẳn một khu đồng và một ngày 11 tháng chạp hàng năm cả dân làng ra đánh cá ở đồng Láng để thờ thần nên gọi là hội đánh cá Láng thờ. Ở làng Đào Xá, Thanh Thủy cũng mở hội đánh cá vào ngày 28 tháng giêng.
Nhìn chung các lễ hội truyền thống ở vùng quê đất tổ đã phản ánh, tái hiện cuộc sống của cư dân nông nghiệp thời Việt cổ, từ cuộc sống săn bắt, đến trồng trọt nông nghiệp và mọi sinh hoạt khác của cư dân. Tất cả đều được tái hiện khá đầy đủ và phong phú ở từng dạng lễ hội khác nhau, phản ánh một xã hội nông nghiệp một nền văn minh lúa nước vùng châu thổ sông Hồng rực rỡ.
Gắn với tín ngưỡng thờ cúng các vua Hùng. Khảo sát lễ hội của 13 huyện, thị, thành trong tỉnh cho thấy: toàn tỉnh có 228 lễ hội truyền thống thì có trên 150 (chiếm hơn 60%) lễ hội mà đối tượng tưởng niệm là các vua Hùng và các tướng lĩnh thời vua Hùng như Tản Viên Sơn Thánh, Tam Lang Đại Vương (con vua Hùng thứ 3), Hùng Quốc Vương, Hùng Hoa Vương, Hùng Hy Vương; Cao Sơn, Quý Minh, Quý Ất, Bạch Ninh, Canh Công (thời Hùng Vương thứ 18); tập trung nhiều nhất là các huyện Lâm Thao 17/23 lễ hội, Phù Ninh 19/24, Việt Trì 17/31, Cẩm Khê 19/30. Sự kiện này cho thấy vua Hùng và các tướng lĩnh thời đại các vua Hùng là những nhân vật thiêng, có công lao to lớn trong việc khai sơn phá thạch giúp dân phòng chống thiên tai bảo vệ nhân dân, được nhân dân thờ phụng và trở thành đức tin trong tiềm thức của người Việt cổ từ xa xưa truyền lại cho tới hôm nay. Các lễ hội truyền thống đã tái hiện lại cuộc sống người Việt cổ từ thời đại Hùng Vương các hoạt động săn bắn, đánh cá, trồng trọt... Trong các lễ hội này cả phần lễ và phần hội đều thể hiện tín ngưỡng thờ cúng tôn vinh các vua Hùng và tướng lĩnh. Phần lễ hầu hết đều có lễ tế, lễ rước, bài văn tế các vua Hùng. Phần hội là các trò diễn dân gian tái hiện cuộc sống cư dân và thời đại Hùng Vương như vua Hùng kén rể, vua Hùng đi săn, vua Hùng dạy dân cấy lúa, Sơn Tinh rước Ngọc Hoa về Tản Viên, cuộc chiến chống thiên tai bão lũ, chống giặc ngoại xâm... Vì thế lễ hội truyền thống có giá trị như một kho báu sống về lịch sử thời đại các vua Hùng.
Ngoài các lễ hội mà nhân vật được tưởng niệm là vua Hùng và các tướng lĩnh thời Hùng Vương thì còn lại chủ yếu là tưởng niệm tôn vinh các vị vua và tướng lĩnh trong các thời kỳ, thờ Hai Bà Trưng và các tướng lĩnh, công chúa thời Hai Bà Trưng như lễ hội đình mộ Chu Hạ, thờ vua Lê Đại Hành, lễ hội đền Thượng và lễ hội đền Sa Lộc cùng thờ tướng Lân Hổ Hầu TK XIII. Huyện Tam Nông có lễ hội đền, chùa, đình Hiền Quan, lễ hội làng Hương Nha, lễ hội Nam Cường, lễ hội đình Phú Cường, lễ hội cầu trâu, lễ hội đình Gia Dụ đều thờ Xuân Nương công chúa là nữ tướng thời Hai Bà Trưng.
