Trong hơn ba thập niên qua, công tác điền dã và khai quật khảo cổ học, đặc biệt là việc nghiên cứu giai đoạn tiền sơ sử ở Khánh Hòa đã liên tục được quan tâm và có nhiều thành tựu đáng ghi nhận. Nhiều di tích được phát hiện, khảo sát, khai quật và nghiên cứu. Chúng đã đưa lại một khối lượng tư liệu khá lớn, cho phép chúng ta hình dung một cách khá toàn diện về các đới văn hóa giai đoạn tiền sơ sử ở Khánh Hòa. Từ đó, có thể tìm hiểu về vai trò và vị trí của các đới văn hóa đó trong mối quan hệ với khu vực miền Trung,Việt Nam và xa hơn.
Trên cơ sở tư liệu của các đồng nghiệp ở Bảo tàng Khánh Hòa, Viện Khảo cổ học, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, Trung tâm Khảo cổ học (Viện Phát triển bền vững vùng Nam Bộ), Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Hà Nội và tư liệu của chính các tác giả tích lũy trong những năm công tác vừa qua, các tác giả bài viết muốn nêu rõ những đặc trưng nổi bật của các đới văn hóa tiền sơ sử trên đất Khánh Hòa. Đồng thời, đặt chúng trong mối quan hệ với khu vực để thấy được vị trí, cũng như các con đường giao lưu văn hóa giữa vùng đất Khánh Hòa với các khu vực khác xung quanh ngay từ buổi bình minh của lịch sử.
2. Nhận diện các đới văn hóa tiền sơ sử ở Khánh Hòa
Nghiên cứu giai đoạn tiền sơ sử ở Khánh Hòa, ta có thể nhận thấy có 3 nhóm di tích mang đặc trưng khác nhau. Đó là văn hóa Xóm Cồn, cụm di tích Hòa Diêm và di tích mộ chum Diên Sơn. Về mặt niên đại, hai nhóm di tích Hòa Diêm và Diên Sơn có cùng bình tuyến lịch sử. Ngược lại, văn hóa Xóm Cồn là nhóm có niên đại sớm hơn hẳn. Đứng từ góc độ truyền thống văn hóa, ba nhóm này có những đặc trưng văn hóa mang tính khác biệt rất lớn.
2.1. Văn hóa Xóm Cồn
Văn hóa Xóm Cồn lấy theo tên di tích Xóm Cồn, di tích đầu tiên được phát hiện vào năm 1979. Từ đó đến nay, gần 20 di tích thuộc nền văn hóa này đã được phát hiện. Gần một nửa trong số đó đã được khai quật nghiên cứu.
Kết quả ghi nhận 20 di tích này thuộc nền văn hóa Xóm Cồn có địa bàn phân bố chính yếu ở vùng ven biển và đảo ven bờ của tỉnh Khánh Hòa. Trong số đó, chỉ có 3 di tích nằm ở vùng ven biển Ninh Thuận.
Các di tích văn hóa Xóm Cồn dù ở đất liền hay ở các đảo ven bờ đều phân bố trên các cồn cát ven biển cách chân núi không xa; hoặc nằm ngay ở chân núi và tiếp giáp với biển; hoặc các đầm phá, vũng vịnh biển. Trong số 16 di tích nằm ở địa bàn Khánh Hòa thì có tới 12 di tích nằm ở xung quanh vũng vịnh và đảo ven bờ Cam Ranh, 3 di tích nằm ở vũng vịnh Nha Trang và 1 di tích nằm ở vịnh Vân Phong. Có thể nói, vịnh Cam Ranh là địa bàn cư trú chủ yếu của các nhóm cư dân văn hóa Xóm Cồn.
Ngoại trừ hai địa điểm Vĩnh Yên và Bình Ba là di tích cư trú - mộ táng, phần còn lại đều thuộc dạng di chỉ cư trú. Tầng văn hóa của các di tích đều được hình thành trên lớp đất cát biển, độ dày tầng văn hóa dao động từ 40cm - 140cm tùy theo mức độ cư trú dài ngắn của các nhóm cư dân trên một địa điểm cụ thể. Phần lớn di tích có độ dày tầng văn hóa từ 80cm trở lên. Bên cạnh hiện vật gốm, đá, tích tụ văn hóa chủ yếu là những cụm vỏ nhuyễn thể với mức độ nhiều ít khác nhau. Dạng tích tụ văn hóa này là một đặc trưng khá riêng biệt ở các di tích giai đoạn tiền sơ sử ở Nam Trung Bộ nói chung và trong văn hóa Xóm Cồn nói riêng.
Đặc trưng nổi bật nhất của nhóm hiện vật đá Xóm Cồn là sự đơn giản trong kỹ thuật chế tạo, nguồn nguyên liệu dồi dào có thể khai thác tại chỗ. Bên cạnh đó, chất liệu đá xấu nên khía cạnh thẩm mỹ của nhóm đồ đá ít được chú trọng. Chúng tôi nhận thấy loại đồ trang sức đá có đặc điểm là nghèo nàn về loại hình, ít về số lượng và kém về chất lượng. Nhóm công cụ lao động đá được làm phổ biến các loại rìu, bôn, đục đá chuôi hẹp. Chúng có kích thước trung bình, làm từ đá basalte được khai thác tại chỗ. Loại hòn ghè - đập - kê làm từ cuội tự nhiên có số lượng khá lớn.