Chủ yếu được tổ chức vào mùa xuân
Lễ hội truyền thống ở Phú Thọ chia theo mùa
Tên đơn vị |
Tổng số lễ hội |
Chia ra theo mùa |
|||
Mùa xuân |
Mùa hạ |
Mùa thu |
Mùa đông |
||
Việt Trì |
31 |
24 |
3 |
3 |
1 |
Phú Thọ |
14 |
8 |
1 |
1 |
4 |
Cẩm Khê |
30 |
30 |
0 |
0 |
0 |
Đoan Hùng |
12 |
11 |
0 |
1 |
0 |
Lâm Thao |
23 |
23 |
0 |
0 |
0 |
Hạ Hòa |
13 |
13 |
0 |
0 |
0 |
Thanh Ba |
13 |
13 |
0 |
0 |
0 |
Tam Nông |
31 |
27 |
0 |
3 |
1 |
Yên Lập |
6 |
6 |
0 |
0 |
0 |
Thanh Sơn |
18 |
16 |
0 |
0 |
2 |
Thanh Thủy |
14 |
13 |
0 |
1 |
0 |
Phù Ninh |
24 |
21 |
3 |
0 |
0 |
Cộng |
228 |
204 |
7 |
9 |
8 |
Nguồn: Tác giả thống kê
Biểu thống kê trên cho thấy toàn tỉnh có 204/228 lễ hội được tổ chức vào mùa xuân chiếm 89,4% tổng số lễ hội, vào mùa hạ 7/228 chiếm 3%, vào mùa thu 9/228 chiếm 4%, vào mùa đông 8/228 chiếm 3,5%. Quan sát và theo dõi các lễ hội truyền thống trong mùa xuân lại thấy chủ yếu được tổ chức nhiều vào tháng giêng. Sự phân bố không đều về thời gian trong năm mà chủ yếu tập trung vào mùa xuân cho thấy sự liên kết ảnh hưởng chặt chẽ của lễ hội truyền thống với sản xuất nông nghiệp và nghề trồng lúa nước. Nghề làm lúa nước phải phụ thuộc vào thiên nhiên mùa vụ, phụ thuộc vào thời tiết, sau một vụ nông nghiệp cấy hái xong, cư dân mới có thời gian để hội hè. Trong nghề nông, tháng giêng là tháng nông nhàn, thời tiết lại bắt đầu ấm áp, nhân dân mới có dịp để mở hội.
Gắn với di tích đình, đền, chùa
Lễ hội truyền thống ở Phú Thọ gắn với di tích
Tên đơn vị |
Tổng số |
Địa điểm tổ chức lễ hội |
|||
Đình |
Đền |
Chùa |
Nơi khác |
||
Việt Trì |
31 |
18 |
11 |
0 |
3 |
Phú Thọ |
14 |
11 |
3 |
0 |
0 |
Cẩm Khê |
30 |
21 |
8 |
0 |
1 |
Đoan Hùng |
12 |
12 |
0 |
0 |
0 |
Lâm Thao |
24 |
16 |
5 |
0 |
3 |
Hạ Hòa |
13 |
10 |
3 |
0 |
0 |
Thanh Ba |
13 |
13 |
0 |
0 |
0 |
Tam Nông |
31 |
14 |
11 |
1 |
7 |
Yên Lập |
6 |
3 |
0 |
0 |
3 |
Thanh Sơn |
18 |
11 |
0 |
0 |
7 |
Thanh Thủy |
14 |
9 |
9 |
0 |
2 |
Phù Ninh |
24 |
21 |
1 |
0 |
2 |
Cộng |
228 |
159 |
51 |
1 |
28 |
Nguồn: Tác giả thống kê
Biểu thống kê trên cho thấy có 159/228 chiếm 69% lễ hội truyền thống được tổ chức ở đình, 51/228 được tổ chức ở các đền, miếu còn 28 lễ hội được tổ chức ở các nơi khác.
Đình làng là nơi thờ thành hoàng, là nơi sinh hoạt cộng đồng, các nhân vật được thờ cúng tưởng niệm đều là những nhân vật thiêng có công có đức với dân được coi là thành hoàng làng, vùng Phú Thọ chủ yếu là thờ Tản Viên Sơn Thánh, Quý Minh Đại Vương... được nhiều làng thờ phụng ở đình coi là thành hoàng che chở phù hộ cho muôn dân. Một số ít lễ hội được tổ chức cả ở đình và đền như lễ hội đình, đền Đào Xá thờ Hùng Hải Công ở đình và 3 vị thủy thần ở đền húy là Tam Công, con của Hùng Hải Công hoặc lễ hội đền, đình La Phù thờ Tản Viên Sơn Thánh, Đệ tam thủy thần. Có một số ít lễ hội tổ chức ở cánh đồng, bãi sông như các lễ hội cướp kén, ném còn, múa mỡi, đánh trống đu, bơi chải...