Các loại hình hiện vật khác như bàn đập vỏ cây, cưa đá, khuôn đúc rìu đồng... cũng được tìm thấy trong một số di tích giai đoạn muộn.
Về kỹ thuật chế tác, ghè đẽo và mài là hai thủ pháp chủ đạo được sử dụng chế tác các loại hiện vật rìu, bôn, đục. Kỹ thuật khoan, cưa, đánh bóng dù ít xuất hiện nhưng cũng thấy ở một số đồ trang sức.
Nhìn chung, người Xóm Cồn đã nắm trình độ kỹ thuật chế tác đồ đá khá cao. Việc không sử dụng nhiều các kỹ thuật khoan ren, cưa, chuốt bóng chỉ là do nguồn nguyên liệu đá (có thể khai thác phổ biến và chất liệu đá xấu) quy định.
Đặc trưng nổi bật nhất của nhóm đồ xương và nhuyễn thể trong văn hóa Xóm Cồn là những mảnh vòng trang sức và lõi vòng làm từ vỏ ốc tai tượng.
Bên cạnh nhóm đồ trang sức, hóm công cụ lao động đồ xương và nhuyễn thể trong văn hóa Xóm Cồn là những mũi lao và mũi nhọn được chế tạo từ những mảnh xương ống động vật. Hoặc một số con dao kích cỡ nhỏ làm từ những mảnh vỏ trai rất sắc bén.
Còn đặc trưng nổi bật nhất của nhóm đồ gốm trong văn hóa Xóm Cồn là hầu hết chúng có đặc điểm khá đồng nhất về loại hình. Chất liệu, hoa văn trang trí và kỹ thuật chế tạo khá đơn giản. Loại hình đồ gốm khá đơn điệu với các loại nồi, vò, bát bồng... nhưng lại có nhiều kiểu biến thể khác nhau. Chẳng hạn như, cùng một loại nồi đáy tròn thì phong phú về dáng kiểu: miệng loe có dáng hơi loe, hoặc loe thẳng, hoặc loe cong, hoặc loe gãy, hoặc có dạng vành miệng hơi khum lòng máng, hoặc có kiểu miệng mép tròn, hoặc có miệng mép vuông. Cũng có dạng nồi phong phú về dáng kiểu vai như: có nồi vai hơi xuôi, có nồi vai cong tròn.
Chất liệu gốm Xóm Cồn phần lớn là loại gốm pha cát kích cỡ trung bình. Đặc biệt, trong xương gốm, người ta còn thấy có hiện tượng trộn thêm vỏ nhuyễn thể giã nhỏ.
Có hai nhóm chất liệu chính là gốm xương đen và gốm xương đỏ. Trong đó, loại gốm xương đen có tỉ lệ áp đảo.
Nhóm gốm tô màu và vẽ màu là đặc trưng của đồ gốm Xóm Cồn, màu được sử dụng thường là màu đỏ sẫm, da cam hoặc vàng da cam, nhưng phổ biến nhất là màu đỏ. Mặt ngoài đồ gốm được miết láng, có màu nâu hoặc nâu nhạt, đôi khi có màu đen. Ngoài ra, còn có một số lượng lớn mảnh gốm được xử lý lớp áo ngoài màu đỏ hoặc nâu đỏ, nhiều mảnh có lớp áo được chuốt thổ hoàng.
Hoa văn đồ gốm khá đơn giản. Hầu hết đều là loại hoa văn chải kỹ thuật bằng loại que nhiều răng. Loại hoa văn mỹ thuật như văn khắc vạch hình sin, khắc vạch theo băng, in chấm, dán thêm, tô màu… có số lượng rất ít.
Về mặt kỹ thuật, gốm Xóm Cồn được chế tạo bằng phương pháp nặn tay, chủ yếu là bàn đập hòn kê kết hợp với thủ pháp dán gắn.
Trên cơ sở hai mẫu phân tích niên đại di tích Xóm Cồn và Bích Đầm (Khánh Hòa), kết quả cho thấy là 4140 ± 80 năm và 2935 ± 65 năm. Các nhà nghiên cứu đã ghi nhận văn hóa Xóm Cồn nằm trong khung niên đại khoảng 3500 - 3000 năm[Vũ Quốc Hiền 1996]. Còn mẫu phân tích ở di chỉ Vĩnh Yên (Khánh Hòa) được khai quật năm 2009 đã cho kết quả là 2080 ± 80 năm và 2120 ± 70 năm. Họ còn cho biết rằng, thời điểm kết thúc của văn hóa Xóm Cồn ở vào khoảng thế kỷ II Trước Công nguyên [Nguyễn Ngọc Quý, Trần Quý Thịnh 2010].
2.2. Cụm di tích mộ táng Hòa Diêm
Cụm di tích Hòa Diêm gồm 4 di tích phân bố liền khoảnh ở thôn Hòa Diêm, xã Cam Thịnh Đông, thành phố Cam Ranh, phía nam tỉnh Khánh Hòa. Sau khi được phát hiện vào năm 1999, tại đây, đã triển khai nhiều cuộc khai quật nghiên cứu vào các năm 1999, 2002, 2007, 2008 và 2010. Kết quả khai quật ghi nhận: đây là một khu vực cư trú - mộ táng có niên đại nằm trong khoảng từ thế kỷ V - VI trước Công nguyên đến thế kỷ I - II sau Công nguyên. Trong đó, khu cư trú có niên đại thế kỷ V - VI đến thế kỷ II - III trước Công nguyên và khu mộ táng có niên đại thế kỷ I - II trước sau Công nguyên.