Các lễ hội truyền thống được tổ chức ở đình, đền đều có lễ tế, rước kiệu và các trò diễn dân gian. Việc tổ chức các lễ hội chủ yếu tập trung ở đình cho thấy sự lôgic trong tín ngưỡng dân gian người Việt cổ là sự tin tưởng vào thế giới tâm linh, gửi gắm niềm tin vào sự che chở của vua Hùng và tổ tiên và là một hoạt động chung của cộng đồng toàn thể làng xã nông thôn. Nó khẳng định giá trị đoàn kết, cố kết cộng đồng của lễ hội, sự cộng mệnh, cộng cảm sẽ làm cho tinh thần đoàn kết cộng đồng được chặt chẽ hơn.
Tín ngưỡng phồn thực và tục thờ lễ sinh thực khí
Đó là tín ngưỡng của người trồng trọt, bắt đầu từ nghề trồng lúa nước. Tín ngưỡng phồn thực có nét đặc thù là biểu hiện thông qua hình tượng sinh thực khí và hành động tính giao nam nữ. Ở Phú Thọ, nhất là khu vực quanh đền Hùng như Lâm Thao, Phù Ninh, Việt Trì, Tam Nông có rất nhiều lễ hội với tín ngưỡng phồn thực và tục thờ sinh thực khí với nhiều dạng thức khác nhau. Nhưng các nghi lễ đều xung quanh trục giao phối nam nữ, hòa hợp âm dương và biểu tượng chủ yếu là hình tượng, vùng Phú Thọ gọi là nõ và nường (Linga và Yoni). Tín ngưỡng phồn thực và lễ hội sinh thực khí ở Phú Thọ biểu hiện ở nhiều hình thức, điển hình là thờ lễ sinh thực khí không rước hoặc rước ở vùng Lâm Thao, Tam Nông. Thờ nõ - nường còn gọi là vật linh, người ta gọi là lễ linh tinh tình phộc, khi chủ tế hô linh tinh tình phộc thì đôi trai gái (nam cầm nõ, nữ cầm nường) chạm hai vật linh vào nhau. Ở Hương Nha, cũng diễn ra lễ hội tương tự nhưng có rước vật linh, khi hai đoàn rước gặp nhau thì mỗi bên cầm một vật linh, đôi trai gái chạm nõ nường vào nhau ba lần với những câu hát "cái sự làm sao, cái sự làm vầy ”. Tín ngưỡng phồn thực còn thể hiện dưới các hình thức cướp kén, là một cặp nõ - nường. Nhiều địa phương tổ chức trò cướp kén vào những ngày đầu xuân như huyện Tam Nông các xã Dị Nậu, Cổ Tiết vào tháng giêng tổ chức treo khoảng 20 -30 cặp nõ - nường trên cành tre, sau khi tổ chức tế lễ xong thì rung cành tre cho mọi người vào cướp, ai cướp được thì đem về nhà để vào đầu giường để hoặc treo giàn bầu, giàn bí cho sai quả. Tín ngưỡng phồn thực còn thể hiện dưới các hình thức nghệ thuật như múa tùng dí, một nghi lễ tính giao được nghệ thuật hóa. Trong lễ hội rước chúa gái, thị trấn Hùng Sơn, huyện Lâm Thao có trò múa tùng dí, ba cặp trai gái múa với các đòn gánh buộc xôi ngô, bông lúa vừa ưỡn người vừa làm động tác dí vào nhau sau mỗi tiếng trống tùng. Tín ngưỡng phồn thực và thờ lễ sinh thực khí ở vùng đất Tổ gắn với các hoạt động nông nghiệp. Thường sau lễ rước hoặc lễ tế vật linh xong thì có các trò trình nghề hoặc nếu được nghệ thuật hóa trong các điệu múa thì các hoạt động này cũng thể hiện sự gắn kết với nền nông nghiệp lúa nước, tức là qua các hoạt động tính giao để cầu mong cho con người thịnh vượng, mùa màng tốt tươi.
Có thể thấy tín ngưỡng phồn thực và tục thờ lễ sinh thực khí ra đời vào thời kỳ Hùng Vương dựng nước khi tư liệu phục vụ sản xuất và chiến đấu bảo vệ con người còn thiếu thốn cho nên việc cầu mùa, cầu đinh là ước mong cao nhất của nhân dân Văn Lang.
Với năm đặc điểm trên, lễ hội truyền thống vùng đất Tổ thực sự là một kho tàng văn hóa về thời Hùng Vương dựng nước.
Nguồn: Tạp chí VHNT số 311, tháng 5-2010