2.2.1. Khu mộ táng Hòa Diêm
Khu mộ táng Hòa Diêm gồm 4 loại hình chủ yếu là: mộ chôn lần đầu, mộ cải táng, mộ hỏa táng và mộ đất.
Đặc trưng nổi bật của mộ táng Hòa Diêm là những mộ chum hình cầu kích cỡ lớn. Chúng được chế tạo với mục đích chuyên biệt là làm quan tài chôn người chết. Đa phần chum bị ghè miệng và mài lại một cách có chủ ý. Kích thước trung bình của chum cao 40cm, đường kính miệng 30 - 40cm, đường kính thân 50 - 70cm, thân dày từ 1,5 - 2cm.
Hình thức chôn cất có loại chum chôn thành từng cụm, có loại nằm đơn lẻ, có loại hai chum úp nhau chôn thẳng đứng, có loại nắp chum kiểu giống như bát mâm bồng. Trong chum, các tử thi có hình thức mai táng hoặc một hoặc nhiều tử thi trong một chum. Cá biệt, có mộ chôn tới 6 cá thể người chết như M11-2008.
Đồ tùy táng chôn theo được đặt ở cả phía trong và ngoài chum. Bao gồm: đồ sắt (búa, rìu, dùi, liềm, dao, đục, kiếm, giáo, nhẫn...), đồ đồng (lục lạc), đồ xương, đồ gốm (nồi, bát bồng, bát mâm bồng, bát, bình, âu, liễn, chậu...), đồ trang sức (các hạt trang sức bằng vàng; hạt chuỗi chất liệu đá quý, thủy tinh, đá mã não có hình tang trống, hình cầu, hình cầu dẹt, hình trụ tròn...; vòng tay làm từ vỏ nhuyễn thể)...
2.2.1. Khu cư trú Hòa Diêm
Khu cư trú Hòa Diêm được hình thành trên địa hình cồn cát. Tầng văn hóa là lớp đất cát màu đen. Trong đó, có những tích tụ như: vỏ sò, xương động vật, than tro và gốm vỡ. Tất cả tập trung thành từng đám với những tầng văn hóa được phân bố dày mỏng không đều ở các địa điểm khác nhau hoặc ngay trong một địa điểm. Nếu ở Gò Duối tầng văn hóa dày 0,8m thì ở Gò Miếu kết quả khảo sát lại ghi nhận tầng văn hóa dày trên 1,2m.
Tại Gò Duối, người ta đã phát hiện một số bếp lửa. Bếp thường có dạng hình gần tròn, nhiều than tro, khá nhiều vỏ sò bị đốt cháy. Trong bếp, thường có nhiều thức ăn phế thải như: xương, răng cá, càng tôm, cua, xương động vật và mảnh gốm vỡ.
Hiện vật thu được chủ yếu là gốm mảnh. Đồ gốm ở đây nhìn chung không đa dạng về loại hình, chủ yếu là đồ đựng và đồ đun nấu, rất ít gốm có chân đế. Gốm có đặc điểm thô, pha khá nhiều cát và sạn nhỏ. Chúng có các màu chủ đạo là gốm xương xám đỏ, áo xám đỏ và gốm xương đen, áo xám đỏ. Hoa văn kỹ thuật chủ yếu là văn chải. Chúng ta gần như không thấy văn thừng, văn trang trí của các loại như: ấn lõm, in mép vỏ sò, in chấm que nhiều răng, khắc vạch, văn in, tô màu. Kỹ thuật tạo hình đồ gốm phổ biến là kỹ thuật nặn tay kết hợp với kỹ thuật xoay chậm. Nhìn chung, nhóm di tích cư trú Hòa Diêm cùng có đặc điểm chung với các di tích khảo cổ học ở vùng Nam Trung Bộ, cùng chung môi trường sinh thái nhân văn, đó là không gian “văn hóa cồn bàu” [Nguyễn Đăng Cường 2004; Bùi Chí Hoàng 2008, 2010; Lâm Mỹ Dung, Hoàng Thúy Quỳnh 2008].
2.3. Khu mộ chum Diên Sơn
Khu mộ chum Diên Sơn được người dân phát hiện vào đầu năm 1988. Tháng 6-1988, Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam phối hợp với Bảo tàng tỉnh Phú Khánh đã đến Diên Sơn khảo sát và khai quật chữa cháy cụm mộ chum. Cụm mộ này gồm 4 chiếc. Nhưng 3 chiếc đã bị phá huỷ do quá trình đào giếng. Như vậy, chỉ còn lại 1 chiếc khá nguyên vẹn. Năm 1994, trong khi tiếp tục khảo sát khu vực này, các nhà nghiên cứu đã tìm thêm được một chiếc chum nữa trong tình trạng bảo quản rất tốt.
Mộ chum Diên Sơn có một số đặc điểm như: chum mộ hình trụ, miệng loe thẳng vươn rộng ra ngoài so với thân, vai hơi thắt, đáy hình lòng chảo sâu, chum cao 82cm, đường kính miệng 64cm, đường kính thân 46cm. Gốm xương nâu, áo nâu, xương gốm thô, dày, mặt ngoài không trang trí hoa văn. Kỹ thuật tạo hình là dải cuộn kết hợp với bàn đập hòn kê như kỹ thuật tạo những chum gốm cùng loại ở khu vực Trung Trung Bộ.
Bên ngoài của chiếc chum khai quật năm 1984, ta tìm thấy 4 nồi gốm miệng loe, thân hình cầu, kích cỡ nhỏ. Loại nồi gốm thường gặp trong các mộ chum ở khu vực Trung Trung Bộ. Chất liệu gốm màu nâu, lớp áo ngoài màu nâu, xương gốm pha cát kích cỡ từ trung bình đến khá thô. Hầu hết nồi, ở trên thân đều có dấu ấn của văn thừng kỹ thuật. Kỹ thuật tạo tác là nặn tay.
Mộ chum Diên Sơn cũng giống như đặc điểm chung của nhóm di tích mộ táng văn hóa Sa Huỳnh phân bố ở Quảng Nam, Quảng Ngãi, có niên đại nằm trong khoảng trên dưới 2000 năm. Tuy tại đây, các loại hình công cụ bằng kim khí rất mờ nhạt, chưa tìm thấy đồ trang sức với các loại hình như khuyên tai có mấu, khuyên tai hai đầu thú hoặc hạt mã não… vốn rất quen thuộc trong các khu mộ chum thuộc văn hóa Sa Huỳnh ở các nơi khác [Nguyễn Công Bằng và nnk 2002].
3. Các đới văn hóa tiền sơ sử Khánh Hòa trong mối quan hệ nội tại
Qua tư liệu ở trên, chúng ta thấy rằng các di tích khảo cổ tiền sơ sử ở Khánh Hòa đều phân bố trên những cồn cát cổ nhưng không gian phân bố cũng có một vài khác biệt. Nếu không gian phân bố các di tích văn hóa Xóm Cồn nằm kéo dài trên toàn bộ vùng ven biển và đảo ven bờ (thuộc tỉnh Khánh Hòa và một phần tỉnh Ninh Thuận, đặc biệt tập trung phân bố ở vùng vịnh Cam Ranh) thì không gian phân bố của cụm di tích Hòa Diêm chỉ nằm quần tụ ở khu vực cồn cát ven biển. Nó giáp núi ở phía nam vũng vịnh Cam Ranh. Còn khu mộ chum Diên Sơn lại phân bố trên một gò cát cổ giáp núi và hướng ra đồng bằng Diên Khánh rộng lớn ở trước mặt.
Theo thời gian, văn hóa Xóm Cồn là nhóm có niên đại sớm nhất với thời điểm bắt đầu khoảng 3.500 năm BP. Những tư liệu mới thu thập cho thấy rằng: văn hóa Xóm Cồn có giai đoạn cuối phát triển song song với giai đoạn cư trú của nhóm di tích Hòa Diêm. Khu mộ chum Diên Sơn là di tích có niên đại muộn nhất trong ba nhóm văn hóa này và với niên đại trên dưới 2000 năm BP.
Về đặc trưng văn hóa, chúng ta thấy văn hóa Xóm Cồn và cụm di tích Hòa Diêm có sự tương đồng trong cách chọn khu vực cư trú. Đó thường là vùng cồn bàu ven biển. Tầng văn hóa cư trú có cấu tạo là đều có tích tụ vỏ nhuyễn thể, xương động vật, than tro và gốm vỡ tập trung thành từng đám. Ở giai đoạn cuối, văn hóa Xóm Cồn xuất hiện một số yếu tố gần gũi với Hòa Diêm. Điều này thể hiện ở chỗ một số mộ chôn người chết theo tư thế nằm thẳng ở Vĩnh Yên khá giống táng thức cùng kiểu thấy ở một số mộ huyệt đất phát hiện trong khu cư trú Hòa Diêm 2 [Bùi Chí Hoàng 2010] và Gò Duối [Lâm Mỹ Dung, Hoàng Thúy Quỳnh 2007].
Loại hình đồ gốm “tô có chân, chân tròn loe đỡ tô (bát gắn sau bên trên)” và “văn gốm, chủ yếu là văn vạch, in chấm” tìm thấy ở Xóm Cồn cũng đã thấy xuất hiện ở Hòa Diêm [Lương Ninh 1999].
Ngoài ra, dạng táng thức chôn người chết ở Vĩnh Yên và Bình Ba là bằng vò gốm trong văn hóa Xóm Cồn cũng giống như khởi đầu của táng thức mộ chum hình cầu ở Hòa Diêm.
Tuy nhiên, Hòa Diêm và Xóm Cồn vẫn còn tồn tại những khác biệt khá lớn. Đầu tiên là Hòa Diêm có khu mộ táng với những chum gốm chuyên biệt. Hoặc Hòa Diêm xuất hiện nhiều nhóm hiện vật kim loại, đồ trang sức, đồ gốm mà không thấy xuất hiện ở Xóm Cồn. Rõ ràng sự khác biệt này mang tính lịch đại.
Nhưng vấn đề cần giải quyết là: Văn hóa giữa Xóm Cồn và Hòa Diêm có mối quan hệ như thế nào? Liệu có sự phát triển kế thừa từ Xóm Cồn đến Hòa Diêm? Đó là sự phát triển trực tiếp hay gián tiếp? Và nếu phát triển trực tiếp thì những yếu tố nội sinh cũng như ngoại sinh nào tác động tới sự phát triển đó? Đây là những vấn đề cần tiếp tục đào sâu nghiên cứu để tìm ra câu trả lời.
Mặt khác, ta có thể dễ dàng nhận thấy khu mộ chum Diên Sơn thuộc một truyền thống khác với hai nhóm còn lại ở Khánh Hòa. Đây là di tích thuộc về truyền thống Sa Huỳnh ở khu vực Trung Trung Bộ.
4. Các đới văn hóa tiền sơ sử Khánh Hòa trong mối quan hệ khu vực
Các nhóm di tích trên có sự tương tác với các văn hóa khác ở các khu vực xung quanh với mức độ đậm nhạt khác nhau.
4.1. Văn hóa Xóm Cồn
Trong văn hóa Xóm Cồn, không gian phân bố di tích chủ yếu trên các cồn cát vùng ven biển và đảo gần bờ. Đó là sự thành tạo tầng văn hóa trên đất cát biển với những tích tụ văn hóa là các cụm vỏ nhuyễn thể và vết tích liên quan đến sinh hoạt mang đặc điểm chung của khu vực biển Nam Trung Bộ.
Còn những ngôi mộ vò hình cầu kích cỡ lớn có hoặc không có đồ tùy táng chôn theo mang nhiều điểm tương đồng với những mộ vò tương tự tìm thấy ở một số di tích có cùng niên đại tại vùng Trung và Nam Tây Nguyên như: Buôn Triết, Thôn Bảy (Gia Lai), Buôn Râu (Đắk Lắk)...
Nhóm hiện vật văn hóa Xóm Cồn còn mang nhiều đặc điểm gần gũi và thể hiện mối quan hệ khá đặc biệt với các nhóm di tích đồng đại ở khu vực Nam Tây Nguyên và Đông Nam Bộ.
Đồ đá Xóm Cồn với hai nhóm chính là công cụ và đồ trang sức. Nhóm công cụ lao động có số lượng nhiều nhất trong nhóm đồ đá. Chất liệu đá làm rìu và đục đá chủ yếu là đá basalte hạt mịn, loại hình rìu chuôi nhọn chiếm vị trí chủ đạo, nó gợi lại những hình ảnh của nhóm rìu đá cùng loại phổ biến ở khu vực Đông Nam Bộ [Lê Xuân Diệm 1997] và ở các di chỉ thuộc vùng trung tâm tỉnh Đắk Lắk [Nguyễn Ngọc Quý, Trần Quý Thịnh 2008]. Những mảnh khuôn đúc rìu ở Vĩnh Yên tương tự như những mảnh khuôn đúc tìm thấy phổ biến ở khu vực Đông Nam Bộ. Những mảnh bàn đập vỏ cây ở Vĩnh Yên tương tự những hiện vật cùng loại tìm thấy phổ biến ở Tây Nguyên và nó cũng mang đặc trưng chung của nhóm loại hình hiện vật này ở khu vực Đông Nam Á [Tang Chung 2001]. Nhóm đồ trang sức thu được có tỉ lệ khá khiêm tốn so với nhóm công cụ lao động với các loại mảnh vòng, hạt chuỗi, khuyên tai...
Đồ gốm Xóm Cồn có nhiều điểm tương đồng với nhóm di tích phân bố ở khu vực trung tâm tỉnh Đắk Lắk cả về loại hình, chất liệu và hoa văn trang trí. Gốm Xóm Cồn cũng có nhiều điểm gần gũi với đồ gốm giai đoạn sơ kỳ kim khí ở lưu vực sông Đồng Nai, thể hiện ở sự phổ biến nhóm văn chải kỹ thuật. Cách trang trí những đường vạch ngang trên nền văn chải khá phổ biến ở các địa điểm Bến Đò, Cái Vạn… hay gốm vẽ màu với họa tiết vạch ngắn song song hoặc những đường vòng cung ở Bưng Bạc đều thấy xuất hiện ở Xóm Cồn [Vũ Quốc Hiền, 1998].
Loại gốm vẽ màu trên bề mặt miết láng với những họa tiết hình vòng cung (hay xoáy ốc) bằng màu đỏ sẫm và vàng da cam ở Xóm Cồn cũng giống với phong cách trang trí trên gốm Bản Chiềng (Thái Lan) [Vũ Quốc Hiền, 1996]. Mặc dù, cho đến nay, chưa có chứng cớ nào cho thấy mối liên hệ qua lại giữa hai nền văn hóa này.
Từ những đặc điểm tương đồng giữa văn hóa Xóm Cồn với khu vực Nam Tây Nguyên và Đông Nam Bộ, ta thấy: “nguyên khối Nam Tây Nguyên, Nam Trung Bộ, Đông Nam Bộ vào thời kỳ tiền sử có chung một quỹ đạo phát triển hoặc từ gốc Trường Sơn Nam tràn xuống vùng thấp hơn mà khu vực Khánh Hòa - Thuận Hải là những không gian gần và thoáng. Trên cái gốc chung rộng đó, các yếu tố văn hóa ở duyên hải Nam Trung Bộ và Đông Nam Bộ hiển nhiên có quan hệ mật thiết”. Ông còn cho rằng khu vực rộng lớn này là một không gian văn hóa ở giai đoạn kim khí [Bùi Chí Hoàng 2009].
Theo chiều lịch đại, những dấu ấn Xóm Cồn được ghi nhận trong đồ gốm Sa Huỳnh. Điều này thể hiện ở hiện tượng bôi màu đỏ kết hợp với ánh chì miết bóng và văn khắc vạch đặc trưng của văn hóa Sa Huỳnh, đặc biệt ở giai đoạn sớm.
4.2. Cụm di tích Hòa Diêm
Hòa Diêm là di tích thể hiện mối quan hệ rộng rãi với khu vực rộng lớn bên ngoài: xuyên xuốt dải duyên hải miền Trung đến Nam Bộ Việt Nam và mở rộng ra cả khu vực Đông Nam Á hải đảo.
Dựa vào sự thể hiện trên sưu tập đồ gốm, người ta khẳng định mối quan hệ giữa Hòa Diêm và các nhóm di tích Tiền Sa Huỳnh - Sa Huỳnh ở khu vực Trung Trung Bộ. Đồ gốm Hòa Diêm có nhiều điểm tương đồng với đồ gốm trong các di tích Tiền Sa Huỳnh ở khu vực Trung Trung Bộ, đặc biệt là thủ pháp trang trí khắc vạch, in ấn và tô màu. Trong đồ gốm Tiền Sa Huỳnh ở Trung Trung Bộ, ta thấy phổ biến loại văn in mép vỏ sò tạo thành nhiều motif khác nhau. Đó là dạng văn tô màu đỏ thổ hoàng và tô đen ánh chì kết hợp với các băng trang trí in chấm khá gần gũi với đồ gốm Hòa Diêm.
Sự tương đồng giữa đồ gốm Hòa Diêm và đồ gốm Sa Huỳnh còn thể hiện trong những diễn biến về chất liệu, loại hình và hoa văn đồ gốm. Đặc biệt nhóm gốm trang trí hoa văn in mép vỏ sò, với các môtíp vạch thẳng song song xiên chéo nhau tạo thành các băng đối xứng, các đường cong dạng sóng nước, các băng hoa văn răng sói hay đệm răng sói…đã góp một vai trò lớn hình thành nên đặc trưng của nhóm đồ gốm giai đoạn Sa Huỳnh ở khu vực Nam Trung Bộ [Hoàng Thuý Quỳnh 2010].
Bên cạnh đó, nhóm mộ chum hình cầu Hòa Diêm cũng có nhiều nét gần gũi với những khu mộ chum vò hình cầu thuộc văn hóa Sa Huỳnh ở Xóm Ốc, Suối Chình trên đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi).
Tiến về phía nam, khu mộ chum Hòa Diêm có sự tương đồng đặc biệt với các khu mộ chum đã được khai quật nghiên cứu ở vùng ngập mặn Cần Giờ (thành phố Hồ Chí Minh) và khu mộ chum Xuân Lộc (Đồng Nai). Điều này thể hiện ở nhóm mộ chum hình cầu được chế tạo chuyên làm quan tài mộ. Trong chum, vẫn còn di cốt người được mai táng. Táng thức chủ yếu là hung táng và cải táng người chết nằm theo tư thế bó gối đặt trong chum. Hiện tượng cà đập miệng chum và mài lại; đồ tùy táng được đặt cả bên ngoài và trong chum với những loại hình nồi, bát, âu, bình, vò gốm... đồ trang sức hạt chuỗi mã não, thủy tinh hình cầu tròn, dẹt...phổ biến ở Hòa Diêm cũng thấy khá phổ biến ở các khu mộ chum đã đề cập ở trên [Bùi Chí Hoàng 2009].
Như vậy, trong một chừng mực nhất định, ta có thể ghi nhận rằng Hòa Diêm gần gũi với nhóm di tích ở vùng Nam Bộ hơn so với khu vực Trung Trung Bộ.
Sự tương đồng giữa đồ gốm Hòa Diêm, đặc biệt là gốm khu vực cư trú, ta còn thấy xuất hiện trong các văn hóa Hoa Lộc; văn hóa Bàu Tró phân bố ở vùng Bắc Trung Bộ; văn hóa Lung Leng và văn hóa Biển Hồ ở phía Bắc Tây Nguyên. Điều này thể hiện ở nhóm đồ gốm sử dụng thủ pháp trang trí hoa văn bằng cách in mép vỏ sò. Tuy nhiên, các đồ án hoa văn lại mang phong cách khác nhau. Do đó, những sự tương đồng này không phản ánh mối quan hệ nguồn gốc.
Trong không gian khu vực, cụm di tích Hòa Diêm còn có sự tương đồng về loại hình. Đặc biệt là về hoa văn đồ gốm với “phức hệ gốm Sa Huỳnh - Kanalay” [Solheim II W.G. 1966] ở khu vực Đông Nam Á hải đảo. Đồ gốm ở các di tích Tiền Sa Huỳnh - Sa Huỳnh ven biển miền Trung Việt Nam có sự tương đồng với đồ gốm ở Kanalay (Philippines) và Samui (Thái Lan). Chúng được thể hiện qua phong cách trang trí hoa văn in mép vỏ sò trên miệng, vai và trên thân đồ gốm với nhiều mô típ khác nhau như: in vỏ sò hình ô trám, ô trám lồng, in hình răng sói, hình zíc zắc, hình sóng nước... Đối với trường hợp Hòa Diêm, sự tương đồng về đồ gốm ở đây còn được đẩy lên cao hơn nữa. Chẳng hạn như, sự xuất hiện cùng một loại hình nồi gốm kích cỡ nhỏ miệng thấp, thân hình cầu tròn hoặc hơi gãy, cổ trang trí băng văn vạch thẳng ngắn xiên chéo song song và loại âu/bát/niêu miệng rộng, thân thấp, đáy hình lòng chảo nông, trên thân trang trí các băng hoa văn in mép vỏ sò...
Trong một bài viết gần đây, Y.Mariko nghiên cứu đồ gốm di tích Hòa Diêm trong không gian gốm Sa Huỳnh - Kanalay đã ghi nhận rằng gốm Hòa Diêm có sự khác biệt khá lớn với gốm Sa Huỳnh và chỉ ra rằng có sự liên kết mạnh mẽ giữa đồ gốm Hòa Diêm với đồ gốm ở miền Trung Philippines và Đông Bắc Thái Lan [Y.Mariko 2009].
Bên cạnh đó, ở Hòa Diêm, ta còn thấy hiện diện nhiều yếu tố văn hóa tương đồng với các khu vực xung quanh. Ví dụ như: chiếc cốc/ly chất liệu gốm mịn màu hồng ở Hòa Diêm rất giống với những hiện vật cùng loại trong văn hóa Óc Eo (Việt Nam) và Angkor Borei (Campuchia) có niên đại thế kỷ II sau Công nguyên [Bùi Chí Hoàng, Y Mariko, Nguyễn Kim Dung 2010]. Hoặc những mảnh gốm có niên đại đầu Công nguyên trang trí văn in ô vuông kiểu Hán cũng được tìm thấy ở lớp trên di tích.
4.3. Khu mộ chum Diên Sơn
Dạng mộ chum hình trụ và những chiếc nồi chôn tùy táng ở Diên Sơn mang truyền thống văn hóa Sa Huỳnh, gặp phổ biến trong các di tích Sa Huỳnh từ Thừa Thiên Huế đến Bình Định. Về cơ bản, có thể xác định đây là nhóm mộ chum hình trụ thuộc văn hóa Sa Huỳnh phân bố xa nhất về phía Nam.
5. Thay lời kết
Do đặc tính địa lý tự nhiên quy định nên Khánh Hòa, ngay từ thời tiền sơ sử, với vị trí “ngã tư đường”, đã trở thành một trung tâm hội tụ và giao lưu văn hóa giữa các tộc người khác nhau.
Bức tranh văn hóa tộc người trên cơ sở những tư liệu khảo cổ học hiện có, có thể phác họa như sau. Ở giai đoạn khoảng 5500 - 4500 năm BP, mức nước biển tiếp tục dâng cao, có thời điểm cao hơn mức nước biển hiện tại khoảng 4m - 5m đã hình thành nên nhiều dải cồn cát chạy song song với bờ biển và lấn sâu vào đất liền. Sau thời điểm này, mức nước rút thấp dần và đạt mức nước biển hiện tại ở thời điểm khoảng 3000 năm trước [Nguyễn Quang Miên 2010]. Thời điểm này, các cư dân Hậu kỳ đá mới - Sơ kỳ kim khí ở khu vực phía Nam Tây Nguyên, theo các dòng sông và rãnh núi, bắt đầu tiến xuống “chiếm lĩnh” vùng không gian rộng lớn ven biển và định cư trên các cồn cát biển cao ráo, thoáng đãng vừa mới hình thành, tạo nên văn hóa Xóm Cồn. Những cư dân Xóm Cồn sống bằng nhiều nguồn lợi tự nhiên khai thác sản vật biển, rừng. Từ những đồng bằng nhỏ hẹp, lầy lội đang được thành tạo ở sau lưng, họ đã định hướng kinh tế khai thác biển là quan trọng nhất.
Mặt khác, ta cũng nhận thấy, các đồng bằng của Khánh Hòa trong quá trình thành tạo đã gặp nhiều khó khăn. Đây cũng là yếu tố không thuận lợi để con người định cư sinh sống. Đồng thời, đó cũng là lý do để lý giải vì sao chúng ta không phát hiện được di tích khảo cổ giai đoạn tiền sơ sử nằm ở khu vực các đồng bằng.
Bước vào giai đoạn cuối văn hóa Xóm Cồn, ở thời điểm khoảng 2.500 năm BP đến thời điểm trước sau Công nguyên, các nhóm cư dân ở nơi khác cũng tiến vào và định cư trên đất Khánh Hòa tạo nên các di tích Hòa Diêm và Diên Sơn. Nếu Diên Sơn là trường hợp đã xác định chắc chắn là của người Sa Huỳnh có địa bàn cư trú chính ở Trung Trung Bộ di cư tới, thì trường hợp của Hòa Diêm lại là vấn đề còn đang được thảo luận. Dẫu vậy khả năng cư dân Hòa Diêm là những người nói tiếng Nam Đảo và có thể là những người di cư từ biển vào là xu hướng được nhiều người chấp thuận [Bùi Chí Hoàng và nnk 2010].
Trong diễn trình này, người Xóm Cồn đã đi đâu? Chúng tôi cho rằng các cư dân Xóm Cồn, một phần hòa nhập vào với những nhóm cư dân mới. Phần còn lại (có lẽ nhiều hơn?) dần co cụm về lại địa bàn cư trú xưa cũ của tổ tiên. Từ đó, hình thành nên một số nhóm dân tộc thiểu số ở khu vực chân núi phía Nam dãy Trường Sơn, mà một trong số đó là dân tộc Raglai hiện nay.
Trong tương lai, hướng tiếp cận liên ngành và đa ngành kết hợp giữa dân tộc học, khảo cổ học, cổ nhân học và địa lý văn hóa học... hứa hẹn sẽ đem lại một kết quả to lớn, mở ra bức tranh văn hóa tộc người đa màu sắc trên đất Khánh Hòa.
Tài liệu tham khảo và trích dẫn
- 1.Bùi Chí Hoàng 2008: Báo cáo khai quật di tích khảo cổ học Hòa Diêm (Cam Thịnh Đông, Cam Ranh, Khánh Hòa), Tư liệu Bảo tàng Khánh Hòa.
- 2.Bùi Chí Hoàng 2009: Không gian văn hóa Sa Huỳnh - nhận thức từ tư liệu khai quật di tích Hòa Diêm (Cam Ranh, Khánh Hòa). Tham luận Hội thảo 100 năm phát hiện, nghiên cứu văn hóa Sa Huỳnh, TP. Quảng Ngãi.
- 3.Bùi Chí Hoàng 2010: Báo cáo sơ bộ khai quật khu di tích Hòa Diêm (Cam Thịnh Đông, Cam Ranh) lần thứ 3 – 2010, Tư liệu Bảo tàng Khánh Hòa.
- 4.Bùi Chí Hoàng, Y.Mariko, Nguyễn Kim Dung 2010: Excavations of Hoa Diem, 2007 and 2010 seasons. Tham luận Hội thảo Khảo cổ học tiền sơ sử Khánh Hòa, TP. Nha Trang.
- 5.Hoàng Thúy Quỳnh 2010: Đồ gốm văn hóa Sa Huỳnh, Tạp chí Khảo cổ học, số 1.
- 6.Lâm Mỹ Dung, Hoàng Thuý Quỳnh 2007: Báo cáo kết quả khai quật Gò Duối và Đình Hòa Diêm năm 2007, Hà Nội, Tư liệu Bảo tàng Khánh Hòa.
- 7.Lê Xuân Diệm 1997: Văn hóa “Hậu đá mới” ở hạ lưu sông Đồng Nai (Nam Bộ - Việt Nam). Trong Một số vấn đề về khảo cổ học ở miền Nam Việt Nam.-Hà Nội: NXB Khoa học xã hội.
- 8.Lương Ninh 1999: Xóm Cồn - Hòa Diêm - Sa Huỳnh. Tham luận Hội thảo 90 năm văn hóa Sa Huỳnh (1909 - 1999).-Hà Nội: Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam.
- 9.Nguyễn Công Bằng, Nguyễn Tâm, Đặng Thị Thu, Phạm Công Hoàng 2003: Khu di tích mộ chum Diên Sơn (Khánh Hòa). Trong Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 2002.-Hà Nội: NXB Khoa học xã hội.
- 10.Nguyễn Đăng Cường 2004: Báo cáo kết quả khai quật di tích Hòa Diêm, xã Cam Thịnh Đông, thị xã Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa, Khóa luận tốt nghiệp K25 tại chức Khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa học xã hội & nhân văn Hà Nội.
- 11. Nguyễn Gia Đối 2004: Nhận diện sơ bộ các đới văn hóa tiền sử ở Đắk Lắk, Tạp chí Khảo cổ học, số 3.
- 12.Nguyễn Ngọc Quý, Trần Quý Thịnh 2010: Văn hóa Xóm Cồn một số vấn đề thảo luận, Tham luận Hội thảo Khảo cổ học tiền sơ sử Khánh Hòa, TP. Nha Trang.
- 13.Nguyễn Quang Miên 2010: Các đới bờ ven biển và một số dẫn liệu về địa môi trường khu vực Nam Trung Bộ Việt Nam, Tạp chí Khảo cổ học, số 2.
- 14.Solheim II W.G. 1966: Further relationships of the Sa Huynh - Kanalay pottery tradition, Asian Perspectives, Vol VIII.
- 15.Tang Chung 2001: Về bàn đập vỏ cây bằng đá thời tiền sử ở Đông Á. Trong Một thế kỷ khảo cổ học Việt Nam, tập 1.-Hà Nội: NXB Khoa học xã hội.
- 16.Trần Kiêm Hoàng 2009: Yếu tố biển trong văn hóa Raglai, Luận văn thạc sỹ Văn hóa học, Trường Đại học Khoa học xã hội & nhân văn thành phố Hồ Chí Minh.
- 17.Trần Quý Thịnh, Nguyễn Ngọc Quý 2008: Di tích Buôn Râu - nhận thức qua cuộc khai quật năm 2007, Tạp chí Khảo cổ học, số 6.
- 18.Vũ Quốc Hiền 1996: Văn hóa Xóm Cồn và vị trí của nó trong thời đại kim khí ven biển miền Trung, Luận án Phó Tiến sĩ khoa học Lịch sử, Viện Khảo cổ học, Hà Nội.
- 19.Y.Mariko 2009: A Comparative study between Sa Huynh and Sa Huynh related pottery in Southeast Asia, Tham luận Hội thảo 100 năm văn hóa Sa Huỳnh, Viện văn hóa nghệ thuật Việt Nam-Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Quảng Ngãi, TP. Quảng Ngãi.
Nguồn: Văn hoá biển đảo Khánh Hoà, NXB Văn hoá, 2012.